Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

FTU TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH CÔNG TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG đến TĂNG TRƯỜNG KINH TẾ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
--------***--------

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG
ĐẾN TĂNG TRƯỜNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan
Sinh viên thực hiện:
Đào Minh Hoàng
Lê Tuấn Nghĩa
Chu Thị Huyền
Bùi Thị Xuân Hồng

1413310051
1413310096
1413310064
1413310052

Hà Nội, tháng 10 năm 2017


MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................ 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU.....................................................................................1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
Nợ công là một phần quan trọng và khơng thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia.
Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như
Việt Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao


như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử
dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ cơng cần phải được sử
dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu khơng thì khủng hoảng nợ cơng có thể
xảy ra với bất cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả
nghiêm trọng. Trong khi đó, nợ cơng của Việt Nam hiện nay đang ở mức 61%
GDP với tốc độ tăng trưởng nợ hàng năm cao. Với tốc độ này, nợ công của Việt
Nam sẽ vượt 100% GDP, một con số đáng báo động đối với một nền kinh tế nhỏ
đang phát triển và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thơ và
cơng nghiệp nhẹ.......................................................................................................3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU...................................4

1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước và nước ngồi.................................4
1.2. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích......................................................11
1.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................17
1.4. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................17
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.............................................17
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NỢ CÔNG,
THÚC ĐẤY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM..................................43

3.1. Các đề xuất quản lý nợ công phù hợp đối với Việt Nam....................43
3.2. Kết luận...................................................................................................51


Khi quản lý nợ cơng được xem là chìa khóa của chiến lược quốc gia trong việc
đảm bảo đẩy mạnh và duy trì lối thốt từ gánh nặng nợ, nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và phát triển bền vững mà khơng gây ra bất kỳ một khó khăn nào
trong hồn trả nợ thì việc đo lường, ước lượng sự tác động của nợ công đến tăng
trưởng kinh tế là điều cần thiết............................................................................54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................55
PHỤ LỤC............................................................................................................... 57



1

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1.1
Hình 1.2
Bảng 2.1
Biểu đồ 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Biểu đồ 2.6
Biểu đồ 2.7
Biểu đồ 2.8
Biểu đồ 2.9
Biểu đồ 2.10
Biểu đồ 2.11
Bảng 2.12
Bảng 2.13
Bảng 2.14
Bảng 2.15
Biểu đồ 2.16
Biểu đồ 2.17
Bảng 2.18
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 3.3
Bảng 3.4
Biểu đồ 3.5

Biểu đồ 3.6

Tên
Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của
IMF
Sơ đồ cơ chế truyền dẫn tác động của nợ công đến GDP
Các chỉ tiêu về nợ cơng và nợ nước ngồi của quốc gia
của Việt Nam
Rủi ro nợ cơng của Việt Nam
Bảng thống kê tình hình vay và trả nợ của chính phủ Việt
Nam giai đoạn 2011-2015
Bảng thống kê tình hình vay và trả nợ được chính phủ
bảo lãnh giai đoạn 2011-2015
Bảng thống kê tình hình vay và trả nợ trong nước của
chính quyền địa phương giai đoạn 2011-2015
Dư nợ vay của chính phủ
Dự báo dư nợ các khoản vay của Chính phủ
Tăng rịng dư nợ các khoản vay
Dự báo lãi suất
Dự báo dòng trả lãi của Chính phủ
Tổng vốn đầu tư tồn xã hội 2006-2015
Thống kê chỉ số ICOR của Việt Nam
Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội theo thành phần kinh tế
Tốc độ tăng trưởng đầu tư công, GDP, CPI và hiệu quả
đầu tư cơng (thơng qua hệ số ICOR) trung bình năm
So sánh hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước và tồn
bộ nền kinh tế (thơng qua hệ số ICOR)
Hệ số MP của khu vực nhà nước và ngoài nhà nước
Hiệu quả chi ngân sách nhà nước giai đoạn 1998 - 2015
Chênh lệch giá trị giữa kịch bản mô phỏng với giá trị

thực tế
Cơ cấu chi tiêu công
Tỷ lệ nợ cơng trên GDP
Dự báo các khoản nợ vay của chính phủ
Kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020
Tốc độ tăng trưởng GDP các quý đầu năm
Dự đoán các chỉ tiêu về nợ công đến 2020

Trang
11
16
19
21
23
24
24
25
25
26
27
27
32
32
33
35
35
36
37
38
43

44
45
47
49
52


2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
NSNN
TP
DN
TPCP
LS
ADP
GDP
ICOR
WB
GNI

Nghĩa viết tắt
Ngân sách nhà nước
Trái phiếu
Doanh nghiệp
Trái phiếu chính phủ
Lãi suất
Ngân hàng phát triển châu Á
Tổng sản phẩm quốc nội

Hệ số sử dụng vốn
Ngân hàng thế giới
Tổng thu nhập quốc dân


3

LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công là một phần quan trọng và khơng thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia.
Từ những nước nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt
Nam, Campuchia hay những cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như
Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng
của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ cơng cần phải được sử dụng hợp
lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu khơng thì khủng hoảng nợ cơng có thể xảy ra với bất
cứ quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Trong khi đó, nợ cơng của Việt Nam hiện nay đang ở mức 61% GDP với tốc độ
tăng trưởng nợ hàng năm cao. Với tốc độ này, nợ công của Việt Nam sẽ vượt 100%
GDP, một con số đáng báo động đối với một nền kinh tế nhỏ đang phát triển và phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ
Nhận thấy được điều này, kết hợp với bài kiểm tra giữa kỳ mơn Tài chính cơng,
nhóm chúng em xin chọn đề tài “Tác động của Nợ công đến tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu, phân tích tác động cũng như đưa ra các kiến nghị,
giải pháp cho tình hình nợ cơng của Việt Nam hiện nay.
Đề tài được kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Tác động của nợ công đến tang trưởng kinh tế ở Việt Nam
Chương 3: Kết luận và đề xuất giải pháp hạn chế nợ công, thúc đẩy tang trưởng
kinh tế ở Việt Nam
Để hoàn thiện đề tài này, trước hết, em xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan đã
hướng dẫn, đóng góp ý kiến, giải đáp những thắc mắc cho em trong quá trình viết

đề tài. Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện đề tài nhưng do thời gian viết tiểu luận ngắn
cùng với sự hiểu biết còn hạn hẹp nên bài tiểu luận này khơng tránh khỏi những sai
sót. Rất mong cơ đóng góp ý kiến để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2017
Nhóm sinh viên thực hiện


