TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC – MẦM NON
-------------------
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1
Giảng viên hướng dẫn: Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đặng Tố Uyên
Lớp: ĐH Tiểu học C – K6
Năm học: 2018 -2019
Yêu cầu 1: Xem xét – đánh giá việc thực hiện 3 nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt ở trường Tiểu học
Trong thời gian kiến tập 4 tuần (29/10 – 24/11/2018), em nhận thấy mỗi giáo
viên có một phương pháp dạy khác nhau nhưng đa số các giáo viên đã thực tốt 3
nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học. Cụ thể:
Về nguyên tắc phát triển tư duy:
Các tiết dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học đều tuân theo nguyên tắc phát
triển tư duy. GV luôn đặt HS trong trạng thái tư duy liên tục và khuyến khích
HS hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến, suy nghĩ của mình. GV rèn cho HS các
thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp,... GV khơng đưa ra nội
dung bài học mà để học sinh tự tìm ra kiến thức mới. Cụ thể:
- Ở phân môn Học vần lớp 1, bài “eo, ao” (tiết 1): GV luôn yêu cầu HS tự
phân tích các vần “eo”, “ao”, tự cài vần vào bảng gài, tự suy nghĩ để ghép
được tiếng “mèo”, “sao”, tự so sánh hai vần mới với nhau.
=> Giúp HS rèn luyện khả năng tư duy nhanh, chính xác, HS ln trong
trạng thái tư duy liên tục, khắc sâu kiến thức hơn. Qua đó giúp HS thơng hiểu
từng đơn vị ngôn ngữ.
- Ở phân môn Tập đọc lớp 4, bài “Ông Trạng thả diều”: GV cho HS xem
tranh và yêu cầu HS suy nghĩ và trả lời câu hỏi “Tranh vẽ gì?”. GV yêu cầu
HS đọc thầm và trả lời câu hỏi “Bài được chia thành mấy đoạn?”, HS tự suy
nghĩ và chia đoạn theo ý kiến của mình rồi GV mới nhận xét. HS gạch chân
dưới những từ mà bản thân cho là khó hiểu. Trong q trình dạy, GV ln
giao nhiệm vụ cho HS thảo luận, suy nghĩ để trả lời các câu hỏi trong sách
giáo khoa , ngồi ra cịn mở rộng thêm cho học sinh bằng những câu hỏi
mang nội dung giáo dục HS như “Nhờ đâu mà Nguyễn Hiền từ một cậu bé
khơng có tiền đi học đã trở thành Trạng ngun trẻ nhất nước ta?” và những
câu hỏi liên hệ thực tế. Từ đó, HS rút ra bài học cho bản thân.
=> Các hoạt động trên giúp HS học tập tích cực, rèn luyện khả năng tư duy.
Về nguyên tắc giao tiếp (ngun tắc phát triển lời nói):
Trong q trình dạy học, GV luôn tổ chức các hoạt động giao tiếp cho HS
thơng qua thảo luận nhóm, hỏi đáp để tìm hiểu bài, nhận xét bài bạn, đặt câu
hỏi giao lưu giữa các nhóm,... GV ln khuyến khích HS trả lời câu hỏi theo
ý kiến của bản thân. Giao tiếp làm mục đích, hoạt động giao tiếp là chủ đạo.
Cụ thể:
- Trong phân mơn Kể chuyện, HS có thể hình thành kĩ năng nghe – nói một
cách tích cực. HS kể chuyện cho các bạn nghe theo nhóm, đóng vai các nhân
vật trong câu chuyện.
- Ở các tiết Tập đọc mà em đã dự:
+ GV luôn dành nhiều thời gian cho phần luyện đọc. Các em HS luyện đọc
nối tiếp câu, đọc nối tiếp đoạn, đọc các câu văn dài, đọc cả bài. HS đọc bài
theo nhóm, đọc bài cho nhau nghe và giúp nhau sửa lỗi sai về phát âm, cách
ngắt nghỉ câu, GV hỗ trợ HS sửa lỗi sai.
+ Ở hoạt động giải nghĩa từ khó, GV ln cho HS suy nghĩ và thử giải nghĩa
các từ khó.
=> HS được rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, rành mạch,
giúp các em tự tin, năng động.
