TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
TRIẾT HỌC MAC – LENIN
GVHD: TS. NGUYỄN KHOA HUY
(Sáng thứ 6, tiết 1 – 5)
Nhóm SVTH: 7
Phan Hồng Hậu (Nhóm trưởng – 079 878 6261)
Phạm Thị Trung Quy
Trần Ngọc Phương Uyên
Trần Mai Thuyên
Đào Đặng Minh Thư
N
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020
MSSV
19124240
19110445
19132119
19125223
19132105
1
ĐỀ BÀI TIỂU LUẬN
Câu 1: Anh/chị hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quá. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn của bản thân?
Câu 2: Anh/chị hãy phân tích nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn?
1. Anh/chị hãy phân tích cặp phạm trù nguyên nhân và kết quá. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn của bản thân?
1.1 Phân tích cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả:
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác-Lenin.
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau của các mặt trong cùng
một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào
đó.
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Từ khái niệm nguyên nhân, ta có thể nhận thức được bản thân sự vật, hiện tượng
khơng bao giờ chính là ngun nhân, mà chỉ do có sự tác động của các mặt của sự vật
hiện tượng mới là nguyên nhân. Chúng ta có thể xem xét ví dụ sau để có thể hiểu rõ hơn
về nhận thức này. Hạt lúa không phải là nguyên nhân để có thể nảy mầm thành cây lúa,
mà nhờ có sự tác động của các quá trình sinh học và hóa học mà hạt lúa mới có thể nảy
mầm và phát triển thành cây lúa. Do đó, sự nảy mầm và phát triển thành cây lúa là do
chính các q trình sinh học và hóa học sinh ra chứ khơng phải do chính hạt lúa là ngun
nhân.
Hơn nữa, các sự vật, hiện tượng ln có sự tác động qua lại lẫn nhau và mỗi sự tác
động đó sẽ đem đến những hệ quả hay những kết quả khác nhau nhưng khơng phải là như
vậy thì mỗi sự tác động đó đều được coi là một nguyên nhân. Chỉ xem sự tác động của sự
vật, hiện tượng đó là nguyên nhân khi nó trong mối quan hệ với kết quả. Hay nói cách
khác, nếu sự tác động đó khơng tạo ra kết quả thì khơng gọi nó là nguyên nhân.
Mặt khác, nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Vì vậy ta cần phân biệt được
giữa chúng với nhau.
Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả nhưng khơng sinh ra
kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng đó chỉ là mối liên hệ bên ngồi của kết quả,
1
khơng có mối liên hệ với bản chất của kết quả. Ví dụ: Việc một phần tử Séc-bi ám
sát thái tử đế quốc Áo – Hung chỉ là nguyên cớ của chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, còn nguyên nhân thực sự của cuộc chiến tranh này là mâu thuẫn từ lâu giữa
các quốc gia tham chiến. Hay Mỹ muốn dùng máy bay đánh phá miền bắc Việt
Nam, nguyên nhân do bản chất đế quốc nhưng phải tạo cớ để có thể hành động đó
là gây ra sự kiện vịnh Bắc Bộ vào tháng 8/1964.
Cịn điều kiện, đó là tổng hợp những hiện tượng, yếu tố không phụ thuộc vào
nguyên nhân nhưng có thể giúp nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân điều
kiện không sinh ra kết quả. Ví dụ : Nguyên nhân để xảy ra các phản ứng hóa học là
sự tương tác, phản ứng giữa các chất tham gia để tạo ra các chất sản phẩm, nhưng
để phản ứng xảy ra được thì cần có các điều kiện xúc tác như nhiệt độ, áp suất, chất
xúc tác, mơi trường.
Tính chất của mối liên hệ nhân – quả:
Phép biện chứng duy vật đã khẳng định mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan,
tính phổ biến và tính tất yếu.
-
Tính khách quan của mối liên hệ nhân – quả được thể hiện ở chỗ: mối liên hệ nhân
quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các sự vật, là cái vốn có của bản thân sự
vật, không thể đồng nhất với khả năng tiên đốn. Nó tồn tại ngồi ý muốn của con
người, khơng phụ thuộc vào việc ta có nhận thức nó hay khơng.