4

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước và nước ngoài
Cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước Châu Âu vào năm 2010 khiến cho vấn đề nợ
công ở các quốc gia trên thế giới trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Hầu hết các
nghiên cứu tập trung vào tác động gây bởi nợ ngày càng cao của các quốc gia lên
tăng trưởng kinh tế và cũng mang lại nhiều động lực trong các năm qua. Chỉ một số
rất ít các nghiên cứu cho rằng nợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong khi gần một
nửa kết luận nợ tăng lên làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và hơn một nửa cịn lại
nói rằng quy luật này đúng chỉ khi dựa trên một tỷ lệ nhất định của nợ theo GDP,
nghĩa là tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế có tính phi tuyến.
Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến tác động dương của nợ lên tăng trưởng kinh
tế được thực hiện gần đây. Khởi đầu là nghiên cứu của Moore & Thomas (2010)
cho nhóm các quốc gia đang phát triển. Hai Moore và Thomas nhận định lượng vốn
có từ vay nợ có tác động dương lên tăng trưởng nếu nó được dùng để mở rộng năng
suất lao động của quốc gia. Thực vậy, thông qua cách tiếp cận siêu phân tích (metaanalysis), Moore và Thomas phát hiện tác động dương của nợ lên tăng trưởng kinh
tế. Gần đây hơn, Fincke & Greiner (2015b) cũng nghiên cứu cho nhóm các quốc gia
mới nổi trong giai đoạn 1980 – 2012 bằng ước lượng fixed effects và random
effects. Các kết quả cho thấy nợ cơng có tác động dương ý nghĩa lên tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân đầu người.
Khác với nghiên cứu cho nhóm các quốc gia, Egbetunde (2012), Al-Zeaud (2014)
và Spilioti & Vamvoukas (2015) nghiên cứu cho từng nước riêng lẻ. Egbetunde

(2012) nhận định nợ sẽ có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế nếu chính phủ
minh bạch với lượng tiền vay và sử dụng nó cho sự phát triển kinh tế thay vì qua
các kênh làm lợi cho cá nhân họ. Thơng qua mơ hình VAR và dữ liệu chuỗi của
Nigeria từ 1970 đến 2010, Egbetunde phát hiện nợ cơng có tác động dương ý nghĩa
lên tăng trưởng. Tương tự, Al-Zeaud (2014) phát hiện tác động dương của nợ công
lên tăng trưởng kinh tế ở Jordan trong giai đoạn 1991-2010 bằng cách áp dụng ước


5

lượng OLS. Gần đây, Spilioti & Vamvoukas (2015) cũng phát hiện tác động dương
ý nghĩa của nợ lên tăng trưởng kinh tế ở Hy Lạp trong thời gian 40 năm kể từ 1970.
Khác với các nghiên cứu với kết quả tác động dương của nợ lên tăng trưởng, ở dòng
nghiên cứu với kết quả tác động âm thì hầu hết các nghiên cứu thực hiện dưới dạng
dữ liệu bảng cho một nhóm các quốc gia trong khi các nghiên cứu cho từng quốc
gia riêng lẻ thì khá ít.
Theo đó, các nghiên cứu cho từng quốc gia chủ yếu sử dụng phương pháp ước
lượng ARDL (mơ hình phân phối độ trễ tự hồi qui) và ECM (mơ hình hiệu chỉnh sai
số). Với phương pháp ARDL, Balassone et al. (2011) phát hiện nợ cơng có tác động
âm ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế ở Ý trong giai đoạn 1861 – 2009. Tương tự,
Akram (2015) cũng sử dụng phương pháp ARDL để đánh giá tác động của nợ công
lên tăng trưởng kinh tế và đầu tư ở Philippines trong giai đoạn 1975 – 2010. Kết
quả cho thấy rằng nợ cơng nước ngồi có mối quan hệ âm ý nghĩa với tăng trưởng
kinh tế và đầu tư, khẳng định sự hiệu diện của “hiệu ứng khó vay thêm nợ”. Trong
khi đó, với các phương pháp ước lượng ECM, fixed effects, và dynamic OLS, Mitze
& Matz (2015) tìm thấy tác động âm ý nghĩa của nợ cơng lên GDP bình qn đầu
người trong dài hạn cho các bang của Đức trong giai đoạn 1970 – 2010. Đáng chú
ý, Bal & Rath (2014) sử dụng cả phương pháp ARDL lẫn mơ hình ECM để phát
hiện tác động âm này cho Ấn Độ giữa 1980 và 2011. Khuyến nghị của Mitze và
Matz là chính phủ nên hướng đến mục tiêu công bằng giữa các thế hệ trong quản lý

tài khóa ở dài hạn để ổn định tỷ lệ nợ theo GDP, đặc biệt sau khủng hoảng tài chính
tồn cầu. Gần đây, thơng qua ước lượng chuỗi thời gian theo quý, Lee & Ng (2015)
xác nhận nợ cơng có tác động âm lên GDP ở Malaysia trong giai đoạn 1991 – 2013.
Trái lại, với các nghiên cứu cho nhóm các quốc gia thì các kỹ thuật ước lượng có
khả năng xử lí tính nội sinh trong mơ hình, đặc biệt phương pháp GMM ArellanoBond, được sử dụng nhiều. Với phương pháp ước lượng GMM dữ liệu bảng (sai
phân/hệ thống) thì các nhà nghiên cứu tiêu biểu là Schclarek (2004), Šimić &
Muštra (2012), Calderón & Fuentes (2013), và Zouhaier & Fatma (2014). Schclarek
(2004) phát hiện nợ cơng có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế cho nhóm 59 nước
đang phát triển trong khi khơng tìm thấy tác động nào của nợ công lên tăng trưởng