Về nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học
sinh Tiểu học:
- GV luôn động viên HS bằng những lời khen, lời động viên, những tràng vỗ
tay, chuẩn bị những phần quà nhỏ trong tổ chức trò chơi để tạo hứng thú cho
HS. Đa số các GV đều tuân thủ đúng quy tắc “Khen nhiều hơn chê”. Cụ thể:
+ HS Tiểu học thường dễ mất tập trung, thời gian chú ý còn hạn chế nên GV
thường đưa vào bài những hình ảnh, video minh họa sinh động để thu hút
HS.
+ Khi HS trả lời, dù đúng hay sai thì GV đều khen và khích lệ HS. GV khơng
nói HS sai mà động viên HS để các em tự tin, thoải mái khi phát biểu ý kiến
của bản thân.
+ Ở hoạt động khởi động hay hoạt động củng cố bài, GV thường tổ chức
thành các trò chơi học tập để tạo hứng thú cho HS.
VD: Tiết Tập đọc “Ông Trạng thả diều”, ở hoạt động khởi động GV đã tổ
chức cho HS chơi trò chơi “Cao - thấp – dài - ngắn”.
+ Ở phân mơn Chính tả hay LTVC, GV thường biến tấu các bài tập thành
những trị chơi để HS khơng bị áp lực, nhàm chán.
VD: Ở tiết Chính tả “Cây xồi của ông em”, GV đã biến tấu bài tập 2 thành
trị chơi “Ai nhanh ai đúng” để 2 nhóm thi đua với nhau.
+ Ở phân môn Tập đọc, nhiều GV đã sử dụng hình thức thi đua theo cá nhân,
nhóm cho hoạt động luyện nói.
VD: Ở tiết Tập đọc “Bà cháu”, ở hoạt động luyện tập – thực hành, GV tổ
chức cho HS thi luyện đọc theo nhóm.
- GV cũng chú ý tới trình độ Tiếng Việt vốn có của HS. Cụ thể:
+ Ở phân môn Tập đọc, GV luôn chú ý để sửa lỗi sai về phát âm cho HS.
+ Ở phân mơn Chính tả, GV sẽ nhắc nhở cho HS các từ dễ sai hoặc các từ
khó để HS ghi nhớ chú ý ghi cho đúng.
+ Khi đặt câu hỏi hay đưa ra các yêu cầu, GV luôn sử dụng từ ngữ ngắn gọn,
dễ hiểu để cả lớp đều hiểu.
VD: Trong tiết Học vần lớp 1, bài “eo,ao”, GV sử dụng những câu hỏi phù
hợp cho HS lớp 1 như “Hôm nay các con được học hai vần gì nào?”
* Đánh giá các tiết dạy của giáo viên Tiểu học theo 3 tiêu chí của một tiết
học tích cực:
Được dự giờ các tiết dạy môn Tiếng Việt của các giáo viên trong trường, em
thấy đa số các giáo viên đều thực hiện được 3 tiêu chí của một tiết dạy tích cực.
Cụ thể:
Tiêu chí 1: Mọi học sinh đều được tham gia hoạt động.
Trong các tiết Tiếng Việt, tất cả HS luôn được phát biểu ý kiến của bản thân,
tham gia xây dựng bài, nhận xét, trả lời các câu hỏi để tìm ra kiến thức mới. Cụ
thể:
- Ở phân môn Tập đọc, tất cả HS đều được luyện nói theo nhiều hình thức: nối
tiếp câu, nói tiếp đoạn, thi đua đọc đúng, đọc hay giữa các nhóm.
- Ở phân mơn Chính tả hay LTVC, tất cả HS đều được tham gia trả lời câu hỏi,
tham gia trị chơi dưới hình thức bảng con, phiếu bài tập,...
Tuy nhiên, ở phần kiểm tra bài cũ hay hoạt động trò chơi, ở một số tiết dạy GV
chỉ gọi một vài HS hay đại diện nhóm lên tham gia chứ chưa đảm bảo được tất
cả HS đều tham gia.
Tiêu chí 2: Học sinh tự sản sinh ra kiến thức.
Trong các tiết Tiếng Việt, GV không đưa sẵn kiến thức mới cho HS mà chỉ là
người hướng dẫn, GV đưa ra các câu hỏi để HS tự tìm ra kiến thức mới.
- Ở phân môn Học vần, GV để HS tự phân tích, so sánh, ghép bảng gài, rút ra
tiếng khóa, từ khóa, từ ứng dụng của các vần mới rồi GV mới nhận xét và đưa ra
tri thức mới cho HS.