-
Tính phổ biến của mối quan hệ nhân – quả được thể hiện ở chỗ: mọi sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều được sinh ra bởi những ngun nhân nhất
định. Khơng có một sự vật, hiện tượng nào xuất hiện mà khơng có nguyên nhân của
nó, chỉ do nguyên nhân đó chưa được chúng ta nhận thức, tìm ra mà thơi.
-
Tính tất yếu của mối liên hệ nhân – quả được thể hiện ở chỗ: khơng phải cứ có ngun
nhân thì sẽ có kết quả mà phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định. Một nguyên nhân trong những điều kiện, hồn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra
một kết quả nhất định mà thơi. Từ đó, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, nếu các ngun
nhân và hồn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng
2
ít khác nhau bấy nhiêu. Tuy nhiên trong thế giới vật chất khơng có sự tác động nào là
hồn tồn giống nhau nên cũng khơng bao giờ có những điều kiện giống nhau hồn
tồn. Vì vậy, mỗi một kết quả bao giờ cũng độc đáo không lặp đi lặp lại trong bất kì
một thời gian, khơng gian nào.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có mối
quan hệ qua lại như sau:
-
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân ln ln có trước kết quả. Cịn
kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và bắt đầu tác động
+ Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào về mặt thời gian của sự vật, hiện tượng cũng là
biểu hiện của mối quan hệ nhân – quả. Ví dụ ngày kế tiếp đêm thì đêm không phải là
nguyên nhân của ngày mà nguyên nhân sinh ra ngày và đêm là do sự quay của trái
đất
+ Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác trong các điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên
nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
+ Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ gây nên
ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên
nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ làm suy yếu,
thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
-
Sự tác động trở lại của kết quả đôi với nguyên nhân: Dù nguyên nhân là cái sản sinh ra
kết quả nhưng sau khi xuất hiện thì kết quả vẫn có thể tác động trở lại nguyên nhân
sinh ra nó. Kết quả có thể thúc đẩy sự hoạt động của ngun nhân hoặc cũng có thể
kìm hãm ngun nhân.
-
Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Một sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ này là nguyên nhân nhưng trong mối quan
hệ khác nó có thể là kết quả và ngược lại.
3
Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi chính kết quả đó lại chuyển hóa thành nguyên nhân
sinh ra một kết quả mới. Quá trình này cứ tiếp tục diễn ra khơng bao giờ có thể kết thúc,
tạo ra một chuỗi nhân quả vơ tận khơng có sự mở đầu và kết thúc.
1.2 Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, trong thế giới vật chất, tất cả mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều có nguyên
nhân của nó và mỗi nguyên nhân đều dẫn tới những kết quả nhất định. Nguyên nhân
không thể được tạo ra trong tưởng tượng của con người mà phải được tìm ra dựa trên hiện
thực thơng qua những căn cứ, bằng chứng rõ ràng. Mỗi con người cần tơn trọng tính tất
yếu, khách quan của mối liên hệ nguyên nhân- kết quả. Khi muốn làm biến mất một hiện
tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó; ngược lại; muốn một hiện nào đó
xuất hiện, cần phải tạo ra nguyên nhân và cả những điều kiện thích hợp cho nguyên nhân
sản sinh ra kết quả.
Thứ hai, một kết quả có thể được tạo ra từ nhiều nguyên nhân; ngược lại; một
nguyên nhân có thể dẫn đến sự hình thành của nhiều kết quả. Trong quá trình hình thành
kết quả, mỗi nguyên nhân đều đảm nhận những vai trò riêng biệt. Trong số các nguyên
nhân sinh ra một sự vật, hiện tượng như nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu,
nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân
khách quan,… thì trước hết cần dựa vào nguyên nhân chủ yếu và ngun nhân bên trong
vì chúng giữ vai trị quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của sự vật, hiện
tượng. Có thể thấy, mối quan hệ nguyên nhân-kết quả phức tạp, đa dạng; muốn xác định
đúng nguyên nhân của hiện tượng cần thận trọng, phân biệt chính xác các loại nguyên
nhân, vạch ra kết quả tác động của từng mặt, từng mối liên hệ.