6

cho nhóm 24 quốc gia cơng nghiệp trong giai đoạn 1970 – 2002. Tương tự,
Calderón & Fuentes (2013) xác định tác động âm ý nghĩa của nợ công lên tăng
trưởng cho 136 quốc gia trong giai đoạn 1970 – 2010. Tuy nhiên, Calderón và
Fuentes nhấn mạnh các thể chế tốt, chính sách trong nước có chất lượng tốt, và các
chính sách hướng ra bên ngồi có thể làm giảm nhẹ tác động âm này. Trong lúc đó,
nghiên cứu của Zouhaier & Fatma (2014) cho 19 quốc gia đang phát triển trong giai
đoạn 1990 – 2011 cũng ủng hộ tác động âm của nợ nước ngoài lên tăng trưởng kinh
tế và một quan hệ âm giữa nợ và đầu tư. Tuy nhiên, ngoài phương pháp ước lượng
GMM, Šimić & Muštra (2012) còn sử dụng thêm các phương pháp fixed effects và
random effects cho 18 quốc gia trong giai đoạn 1990 – 2010. Kết quả ước lượng
cũng cho thấy nợ công cao có tác động âm lên tăng trưởng. Các phát hiện của Šimić
và Muštra đưa ra một lời cảnh báo mạnh về việc cần giữ nợ cơng ở mức kiểm sốt.
Giống như phương pháp GMM, các kỹ thuật ước lượng IV-OLS và PMG cũng có
khả năng xử lí tốt vấn đề nội sinh. Theo đó, thơng qua ước lượng IV-OLS, Panizza
& Presbitero (2012) chỉ ra tác động âm của nợ công lên tăng trưởng kinh tế cho bộ
dữ liệu gồm 17 quốc gia OECD trong giai đoạn 1981 – 2008. Tương tự, Časni et al.
(2014) phát hiện nợ cơng có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn

lẫn dài hạn cho một nhóm 14 quốc gia Trung, Đông và Đông Nam Châu Âu từ 2000
đến 2011 với phương pháp ước lượng PMG. Časni và các cộng sự đề xuất việc thiết
kế khung chính sách hướng đến xuất khẩu, thúc đẩy phát triển công nghiệp và tạo
môi trường tốt hơn cho đầu tư dài hạn nên thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Ngoài ra, các kỹ thuật ước lượng như OLS, fixed effects và random effects cũng
được sử dụng. DiPeitro & Anoruo (2012) tìm thấy cả quy mơ chính phủ lẫn sự gia
tăng nợ cơng có tác động âm lên tăng trưởng kinh tế cho 175 quốc gia trên thế giới
từ 1997 đến 2008 với kỹ thuật fixed effects và random effects trong khi Fincke &
Greiner (2015a) phát hiện tác động âm có ý nghĩa của nợ cơng lên tăng trưởng cho
bộ dữ liệu bảng của 7 quốc gia phát triển trong giai đoạn 1970 – 2012 với kỹ thuật
pooled OLS và random effects. Nhất quán với các nghiên cứu trên, Szabó (2013)
nhận thấy một phần trăm gia tăng trong tỷ lệ nợ khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế
giảm đi 0.027% trong khi với các thành viên gia nhập sau 2004, mức độ tác động


7

này cao hơn (0.041%) khi sử dụng phương pháp OLS cho 27 quốc gia EU trong
giai đoạn 2008 – 2011.
Mới đây, Eberhardt & Presbitero (2015) sử dụng các ước lượng tuyến tính và phi
tuyến với các kỹ thuật hồi qui mới nhất để nghiên cứu tác động này ở 118 quốc gia
từ 1961 đến 2012. Eberhardt và Presbitero cũng phát hiện tác động âm của nợ công
lên tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở tất cả các quốc gia.
Quả thực, đa số các nghiên cứu về nợ công và tăng trưởng phát hiện tác động phi
tuyến của nợ công lên tăng trưởng kinh tế. Theo đó, các nghiên cứu thực nghiệm
xác định được giá trị ngưỡng của nợ công mà dưới giá trị này nợ cơng có tác động
dương và trên nó thì nợ cơng có tác động âm ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Đặc
biệt giá trị ngưỡng này tùy thuộc nhiều vào mẫu nghiên cứu, thời gian nghiên cứu
và phương pháp ước lượng.
Liên quan đến loại nghiên cứu này thì có 3 mẫu nghiên cứu tiêu biểu là các nhóm

nước đang phát triển, các nhóm nước phát triển và hỗn hợp của hai nhóm này. Sự
khác biệt giữa nhóm các nước đang phát triển và phát triển nằm ở giá trị ngưỡng
của nợ công theo GDP. Thơng thường giá trị ngưỡng nợ cơng của nhóm các nước
phát triển và cơng nghiệp cao hơn so với nhóm các nước đang phát triển.
Liên quan đến các quốc gia đang phát triển, giá trị ngưỡng nợ công thường dao
động trong khoảng 40 – 60% GDP. Pattillo et al. (2011) phát hiện ngưỡng nợ công
theo GDP ở khoảng 35 – 40% cho nhóm 93 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn
1969 – 1989 với các phương pháp ước lượng như OLS đơn giản, biến công cụ, tác
động cố định và GMM hệ thống. Pattillo và các cộng sự cho rằng nợ cao làm giảm
tăng trưởng kinh tế chủ yếu bởi việc giảm hiệu suất đầu tư. Tương tự, Craigwell et
al. (2012) cũng tìm thấy giá trị ngưỡng của nợ công theo GDP nhưng cao hơn (55 –
56%) cho 12 quốc gia vùng Caribbe từ 1980 đến 2010 với mô hình hồi qui ngưỡng
(fixed effects). Craigwell và các cộng sự nhận thấy ở mức nợ thấp hơn 30% GDP,
việc gia tăng nợ gắn với sự phát triển kinh tế nhanh hơn. Tuy nhiên, khi nợ tăng trên
30%, tác động lên tăng trưởng kinh tế giảm dần nhanh chóng và ở mức ngưỡng 5556%, tác động này dịch chuyển từ dương sang âm. Gần đây, Wright & Grenade
(2014) lại tìm thấy giá trị ngưỡng của nợ công cho 13 quốc gia Caribbe là 61%


8

bằng phương pháp ước lượng DOLS dữ liệu bảng. Khác với các nghiên cứu vừa đề
cập, Chang & Chiang (2011) phát hiện ra hai giá trị ngưỡng của nợ công theo GDP
(32.88% và 55.89%) cho 21 quốc gia đang phát triển ở Mỹ Latin và Caribbe trong
khoảng thời gian 1992 – 2006 bằng mơ hình hồi qui ngưỡng bảng PSTR. Hai giá trị
ngưỡng này hình thành nên 3 vùng tác động trong đó ở vùng giữa nợ cơng có tác
động dương trong khi ở vùng bên trái và vùng bên phải thì nợ lại có tác động âm lên
tăng trưởng.
Ngồi ra, cũng có một số ít nghiên cứu cho riêng một quốc gia. Maghyereh et al.
(2003) chỉ ra giá trị ngưỡng nợ công của Jordan trong giai đoạn 1970 – 2000 là 53%
với kỹ thuật ước lượng OLS ngưỡng. Maghyereh và các cộng sự nhận định khi nợ