- Ở phân mơn Tập đọc, GV để HS tìm những từ dễ phát âm sai, từ khó. Nhận xét
bạn đọc bài, tự chia đoạn, nghe GV đọc bài để đọc bài, ngắt nghỉ câu cho đúng.
HS tự rút ra bài học, ý nghĩa của câu chuyện.
- Ở phân môn Tập làm văn (lớp 2), GV đưa ra cho HS các câu hỏi để HS dựa
vào đó và viết thành một đoạn văn. Ngồi ra các em cịn có thể sáng tạo thêm
những câu khơng có trong câu hỏi gợi ý GV đưa ra. HS tự viết nên bài văn của
mình mà khơng theo lối học thuộc.
Tiêu chí 3: Khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng.
Khơng khí lớp học đóng vai trị rất quan trọng trong một tiết dạy.
- Mở đầu tiết học, GV thường khuấy động khơng khí bằng một trị chơi hoặc
một bài hát thay vì hình thức kiểm tra bài cũ khô khan như trước.
- Các kiến thức được GV đưa vào một cách khéo léo, sinh động thông qua việc
sử dụng tranh ảnh, video để thu hút HS.
VD: Ở tiết Tập đọc bài “Ông Trạng thả diều”, GV cho HS xem video về hội thi
thả diều.
Yêu cầu 2: Liệt kê các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực
tế các tiết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học. Thử đưa ra lí giải (nếu
thấy lạ) hoặc đề xuất các ý tưởng về giải pháp khắc phục (nếu thấy bấp
cập).
STT
1
2
Băn khoăn, thắc mắc
Thử lí giải
Ở phân mơn Học phần lớp 1, GV GV có thể linh
cho HS học từ ứng dụng trước
động thay đổi
rồi mới qua phần luyện viết.
quy trình sao
cho HS dễ tiếp
thu hơn.
Ở phân môn Học vần lớp 1 phần GV không cần
luyện viết (tiết 1), GV hướng
chuẩn bị bảng
dẫn HS viết các vần mới, từ mới phụ, tiết kiệm
bằng phần mềm luyện viết trên
thời gian.
Powerpoint, có nên hay khơng ?
Đề xuất ý tưởng,
giải pháp
Nên hướng dẫn
trực tiếp trên
bảng phụ để HS
có thể quan sát
cách lia bút, nối
bút vì trên phần
mềm không thấy
được.
3
Tại sao ở phân môn Học vần lớp
1 phần luyện viết (tiết 1), GV chỉ
cho HS viết vào bảng con các
vần mới chứ không viết từ.
4
Tại sao ở phân môn LTVC,
trong các bài tập đặt câu có từ
cho trước, có nhiều trường hợp
đa số HS đều đặt câu giống
nhau?
Ở phân môn Tập viết, GV không
cho HS nhận xét về độ cao, độ
rộng của các con chữ, không viết
mẫu cho HS xem mà chỉ cho HS
viết vào vở theo mẫu.
5
6
7
Tiết kiệm thời
gian, HS có
thể luyện viết
các từ mới ở
phần luyện
viết (tiết 2).
Có thể GV đã
gài HS để tiết
dạy diễn ra
sn sẻ.
Theo em nên để
HS tự suy nghĩ vì
gài trước sẽ làm
HS cảm thấy
nhàm chán.
GV cần cho HS
phân tích độ cao,
độ rộng của các
con chữ, vừa viết
mẫu vừa hướng
dẫn cho HS.
Ở các tiết dạy bình thường, GV
Đa số HS đều
thường hay rút bớt quy trình, dạy đi học thêm
khơng đúng và đủ quy trình.
nên được học
trước bài, vì
vậy GV chỉ
dạy sơ rồi qua
phần bài tập
luôn.
Khi em đi dự giờ, đa số các GV
đều dạy phân mơn Tập đọc,
LTVC, chỉ có một vài tiết Chính
tả, cịn phân mơn Tập làm văn và
Kể chuyện thì khơng có.
Trên đây là những ý kiến và băn khoăn của em trong đợt kiến tập vừa qua, mong
thầy đọc bài và chỉnh sửa để bài làm của em hoàn chỉnh hơn. Em cảm ơn thầy.