Sở Giáo dục và Đào tạo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
---------BÀI KIẾM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
Giảng viên: Th.S Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Thanh Hồng
Lớp: Tiểu học A-K6
Gmail:
Năm học: 2018-1019
BÀI KIẾM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1
I. Yêu cầu 1: Xem xét- đánh giá việc thực hiện 3 nguyên t ắc dạy học Ti ếng
Việt ở trường Tiểu học
Đa số các tiết dạy mẫu giáo viên thực hiện đầy đủ các nguyên tắc còn
những tiết dạy thơng thường trên lớp do nhiều lí do khác nhau mà những
nguyên tắc đôi khi bị lược bỏ. Vì được phân cơng thực t ập khối l ớp 1 nên
đa số các cô hướng đến việc giúp các em đọc, viết được đối v ới môn ti ếng
việt và thực hiện được các phép tính đối với mơn toán.
a) Nguyên tắc phát triển tư duy:
- Trong các tiết dạy ở trường, giáo viên đã đưa ra những câu hỏi, những
vấn đề giúp các em tư duy. Trong tiết học vần cô hướng dẫn và các em t ự
phân tích vần hay tiếng mà các em học hay đưa ra những hình ảnh đ ể các
em liên tưởng dễ dàng hơn cho bài học. Giáo viên cũng chú ý trong vi ệc rèn
luyện các thao tác tư duy.
VD: Trong tiết học vần iu- êu:
- Giáo viên cho học sinh tự phân tích vần và đánh vần
+ Giáo viên đưa lệnh học sinh phân tích: vần iu có âm i đứng tr ước,
âm u đứng sau, đánh vần là iu
- Giáo viên cho học sinh tự phân tích tiếng và ghép bảng cài một cách
chủ động theo tư duy phân tích của các em
- Đối với từ khóa hay từ ứng dụng, giáo viên sẽ đưa tranh hoặc vật
mẫu các em quan sát và tự rút ra từ khóa cũng như từ ứng dụng.
- Giáo viên hướng dẫn giải thích từ ứng dụng bằng những câu hỏi đơn
giản.
b) Nguyên tắc giao tiếp:
- Trong một tiết dạy học tiếng việt ở Tiểu học, phương pháp giao tiếp
được dùng chủ đạo. Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học ph ải l ấy
hoạt động giao tiếp là mục đích, hình thành kĩ năng và giúp học sinh nghe,
nói, đọc, viết tốt hơn.
- Giáo viên cho học sinh thảo luận theo cặp, theo nhóm từ đó học sinh giao
tiếp, trao đổi kiến thức với nhau. Chủ yếu trong phần luyện nói các em có
thể trao đổi cho nhau những điều mình biết về chủ đề luyện nói đó. Trong
tiết dạy giáo viên cũng chủ yếu hướng dẫn các em tìm ra những kiến th ức
qua phương pháp này.
VD:
- Trong tiết luyện nói giáo viên sẽ dùng tranh và gợi ý bằng các câu hỏi
để học sinh tự rút ra được chủ đề luyện nói. Ngồi ra giáo viên cũng
hệ thống một vài câu hỏi mở liên quan đến chủ đề cho học sinh. Sau
đó các em sẽ thảo luận theo nhóm đơi và cuối cùng là trình bày phần
thảo luận của mình trước lớp với những câu hỏi hướng dẫn của giáo
viên và sự hiểu biết thêm của bản thân.
- Trong tiết học các em sẽ tự trình bày bài làm của bản thân và các bạn
khác sẽ lắng nghe và đưa ra nhận xét cũng như những câu hỏi thắc
mắc cho bạn mình và cùng nhau giải đáp.
- Dự tiết tập đọc của khối lớp 3
+ Thao tác đọc: Học sinh sẽ tự đọc bài trước khi giáo viên đ ọc. Sau đó
luyện đọc theo câu theo đoạn.
+ Thao tác nghe: Khi bạn đọc cả lớp sẽ lắng nghe để nhận xét hay
nghe đọc sau đó tìm những từ mới, từ khó đối với cá nhân học sinh,...