nước ngoài ở Jordan vượt quá mức này, tác động của nó lên hiệu quả của nền kinh
tế trở nên âm. Tương tự, Kaur & Mukherjee (2012) ước lượng giá trị ngưỡng của nợ
chính phủ theo GDP ở Ấn Độ là 61% trong thời gian từ 1980 đến 2013. Hai nhà
nghiên cứu nhấn mạnh nếu nợ chính phủ vượt quá giá trị này, mối quan hệ nghịch
giữa nợ và tăng trưởng sẽ hình thành.
So với các quốc gia đang phát triển thì nền kinh tế các nước phát triển vận hành ổn
định và bền vững hơn với các thể chế và chính sách được thiết kết tốt hơn. Vì vậy,
giá trị ngưỡng nợ theo GDP ở nhóm các quốc gia phát triển và cơng nghiệp dao
động trong khoảng cao hơn, ước tính 80 – 110%. Đặc biệt, các nghiên cứu có phần
tập trung nhiều vào nhóm các quốc gia Châu Âu. Theo đó, Checherita-Westphal &
Rother (2012), Baum et al. (2013) và Topal (2014) đều có cùng mẫu nghiên cứu là
12 quốc gia Châu Âu nhưng kết quả cho thấy giá trị ngưỡng khác nhau. Với phương
pháp ước lượng ngưỡng (fixed effects), kết quả của Checherita-Westphal & Rother
(2012) trong khoảng thời gian 40 năm từ 1970 chỉ ra giá trị ngưỡng nợ công theo
GDP trong khoảng 90 – 100%. Trong khi đó, Baum et al. (2013) phát hiện giá trị
ngưỡng này là 67% trong thời gian nghiên cứu 1990 – 2010 với cùng phương pháp
ước lượng như Checherita-Westphal & Rother (2012). Tuy nhiên, với mơ hình
ngưỡng đa biến trong giai đoạn 1980 – 2012, Topal (2014) phát hiện tồn tại đến 2
giá trị ngưỡng, 71.66% và 80.21%. Topal nhận thấy tác động của nợ lên tăng trưởng
GDP dương và có ý nghĩa cao khi mà tỷ lệ nợ dưới 71.66%. Tác động này thay đổi


9

hướng và độ lớn một khi tỷ lệ nợ vượt quá giá trị ngưỡng ban đầu. Giữa 71.66% và
80.21%, tỷ lệ nợ có tác động âm lên thành quả kinh tế. Và trên 80.21%, tác động
vẫn duy trì giá trị âm nhưng độ lớn giảm dần. Từ các phát hiện này, cả 3 nghiên cứu
đều có chung nhận định chính phủ ở các nước Châu Âu này nên giảm nợ để hỗ trợ
các triển vọng tăng trưởng kinh tế dài hạn hơn. Cũng với mẫu nghiên cứu là nhóm
14 quốc gia Châu Âu trong khoảng thời gian 1970 – 2012 nhưng giá trị ngưỡng của

nợ công theo GDP trong nghiên cứu của Afonso & Alves (2014) là 75% thông qua
các phương pháp ước lượng OLS, FE, 2SLS và GLS. Tương tự, mẫu nghiên cứu
của Mencinger et al. (2014) mở rộng cho 25 quốc gia thành viên của EU nhưng
được chia tách thành hai nhóm, nhóm các thành viên cũ trong giai đoạn 1980 –
2010 và nhóm các thành viên mới trong giai đoạn 1995 – 2010. Với các phương
pháp ước lượng fixed effects và GMM, kết quả cho thấy giá trị ngưỡng cho nhóm
các thành viên cũ và nhóm các thành viên mới lần lượt là 80 – 90% và 53 - 54%.
Khơng như các nghiên cứu cho nhóm các quốc gia Châu Âu, Cecchetti et al. (2011)
sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 18 quốc gia OECD từ 1980 đến 2010 với phương
pháp ước lượng LSDV. Kết quả cho thấy giá trị ngưỡng nợ công ở khoảng 85%
GDP. Cecchetti và nhóm nghiên cứu cho rằng các quốc gia với nợ cao phải hành
động nhanh chóng và quyết đốn để giải quyết các bài tốn tài khóa của họ, chẳng
hạn xây dựng một vùng đệm tài khóa để xử lí các biến cố bất thường, và nhấn mạnh
đến việc giữ nợ ở dưới các giá trị ngưỡng được ước lượng. Tuy nhiên, với mơ hình
hồi qui ngưỡng bảng PSTR cho 20 nền kinh tế phát triển trong trong giai đoạn 1880
– 2009, Minea & Parent (2012) xác định giá trị ngưỡng nợ cơng ở mức cao hơn, cụ
thể là 115%. Vì vậy, hai nhà nghiên cứu cho rằng cần có thêm bằng chứng trước khi
đề xuất các khuyến nghị chính sách liên quan đến tác động của chính sách tài khóa
ở những cơ chế nợ cơng cao.
Có thể nói nghiên cứu của Rogoff & Reinhart (2010) đặt nền tảng đầu tiên cho các
nghiên cứu mang tính chính thống của ngưỡng nợ cơng. Với cơng trình nghiên cứu
bài bản đăng trên tạp chí số 1 về kinh tế học (American Economic Review), Rogoff
& Reinhart (2010) đã phát một thơng điệp mang tính cảnh báo cho việc vay nợ quá
mức ở một số quốc gia. Thông qua các phương pháp thống kê và phân tích, Rogoff


10

& Reinhart (2010) xác định giá trị ngưỡng nợ công cho 44 quốc gia (cả phát triễn
lẫn đang phát triển) trong giai đoạn 1790 – 2009 là 90%, đồng thời hai nhà kinh tế