Thứ ba, mặc dù kết quả được hình thành từ nguyên nhân nhưng nó khơng tồn tại
một cách thụ động. Vì vậy, phải biết tận dụng kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức
và tiếp tục thúc đẩy nguyên nhân phát triển theo hướng tích cực. Một hiện tượng trong
mối quan hệ này là kết quả, nhưng trong mối quan hệ khác có thể là nguyên nhân, nên để
hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét nó trong những mối quan hệ mà nó giữ
vai trị là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ nó là kết quả.
4
Có thể nói, cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả là một trong những cặp phạm trù tất
yếu, cơ bản nhất và có vai trị quan trọng trong thực tiễn và nhận thức.
1.3 Liên hệ thực tiễn bản thân:
Liên hệ thực tiễn bản thân về việc học online trong thời gian giãn cách xã hội để
phòng chống dịch Covid – 19:
Trong thời gian dịch bệnh Covid – 19 khi mà số ca mắc trên thế giới không ngừng
tăng lên và nguy cơ bùng phát dịch bệnh ở nước ta là rất cao. Nhà nước ra chỉ thị giãn
cách xã hội để phòng dịch, tất cả sinh viên trên địa bàn thành phố phải nghỉ ở nhà. Để
đảm bảo tiến độ học tập thì trường Đại học Sư phạm kỹ thuật đã chuyển từ học trực tiếp
trên trường sang học online với hai giai đoạn.
Giai đoạn 1, nhà trường tổ chức học online trên trang dạy học số (lms) của trường
nhưng tôi nhận thấy không hiệu quả.
Nguyên nhân thứ yếu là do hệ thống dạy học số của nhà trường chưa hoàn thiện,
một số giảng viên chưa có phương pháp dạy phù hợp với cách dạy mới nên sinh viên chưa
phát huy khả năng học tập.Nguyên nhân chủ yếu là ở bản thân tơi cũng chưa thích nghi
kịp thời với cách dạy mới, những vấn đề chưa thông suốt không thể tương tác trực tiếp
với giảng viên. Để giải quyết nguyên nhân thứ yếu cần sự tác động của nhà trường. Còn
về phần ngun nhân chủ yếu, để giải quyết nó tơi cần thích nghi với cách học mới, về
những vấn đề chưa hiểu có thể tự tìm hiểu các tài liệu trên internet hoặc liên lạc với giảng
viên qua email hay mạng xã hội. Vì “muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ
nguyên nhân làm nảy sinh ra nó”
Giai đoạn 2, nhà trường nhận thấy học online trên hệ thống dạy học số chưa hiệu
quả nên đã nghiên cứu cách học trên các nền tảng khác như Google meet hay Zoom. Về
phần bản thân tơi đã dần thích nghi với cách học mới và có phần cảm thấy thích kết quả
cách học mới mang lại như khả năng tìm kiếm tài liệu trên internet, làm bài tập, thuyết
trình online.
5
Từ đó ta có thể nhận thấy “Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân
cùng những điều kiện cần thiết. Vì hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động
riêng lẻ hoặc đồng thời cần tùy hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp”. Vì
vậy qua cách giải quyết giai đoạn 1 bằng chuyển sang giai đoạn 2 đã đạt được hiệu quả
nhất định với việc giải quyết đồng thời cả hai nguyên nhân thứ yếu và nguyên nhân chủ
yếu. Trong đó cần dựa vào cách giải quyết nguyên nhân chủ yếu vì “Trong hoạt động
thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong. Bởi
chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tượng.”
2. Anh/chị hãy phân tích nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Từ đó, rút ra ý nghĩa lý luận và thực tiễn?
2.1 Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội:
Chúng ta thấy cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời
sống xã hội đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị xã hội chúng tồn tại trong
mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau tác động lẫn nhau trong đó cơ sở hạ tầng
đóng vai trị quyết định đối với kiến trúc thượng tầng đồng thời kiến trúc thượng tầng thì
thường xun có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng cả theo chiều hướng tích cực
hoạc theo chiều hướng tiêu cực khi nghiên cứu về mối quan hệ này thì Mác đã khẳng định
cái vai trị quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, tuy nhiên ông luôn
thấy được cái sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng . Mác đã
khẳng định rằng giai cấp nào mà đã thống trị về kinh tế thì giai cấp đó thống trị ln về cả
mặt chính trị tư tưởng.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng :
Cơ sở hạ tầng là nguồn góc sinh ra kiến trúc thượng tầng: Tương ứng với một cơ sở hạ
tầng nhất định sẽ sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng phù hợp có tác dụng bảo vệ cơ sở
hạ tầng đó, điều đó có nghĩa là cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó.