cũng phát hiện ngưỡng nợ công ở các nước mới nổi thấp hơn nhiều so với các nước
phát triển. Tương tự, thông qua OLS ngưỡng của Hansen và pooled OLS, Caner et
al. (2010) phát hiện giá trị ngưỡng nợ công cho 101 nền kinh tế đang phát triển và
phát triển trong thời gian 1980 – 2008 là 77% và cho các thị trường mới nổi là 64%.
Trái với các nghiên cứu trước đó, nghiên cứu của Égert (2015) cho thấy mối quan
hệ phi tuyến từ nợ đến tăng trưởng không mạnh mặc dù lấy cùng bộ dữ liệu nghiên
cứu của Rogoff & Reinhart (2010) với mơ hình ngưỡng hai biến được phát triển bởi
Hansen. Mặc dù có sự nghi ngờ, các kết quả cũng chỉ ra giá trị ngưỡng ở khoảng
20% của GDP, sau nó nợ chính phủ có ảnh hưởng âm lên tăng trưởng. Ngồi ra, các
ngưỡng có thể tồn tại nhưng giá trị của chúng hồn tồn bất định. Với nợ chính phủ
trong giai đoạn 1960 – 2009, giá trị ngưỡng ở mức cao hơn 50%. Cuối cùng, ước
lượng cho riêng từng quốc gia cho thấy tính khơng đồng nhất giữa các quốc gia khá
lớn. Với một vài quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, giá trị ngưỡng có thể được phát
hiện ở khoảng 30% GDP. Với các quốc gia khác, các giá trị ngưỡng khơng xác định
được hoặc khơng có ngưỡng. Ơng cho rằng tính bất định này có thể là kết quả của
các tác động ngưỡng thay đổi theo thời gian trong từng quốc gia và có tính phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế ở từng nước.
Cuối cùng, khác với các nghiên cứu mang tính định lượng cho tác động phi tuyến
của nợ công lên tăng trưởng, Real et al. (2014) phát triển về mặt lý thuyết một mơ
hình cân bằng tổng thể với các thành phần độc lập để lý giải mối quan hệ dạng U
ngược giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế. Phân tích của nhóm nghiên cứu tập
trung không chỉ vào hiệu ứng chèn lấn (crowd out) mà cịn vào hiệu ứng thúc đẩy
(crowd in) mà nợ cơng tác động lên đầu tư tư nhân trong một nền kinh tế ràng buộc
về tài chính và xác định được cơ chế tạo nên mối quan hệ có dạng U ngược trong
q trình phát triển. Khi tỷ lệ nợ cơng theo GDP dưới một mức ngưỡng nhất định,
hiệu ứng thúc đẩy lấn át hiệu ứng chèn lấn và nợ công tích lũy thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Khi tỷ lệ này vượt q mức ngưỡng, nợ cơng tích lũy bắt đầu cản trở tăng
trưởng kinh tế với hiệu ứng chèn lấn lấn át hiệu ứng thúc đẩy.



11

1.2. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
1.2.1. Khái niệm nợ cơng của các tổ chức quốc tế

Hình 1.1: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF
Nguồn: IMF (2010)
Theo IMF (2010), nợ công được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công. Đi kèm
với đó là định nghĩa cụ thể về khu vực cơng, bao gồm khu vực Chính phủ và khu
vực các tổ chức cơng (Hình 1.1).
Cịn theo WB (2002), nợ cơng là tồn bộ những khoản nợ của Chính phủ và những
khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh.


12

Theo quy định của Luật quản lý nợ công năm 2009 của Việt Nam, nợ công được
hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương.
Như vậy, có thể nhận thấy là định nghĩa nợ công của Việt Nam gần giống với những
gì mà World Bank đã xác định và khá hẹp so với những định nghĩa rộng hơn của
IMF (2010). Trong nghiên cứu này, nợ công được xác định theo cách định nghĩa của
IMF (2010). Theo đó, nợ cơng bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài.
1.2.2. Bản chất kinh tế của nợ công
Theo nguyên tắc, khi việc chi tiêu vượt quá khả năng của nguồn thu từ thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác thì chính phủ buộc phải vay nợ để tài trợ và việc này
khiến nợ công phát sinh. Điều này cho thấy nợ cơng là hệ quả của bội chi ngân sách
của chính phủ và chính phủ có phải có trách nhiệm hồn trả. Vậy thì các nhà kinh tế
học quan niệm như thế nào về việc vay nợ của chính phủ.
Trong lĩnh vực tài chính cơng, các nhà kinh tế học cổ điển luôn nêu bật một nguyên

tắc quan trọng và nhất quán về quản lý ngân sách là nguyên tắc ngân sách cân bằng.
Theo đó, ngân sách cân bằng là ngân sách mà thu và chi bằng nhau. Điều này giúp
chính phủ chi tiêu hợp lý, tránh sự hoang phí và hạn chế tình trạng lạm thu thơng
qua việc ban hành các chính sách thuế và tăng thuế. Nguyên tắc này được khởi
xướng và ủng hộ triệt để bởi các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith, David
Ricardo, và John Stuart Mill (Tsoulfidis, 2007). Vì vậy, hầu hết các nhà kinh tế học
cổ điển khơng đồng tình với việc vay nợ của chính phủ để chi tiêu.
Trái lại, nhà kinh tế học John Maynar Keynes và những người thuộc trường phái
Keynes lại ủng hộ việc vay nợ của chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông
qua chi tiêu (Theocarakis, 2014). Họ lập luận trong những tình huống suy thoái kinh
tế, việc đầu tư của khu vực tư nhân sụt giảm mạnh thì việc gia tăng đầu tư của chính
phủ vào dự án cơng như cơ sở hạ tầng, giáo dục, và y tế thông qua vay nợ sẽ giúp
phục hồi nền kinh tế. Hầu hết các chính phủ đều sử dụng lý thuyết của trường phái
Keynes để vượt qua khủng hoảng kinh tế và tình trạng suy thoái của nền kinh tế.


13

Tuy nhiên, Paul Samuelson, một nhà kinh tế học ủng hộ trường phái Keynes, cho
rằng việc phối hợp cả chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ linh hoạt là
cần thiết để thúc đẩy hiệu quả nền kinh tế vượt qua suy thoái. Điều này cho thấy nợ
công cũng là một công cụ gián tiếp quan trọng trong điều hành kinh tế của các
chính phủ nhưng việc sử dụng nó phải có sự thận trọng và địi hỏi phải có sự phối
hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
1.2.3. Tác động kinh tế của nợ công
Nautet & Van Meensel (2011) cho rằng tác động của chính sách tài khóa – và từ đó
của nợ cơng – lên tăng trưởng kinh tế ln là chủ đề của các cuộc tranh luận giữa
các nhà kinh tế học.
Các tác động ngắn hạn và dài hạn của sụt giảm nợ công
Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm liên quan đến tác động của nợ công lên hoạt

động kinh tế có phạm vi khá rộng nhưng khơng đưa ra một câu trả lời rõ ràng về
mối liên hệ giữa nợ công và hoạt động kinh tế (Nautet & Van Meensel, 2011). Thực
vậy, tác động này phụ thuộc rất nhiều vào các tình huống, có thể thay đổi theo thời
gian và có sự khác biệt giữa các nước. Điều quan trọng ở đây là phân biệt giữa tác
động kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn của nợ công.
Tác động trong ngắn hạn
Trong ngắn hạn, các công cụ tài khóa dùng để củng cố kỷ luật ngân sách sẽ làm suy
giảm tăng trưởng kinh tế. Thực vậy, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng
các số nhân ngân sách là dương trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, tác động âm trong ngắn hạn của việc củng cố kỷ luật tài khóa lên hoạt
động kinh tế thay đổi tùy vào các cơng cụ tài khóa được vận dụng. Các cơng cụ có
liên quan đến chi tiêu và đầu tư cơng có tác động mạnh lên hoạt động kinh tế, trong
khi các cơng cụ có liên quan đến chi chuyển nhượng – chẳng hạn thuế hoặc các
phúc lợi xã hội – có tác động yếu hơn. Nguyên nhân là chi chuyển nhượng chỉ có
tác động gián tiếp lên sự thay đổi tiêu dùng hoặc đầu tư thông qua việc điều chỉnh
thu nhập của các hộ gia đình hoặc doanh nghiệp.
Ngồi ra, tác động âm của các công cụ này lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
yếu hơn – hoặc thậm chí khơng hiện diện trong thực tế – nếu tình trạng tài trợ cơng


14

xấu đi và gây quan ngại. Thực vậy, các công cụ tài khóa dùng để củng cố kỷ luật
ngân sách có thể làm tăng lãi suất, gây bất lợi cho đầu tư tư nhân. Thêm vào đó,
chúng có thể đưa đến sự sụt giảm tỷ lệ tiết kiệm. Theo đó, lý thuyết tương đương
Ricardo cho rằng sự gia tăng nợ công sẽ được bù đắp bằng sự gia tăng tỷ lệ tiết
kiệm tư nhân bởi vì các cá nhân tính đến viễn cảnh gia tăng thuế và cắt giảm chi
tiêu công trong tương lai. Tuy nhiên, lý thuyết tương đương Ricardo dựa trên nhiều
giả định phi thực tế, chẳng hạn như các hộ gia đình khơng đối mặt với các ràng
buộc ngân sách. Kết quả là, mặc dù sự gia tăng nợ cơng có thể đưa đến tỷ lệ tiết

kiệm tư nhân cao hơn, nhưng sẽ không đủ để bù đắp hoàn toàn cho sự sụt giảm
trong tiết kiệm quốc gia rịng. Trong trường hợp đó, tác động âm lên tăng trưởng
kinh tế trong ngắn hạn có thể là rất nhỏ. Vì thế việc củng cố tài khóa (hạn chế thâm
hụt ngân sách và giảm nợ công) không nhất thiết sẽ có tác động âm lên hoạt động
kinh tế.
Quy mơ tác động của việc củng cố tài khóa cũng tùy vào môi trường kinh tế và tiền
tệ được thực thi. Khi củng cố tài khóa được thực hiện trong một nền kinh tế nhỏ,
mở thì tác động ngắn hạn của nó nhỏ hơn nhiều trong trường hợp củng cố tài khóa
được thực hiện đồng thời ở nhiều quốc gia. Kế tiếp, nếu các ngân hàng trung ương
có khả năng áp dụng một chính sách dễ dãi thì củng cố tài khóa ít tổn hại đến tăng
trưởng. Cuối cùng, sự hiện diện của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định có xu hướng
làm tăng tác động âm của củng cố tài khóa lên tăng trưởng, so với hệ thống tỷ giá
hối đối thả nổi đóng vai trị vùng đệm có ý nghĩa.
Tác động trong dài hạn
Ngược lại với các tác động trong ngắn hạn, tác động dài hạn của việc củng cố tài
khóa để đảm bảo tính bền vững của tài trợ cơng là tích cực. Các tác động bao gồm
sụt giảm lãi suất dài hạn do sự thu hẹp trong nguồn cung trái phiếu chính phủ trên
thị trường và sụt giảm phần bù rủi ro. Ngoài ra, sự sụt giảm lãi suất phải trả từ củng
cố tài khóa sẽ giúp các nguồn lực cho chi tiêu công hiệu quả hơn hoặc giảm bớt
gánh nặng thuế.
Theo các nghiên cứu, củng cố tài khóa dựa trên cắt giảm chi tiêu có tính hiệu quả
hơn và có tác động tốt hơn lên tăng trưởng trong dài hạn so với dựa vào sự gia tăng


15

nguồn thu. Đặc biệt nếu ràng buộc ngân sách áp dụng cho chi thường xuyên thay vì
áp dụng cho chi đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và cải tiến. Phạm vi tác động của
củng cố tài khóa lên hoạt động kinh tế tùy vào việc sử dụng lượng tiền tiết kiệm có
được từ cắt giảm các khoản chi khơng hợp lý.

Các cơ chế truyền dẫn
Nautet & Van Meensel (2011) nhận định có nhiều cách trong đó nợ cơng tăng
(giảm) có thể tác động âm (dương) lên hoạt động kinh tế trong dài hạn. Có ba cơ
chế truyền dẫn chính.
Trước tiên, nợ cơng tăng nói chung tương ứng với tiết kiệm của chính phủ giảm,
dẫn đến tiết kiệm quốc gia rịng giảm. Điều này có xu hướng làm lãi suất tăng. Lãi
suất tăng làm giảm đầu tư và làm giảm nguồn vốn. Tích lũy vốn giảm làm chậm sự
đổi mới và làm giảm năng suất. Kết quả là năng suất lao động thấp hơn. Đáng chú ý
tác động lên lãi suất phụ thuộc vào quy mô của khu vực bị tác động bởi nợ cơng
tăng. Nếu sự gia tăng đó được giới hạn trong một nền kinh tế mở nhỏ, tác động lên
lãi suất thị trường chỉ vừa phải. Ngược lại, nếu nợ tăng lên cùng lúc ở các quốc gia
hình thành nên khu vực kinh tế chung, áp lực lên lãi suất thị trường sẽ rất lớn.
Ngoài ra, nợ cơng tăng đưa đến chi phí trả lãi cao hơn. Các chi phí này sau đó được
bù đắp bằng cách cắt giảm các chi tiêu cho năng suất – chẳng hạn như đầu tư công
vào hạ tầng – hoặc được bù đắp bởi thuế cao hơn và tạo nên sự bóp méo của thuế.
Tùy vào các cơng cụ tài khóa được dùng, có thể là tác động âm lên tiêu dùng (trong
trường hợp gia tăng thuế VAT và trách nhiệm trả thuế), lên đầu tư tư nhân (trong
trường hợp thuế vốn), và lên nguồn cung lao động (trong trường hợp thuế thu
nhập).