Sự biến đổi cơ bản trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng:
đối với mâu thuẩn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẩn trong kiến trúc
6
thượng tầng sự đấu thanh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính
trị xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẩn và cuộc đấu tranh dành lợi ích trong cơ sở
kinh tế của xã hội. Trong cái xã hội mà cơ sở hạ tầng của nó mà có mâu thuẩn có đối
kháng thì đương nhiên nó sẽ được biểu hiện ra trong kiến trúc thượng tầng, thì kiến trúc
thượng tầng đó cũng có mâu thuẫn có đối kháng và cái mâu thuẫn đối kháng trong cơ sở
hạ tầng thực chất là mâu thuẩn đối kháng về kinh tế, về lợi ích kinh tế thì trong kiến trúc
thượng tầng nó biểu hiện ra đó là mâu thuẩn đối kháng về mặt chính trị xã hội , cho nên
cái mâu thuẩn về mặt chính trị xã hội thực chất là phản ánh cái mâu thuẩn đối kháng trong
cơ sở kinh tế của xã hội .
+ Tính chất mâu thuẩn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẩn trong kiến
trúc thượng tầng: Giai cấp nào nắm giữa quyền sở hưu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
thì đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong kiến trúc thượng tầng,
còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác thì ở vào địa vị bị phụ thuộc .
+ Giai cấp thống trị kinh tế sẽ thống trị đời sống chính trị: Những biến đổi trong cơ sở
thượng tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc
thượng tầng điều đó có nghĩa là khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn chính trị,tư
tưởng hay tinh thần …., của xã hội cũng phải thay đổi theo. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý
cái sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng nó diễn ra phức tạp có yếu tố của kiến trúc
thượng tầng nó sẽ biến đổi nhanh khi mà cơ sở hạ tầng thay đổi như là nhà nước, pháp
luật,…
Tóm lại sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng,
nó là một q trình hết sức phức tạp, nguyên nhân của sự biến đổi đó xét cho cùng chính
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, cho nên sự phát triển của lực lượng sản xuất nó
chính là ngun nhân sâu xa của mọi nguyên nhân. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý cái sự
phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất tức là trực
tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và chính sự biến đổi của cơ sở hạ tầng đến lượt nó thì mới
làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi một cách căn bản. Do đó trong xã hội có giai cấp
để thay đổi kiến trúc thượng tầng cho phù hợp với cơ sở hạ tầng phải bằng con đường
7
cách mạng xã hội, tức là phải thông qua cuộc cách mạng xã hội thì mới có thể xóa bỏ
được cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng củ, để xác lập một cái cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng mới để xây dựng mọi cái chế độ xã hội mới cao hơn.
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng :
+ Chức năng xã hội của kinh tế thượng tầng là duy trì, bảo vệ và cũng cố cơ sở hạ tầng đã
sinh ra nó: Cơ sở hạ tầng quyết định đối với kiến trúc thượng tầng nhưng toàn bộ kiến
trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó thì có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Chúng ta lưu ý rằng ngoài chức năng xã hội của kiến
trúc thượng tầng chính là để duy trì bảo vệ và cũng cố cơ sở hạ tầng đã sản sinh ra nó
đồng thời nó cịn có một nhiệm vụ nữa là đấu tranh xóa bỏ cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũ.