16

Hình 1.2: Sơ đồ cơ chế truyền dẫn tác động của nợ công đến GDP
Nguồn: Nautet & Van Meensel (2011)
Cuối cùng, nợ công tăng đưa đến rủi ro vỡ nợ, và làm tăng chi phí rủi ro. Chi phí rủi
ro cao hơn làm tăng chi phí tài trợ và có thể đe dọa khả năng thanh tốn của khu
vực cơng. Ngồi ra, điều này có thể dẫn đến lãi suất dành cho các cá nhân và doanh
nghiệp tăng lên.
Lượng nợ cao kết hợp với các điều kiện ngân sách bất lợi sẽ làm tăng tác động xấu

của lượng nợ cao lên lãi suất (Nautet & Van Meensel, 2011). Điều này có nghĩa là
chính phủ sẽ phải cạnh tranh với khu vực tư trong việc vay nợ, tạo nên hiệu ứng
chèn lấn khu vực tư trong việc thu hút nguồn vốn và khiến cho lãi suất tăng cao.
Trong tình huống này, cần quan tâm đến vai trò của các thể chế và cấu trúc thiết lập
ngân sách ban đầu, và các tác động xấu bắt nguồn từ thị trường tài chính. Vì thế,
các yếu tố như thể chế yếu kém và khơng đầy đủ, tiết kiệm tư nhân thấp, dịng vốn
nước ngồi yếu, tính cạnh tranh của nền kinh tế yếu, thất nghiệp cao, khu vực ngân
hàng yếu hoặc nhạy cảm với các tác động xấu sẽ quyết định quy mô tác động của
nợ lên lãi suất. Ảnh hưởng của yếu tố dân số ngày càng già lên tính bền vững của
khu vực cơng cũng có thể là một yếu tố quan trọng.


17

Tác động âm của nợ công lên hoạt động kinh tế cũng có thể được cảm nhận thơng
qua các cơ chế truyền dẫn khác, chẳng hạn như lạm phát kỳ vọng cao hơn, tính bất
định và tính thay đổi của môi trường vĩ mô tăng lên.
Đáng chú ý là trong khi nợ có tác động âm lên tăng trưởng, mối quan hệ nhân quả
ngược lại cũng hồn tồn đúng. Nói cách khác, tăng trưởng kinh tế giảm có xu
hướng làm tăng tỷ lệ nợ.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin và số liệu được công bố trên các phương tiện đại chúng
từ các báo cáo chuyên môn giai đoạn 2011-2015 do các cơ quan chuyên môn thực
hiện.
- Nghiên cứu định tính thơng qua các bước thu thập số liệu thứ cấp từ
nguồn ADB để từ đó xử lý và phân tích nhằm đưa ra những kết luận cụ thể về sự tác
động của nợ công đối với tăng trưởng thông qua các kênh truyền dẫn trung gian.
- Nghiên cứu định lượng dựa trên phân tích các chỉ tiêu số liệu thứ cấp từ
nguồn ADB được ứng dụng cho mơ hình hồi quy tuyến tính ước lượng sự tác động
của nợ nước ngoài đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.

1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc xác định khoảng trống nghiên cứu trên, để đánh giá tác động của nợ
công và lạm phát lên tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, đề tài sẽ hướng đến hai mục
tiêu sau:
(1) Làm rõ mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
(2) Đánh giá thực nghiệm các tác động của nợ công và tương tác của chúng lên tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học
Hầu hết các nghiên cứu trước đây đánh giá hoặc tác động của nợ công lên tăng
trưởng hoặc của lạm phát lên tăng trưởng. Các nghiên cứu đánh giá các tác động


18

đồng thời của nợ công và lạm phát lên tăng trưởng kinh tế là khá ít, đặc biệt là việc
xem xét ảnh hưởng của biến tương tác giữa hai biến vĩ mô này lên tăng trưởng kinh
tế vẫn chưa ai thực hiện. Do vậy, hướng nghiên cứu này đóng góp có ý nghĩa khoa
học cho lĩnh vực nghiên cứu về chủ đề này. Ngoài ra, các kết quả đến từ việc phân
tích và đánh giá thực nghiệm của luận án cịn đóng góp vào việc nghiên cứu mang
tính học thuật cho một quốc gia cụ thể như Việt Nam và các nước đang phát triển
khác, và có thể sử dụng cho việc nghiên cứu có liên quan sau này.
Ý nghĩa thực tiễn
Việc kết hợp cả hai vấn đề này (nợ cơng và lạm phát), đặc biệt có tính đến tác động
của tương tác giữa hai biến nợ công và lạm phát trong cùng một nghiên cứu sẽ giúp
cho việc đề xuất các khuyến nghị liên quan đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho
các chính phủ ở các nước đang phát triển trở nên thực tiễn hơn và có ý nghĩa tổng
thể bởi lẻ việc điều hành chính sách vĩ mơ của chính phủ cịn bao gồm cả sự kết hợp
chặt chẽ và hợp lý giữa nợ công và lạm phát.
Thơng qua kỹ thuật định lượng phù hợp, có độ tin cậy dựa trên các đặc điểm của bộ

dữ liệu nghiên cứu, kết quả phân tích và đánh giá thực nghiệm của đề tài sẽ được sử
dụng để đưa ra các đề xuất hợp lý hơn, giúp cho các nhà làm chính sách của chính
phủ có thêm cơ sở để việc điều hành các chính sách vĩ mơ phù hợp nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao mức sống của người dân và tạo nhiều việc
làm. Ngoài ra, nghiên cứu này có thể đưa ra những phát hiện mới mang tính khoa
học về tác động đồng thời của nợ công và lạm phát, đặc biệt là biến tương tác giữa
hai biến này lên tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Điều này hình
thành nên các cơ sở lý luận cơ bản để giúp các nhà quản lý và đặc biệt những người
hoạch định chính sách cơng có cái nhìn khoa học hơn trong việc đưa ra các quyết
sách mang tính chiến lược nhằm phát triển kinh tế mang tính bền vững, tránh được
khủng hoảng nợ công, và đảm bảo cuộc sống ổn định của người dân.
Ngồi ra, việc thực hiện thành cơng chủ đề nghiên cứu này cũng góp phần hình
thành nền tảng nghiên cứu cho các nghiên cứu tương tự sau này cho riêng Việt
Nam, giúp định hình các gợi ý chính sách cho chính phủ Việt Nam liên quan đến
vấn đề nợ cơng và lạm phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.