+ Nhà nước thường được thể hiện là nhân tố có vai trị tác đọng trực tiếp và mạnh mẽ nhất
tới cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội: Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
hạ tầng có thể thơng qua nhiều phương thức khác nhau trực tiếp hoặc là gián tiếp. Chẳng
hạn cái sự tác động của thiết chế pháp luật thường là tác động trực tiếp còn các thiết chế
khác như nghệ thuật, tôn giáo,…thường biểu hiện gián tiếp và trong các yếu tố tác động
trở lại đối với cơ sở hạ tầng nhà nước thường tỏa ra là yếu tố có tác động trực tiếp và
mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng của một xã hội. Chúng ta thấy rằng trong kiến trúc thượng
tầng có hai cái yếu tố lớn đó là là hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội và các thiết
chế chính trị xã hội thì các yếu tố này nó đều có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng,
nhưng trong các yếu tố đó nhà nước thường tỏ ra là yếu tố tác động trực tiếp nhất mạnh
mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng của một xã hội.
+ Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu
hướng khác nhau: Theo nhiều xu hướng đối lập nhau nó phản ánh cái tính chất mâu
thuẩn, lợi ích của các giai tầng khác nhau và đối lập nhau trong xã hội bởi vì thực chất ở
đây là nó phản ánhtính chất mâu thuẩn lợi ích của các giai cấp tầng lớp khác nhau và đối
lặp nhau cho xã hội trong đó thì có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại tức là
duy trì chế độ xã hội đương thời trong đó lại có sự tác động theo su hướng là xóa bỏ cơ sở
8
kinh tế này và đấu tranh cho việc xác lập một cái cơ sở kinh tế mới khác xây dựng một cái
chế độ mới khác cao hơn.
+ sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo hai su
hướng tích cực hoạc tiêu cực: Chủ yếu nếu kiến trúc thượng tầng nó tác động phù hợp với
các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển,
chúng ta lưu ý là nếu kiến trúc thượng tầng mà nó phù hợp với quy luật kinh tế khách
quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại nếu kiến trúc
thượng tầng tác động ngược chiều ko phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kiềm
hãm sự phát triển của kinh tế xã hội. Đến đây chúng ta thấy rằng cái sự tác động của kiến
trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nó có thể diễn ra theo hai su hướng như trên nó có
thể là su hướng tích cực, nó có thể là xu hướng tiêu cực. Xu hướng tích cực thể hiện ở sự
phù hợp của kiến trúc thượng tầng đối với quy luật khách quan, xu hướng tiêu cực biểu
hiện là kiến trúc thượng tầng nó khơng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
lại là rào cản, trở ngại kiềm hảm sự phát triển kinh tế xã hội.
Vậy ở bên trên thì chúng ta đã tìm hiểu được cái sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, khi nghiên cứu về cái mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chúng ta thấy rằng cơ sở hạ tầng nó quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng nhưng kiến trúc thượng tầng nó khơng thụ động mà nó lại tác động
trở lại đối với cơ sở hạ tầng khi nghiên cứu về mối quan hệ này chúng ta cần lưu ý nếu
nhấn mạnh quá mức vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng tức
là đề cao tuyệt đối hóa cái vai trị quyết định của cơ sở hạ tầng mà khơng thấy được cái
tính độc lập, không thấy được cái sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ
sở hạ tầng thì sẻ rơi vào chủ nghĩa duy kinh tế hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật tầm
thường, nếu đề cao quá mức cái tính độc lập của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm cho nên khi giải thích các hiện tượng thuộc về đời
sống xã hội từ vấn đề chính trị chúng ta phải hết sức lưu ý vấn đề này nếu mà chúng ta đề
cao vai trò của nhân tố kinh tế, đề cao vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thì chúng ta sẽ
rơi vào cái gọi là chủ nghĩa duy kinh tế hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật tằm thường,
9
nhưng ngược lại chúng ta đề cao vai trò của kiến trúc thượng tầng, giải thích hiện tượng
chính trị xã hội mà không thấy được nguyên nhân sâu xa về mặt kinh tế, về mặt cơ sở hạ
tầng sinh ra hiện tượng đó mà thổi phồng cái tính độc lập của kiến trúc thượng tầng thì
đương nhiên nó lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, cho nên chúng ta cần phải nhìn được và
phải đứng trên quan điểm biện chứng thấy được vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối
với kiến trúc thượng tầng nhưng ngược lại phải thấy được sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng điều đó cho thấy giữa kinh tế và chính trị nó có tính độc
lập tương đối.
2.2 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
Ý nghĩa lý luận:
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội là cơ sở khoa học cho mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Cũng giống như
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to
lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng; kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó
kinh tế quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Vì
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, nên muốn đưa đất nước phát triển, khi
vạch ra các đường lối chính sách trước hết phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế. Bởi vì,
tính tất yếu của kinh tế, xét đến cùng quyết định tính tất yếu của chính trị - xã hội. Chính
vì vậy, V.I Lênin đã viết “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế... Chính trị khơng
thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khi kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng
tính tất yếu của kinh tế, kinh tế phát triển nhờ sự thúc đẩy của các quy luật kinh tế khách
quan. Và ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu của kinh
tế, các quy luật khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.
Khi vận dụng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tức là quan
hệ giữa chính trị và kinh tế, phải xuất phát từ kinh tế coi trọng chính trị. Tuyệt đối hóa
một mặt nào đó cũng dẫn tới sai lầm; như tuyệt đối hóa vai trị của kinh tế mà coi nhẹ yếu
tố chính trị sẽ dẫn đến sai lầm của chủ nghĩa duy vật tầm thường, còn tuyệt đối hóa vai trị
10
của chính trị mà coi nhẹ, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm của
chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu là
thông qua đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn
khi triển khai các đường lối, chính sách phải phù hợp, khoa học, phải coi trọng vai trò của
chính trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong việc vận dụng vao các quy luật kinh
tế khách quan.
Thực tiễn:
Tương ứng với một cơ sở hạ tầng nhất định tất yếu sẽ sản sinh một kiến trúc
thượng tầng phù hợp với nó, là cơng cụ hỗ trợ, bảo vệ cơ sở hạ tầng.
VD: Về cơ sở hạ tầng hiện nay ở Việt Nam thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đang
là quan hệ sản xuất thống trị. Tuy nhiên cơ cấu hình thái kinh tế bao gồm rất nhiều kiểu
quan hệ sản xuất như quan hệ sản xuất phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Nó vẫn đang tồn tại
và phát triển từng ngày, chính vì thế mà kiến trúc thượng tầng – nhà nước, pháp luật và tư
tưởng giai cấp thống trị của chế độ Xã hội chủ nghĩa ra đời nhằm mục đích bảo vệ cơ sở
hạ tầng, làm cho đất nước phát triển theo đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời tìm ra
những con đường mới, quan hệ sản xuất mới giúp phát triển nền kinh tế nước nhà nhưng
vẫn đảm bảo rằng kiến trúc thượng tầng này vẫn tồn tại và theo đường lối xã hội chủ
nghĩa - đó là mầm mống của quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Nếu cơ sở hạ tầng cũ
mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng sẽ mất theo và cơ cở hạ tầng mới sẽ xuất
hiện thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó cũng sẽ xuất hiện. Mác đã viết : “
Cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị thay đổi ít nhiều
nhanh chóng”.
Sự tác động ngược trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
VD: Sự tác động ngược trở lại có thể thơng qua nhiều hình thức, điều đó tùy thuộc vào
bản chất của mỗi yếu tố trong kiến trúc thượng tầng. Đứng đầu xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay là Nhà nước Xã hội chủ nghia Việt Nam – đây cũng là phương thức tác động
trực tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng. Lấy chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ
11
Chí Minh làm kim chỉ nang cho mọi hành động của Đảng và toàn dân ta. Đây là nhà nước
của dân, do dân và vì dân, vì vậy pháp luật là công cụ cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
chủ nghĩa, khoa học trở thành động lực để phát triển xã hội. Các công cụ khác như qn
đội, nhà tù, ngân hàng,…khơng tồn tại vì mục đích riêng nó mà củng cố thêm sức mạnh
cho kiến trúc thượng tầng đồng thời phục vụ nhân dân và xây dựng cơ sở hạ tầng, loại bỏ
tàn dư xã hội cũ, xã hội phong kiến.
Từ đó ta có thể thấy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng
tầng bảo vệ, củng cố kiến trúc thượng tầng.
_HẾT_
12