19

CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Để đánh giá về thực trạng tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế Việt
Nam, chúng ta có thể xem xét dựa trên các phương diện: Quy mô, cơ cấu và
một số vấn đề khác.
2.1.1. Quy mô
Theo thông tin được công bố của Báo cáo của Bộ Tài chính, nợ cơng Việt Nam tính
theo giá trị và tỉ trọng so với GDP từ 2011 – 2015 như sau:
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu về nợ cơng và nợ nước ngồi của quốc gia của Việt Nam


Nguồn: Báo cáo của Bộ Tài chính


20

Nợ công so GDP đã tăng nhanh, từ 51,7% năm 2010 lên 54,5% năm 2013 và
khoảng 61% năm 2015. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân
sách nhà nước (NSNN) năm 2015 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ
công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay
lại thì khoảng 26,2%. Chính phủ nhìn nhận, sở dĩ nợ cơng tăng nhanh như vậy là
do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu làm kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thu ngân sách bị ảnh hưởng lớn trong khi nhu cầu
chi tăng mạnh. Thu NSNN gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn phải giảm thu để hỗ trợ
doanh nghiệp; đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng; thực hiện các chính sách
xã hội và tiền lương. Vì vậy, giai đoạn 2011 - 2015, Việt Nam đã phát hành 335
nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP), gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006 - 2010
(giai đoạn 2011 - 2014 đã phát hành 250 nghìn tỷ đồng, năm 2015 theo kế hoạch
phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng), đồng thời đã đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vay
ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư các dự án hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng,
y tế, giáo dục, xây dựng nông thôn mới… theo nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Tuy tỉ lệ nợ công trên GDP tương đối cao, nhưng phần lớn là nợ trong nước. Có thể
thấy tỷ lệ nợ nước ngồi trên GDP khá ổn định trong giai đoạn 2010-2015 trong
khoảng 26,6% đến 28,7%. Mức này cao hơn ngưỡng tối ưu 20-25% đưa ra bởi
Clements và cộng sự (2003) nhưng vẫn thấp hơn ngưỡng 35-40% theo tính tốn của
Pattillo và cộng sự (2002).
Ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam phần lớn xuất phát từ
khối lượng lãi phải trả của nợ công trong nước được huy động với lãi suất cao. So
với tổng chi, chi trả lãi chiếm tỷ lệ ngày càng lớn, từ 3,2% năm 2010 tăng lên 6,7%
năm 2014. Xét về số tuyệt đối thì chi trả lãi năm 2014 tăng gấp 2,6 lần so với năm
2010. Chi trả nợ chỉ thấp hơn chi cho giáo dục đào tạo (chiếm 17,3%), lương hưu và

an sinh xã hội (10,8%) và quản lý hành chính (9,7%) và lấn át các khoản chi thường
xuyên khác. Ngân sách trả nợ lấn át các khoản chi khác dẫn tới tỷ lệ nợ công cao.


21

Mức nợ cơng tính đến cuối năm 2016 theo tính tốn của Việt Nam là 63,7% GDP,
trong đó, nợ Chính phủ là 52,6%. Tuy nhiên, đây không phải là mức cao nhất trong
giai đoạn 2016 – 2020. Mới đây, Báo cáo của Bộ Tài chính đã dự báo rằng đỉnh nợ
cơng sẽ rơi vào năm 2017 – 2018 và có thể giảm dần trong những năm sau đó. Cụ
thể, với giả định rằng tăng trưởng GDP vào khoảng 6,7 – 7% thì nợ cơng năm 2017
sẽ lên đến 64,8% GDP. Năm 2018, nợ cơng vẫn duy trì ở mức cao, vào khoảng
64,7% GDP. Và phải đến 2020, nợ công mới có thể giảm điểm phần trăm, lùi về
63,7%.
Ràng buộc này sẽ khiến Chính phủ khơng cịn nhiều dư địa để tiếp tục đẩy tỷ lệ nợ
công/GDP lên mức cao hơn trong những năm sau đó, gây áp lực lớn trong việc
hoạch định các nguồn lực tài chính phục vụ tăng trưởng giai đoạn 2017-2020.
Biểu đồ 2.2: Rủi ro nợ công của Việt Nam (%GDP)

Nguồn: WB, MOF, GSO, và tính tốn của BVSC
Với tăng trưởng GDP thực tế hàng năm dự báo là 6,5% và lạm phát bình quân dự
báo ở mức 4-6% trong các năm tới, GDP danh nghĩa ước tính sẽ tăng bình qn trên
10%/năm. Như vậy, quy mơ nợ cơng hàng năm trên thực tế có thể tăng thêm khoảng
trên 250 nghìn tỷ đồng vì tỷ lệ nợ công không đổi.


22

Như vậy có sự khác biệt về quy mơ của tác động từ nợ cơng trong nước và nước
ngồi đến tăng trưởng kinh tế. Do thâm hụt ngân sách ở Việt Nam chủ yếu được bù

đắp bằng các nguồn vay trong nước nên mặc dù tổng nợ công ở mức khá cao nhưng
tỷ lệ nợ nước ngoài ở mức khá thấp, chủ yếu là nợ ODA. Tuy nhiên, năm 2017 Việt
Nam sẽ “tốt nghiệp” ODA, do đó các khoản nợ nước ngoài từ năm 2017 trở đi sẽ
tiềm ẩn nhiều ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt nam.
2.1.2. Cơ cấu
Theo khoản 2, Điều 1 Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12, nợ công của Việt
Nam bao gồm: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa
phương, trong đó, nợ chính phủ bao gồm nợ trong nước và nợ nước ngồi.
Nhìn chung, cơ cấu dư nợ nước ngồi của Việt Nam phân theo nhóm người đi
vay tương đối ổn định qua các năm. Tuy nhiên, cơ cấu nợ nước ngoài của Việt
Nam chưa hợp lý. Phần lớn các khoản vay là của chính phủ và được chính phủ
bảo lãnh, cịn nợ tư nhân chỉ bằng khoảng xấp xỉ 20% trong tổng dư nợ nước
ngoài của Việt Nam. Điều này tạo áp lực cho chính phủ phải tạo nguồn để trả
nợ. Bảng số liệu cho thấy số dư nợ (nợ nước ngoài và nợ trong nước) tăng dần
qua các năm từ 2011 (52.529,01 triệu USD) lên 94.297,81 triệu USD năm 2015.


×