+ Thao tác nói: Trong phần tìm hiểu bài, học sinh sẽ làm việc theo
nhóm để đưa ra những câu trả lời cũng như trả lời những câu hỏi
của giáo viên.
c) Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ vốn có của học sinh:
- Đối với học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh khối lớp 1, kh ả năng t ập
trung của các em là cực kì ngắn. Bên cạnh đó cịn tâm lí thích chơi hơn
thích học. Cũng như dễ bị lối cuốn với những điều mới lạ, hấp dẫn. Chính
vì vậy mà giáo viên cần chú ý đến khơng khí lớp học. T ạo cho h ọc sinh m ột
lớp học vui tươi, gần gũi, khơng gị bó, áp lực. Giáo viên không đ ưa quá
nhiều kiến thức cùng một lúc vì học sinh dễ mệt và phân tâm cũng như dễ
mất trật tự
- Trong tiết dạy học giáo viên tổ chức trò chơi cho học sinh hay ph ần vào
bài giáo viên đưa ra tình huống hay cho các em xem một đoạn video ng ắn
liên quan đến nội dung bài học.
-VD: Trong tiết học vần để củng cố lại bài vừa học, giáo viên cho các em
chơi lật hình. Dưới những bức hình sẽ là những từ chứa tiếng mang vần
các em vừa học.
d) Đánh giá các tiết dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học theo các tiêu chí c ủa
1 tiết dạy học tích cực:
- Tiêu chí 1: Mọi học sinh đều được tham gia hoạt động
Trong một tiết dạy học giáo viên đảm bảo được hầu hết các em đều tham
gia. Như trong tiết học vần phần kiếm tra bài cũ giáo viên yêu cầu mỗi em
ghi 1 từ có vần học ở tiết trước vào bảng. Hay trong phần luyện nói cho
hoạt động nhóm đơi sau đó trình bày. Hay trong trị chơi giáo viên đ ưa t ừ
ứng dụng cho các nhóm các em sẽ truyền cho nhau xem.
- Tiêu chí 2: Học sinh tự sản sinh tri thức:
Giáo viên chỉ đưa ra câu hỏi gợi ý, học sinh sẽ tự giải quy ết v ấn đ ề t ừ đó t ự
sản sinh ra kiến thức, giáo viên chỉ đóng vai trị chốt ý cuối cùng.
VD: Trong tiết học vần các em sẽ tự phân tích vần cũng như tiếng. Học
sinh tự quan sát tranh và rút từ ứng dụng. Thông qua những câu hỏi gợi ý
các em sẽ luyện nói theo chủ đề.
- Tiêu chí 3: Tiết dạy sinh động, vui vẻ, gây hứng thú cho học sinh
Giáo viên lồng ghép trò chơi trong phần học của học sinh, giúp các em nghĩ
là chơi nhưng thực ra là học. Giáo viên đưa những hình ảnh hay v ật thật
cho các em. Qua lời nói lên xuống và những cách gây bất ngờ để học sinh
chú ý bài. Thay vì hỏi bình thường giáo viên sẽ dùng là “đố các con...” . giáo
viên để các em tự tìm hiểu và nói theo suy nghĩ của bản thân các em. Chủ
yếu dùng những lời động viên, khích lệ khơng chê. Các cơ nh ận xét: “ Các
con làm tốt lăm nhưng để tốt hơn các con nên...” “ Các con nói cũng đúng
nhưng theo cơ thì...”.
II. Yêu cầu 2: Liệt kê các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi ti ếp c ận
thực tế với các tiết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học. Thử đưa ra lí
giải (nếu thấy lạ) hoặc đề xuất các ý tưởng, giải pháp kh ắc phục( n ếu
thấy bất cập)
- Trong các tiết dạy học thông thường giáo viên khơng theo quy trình.
Lí do là thời gian khơng đủ để giáo viên thực hiện đầy đủ m ột quy
trình và học sinh trong lớp khả năng khác nhau. Đối với lớp 1 các cô
chủ yếu chỉ dạy các em để các em đọc được cũng như vi ết đ ược.
- Cá nhân em có băn khoăn là em thực sự muốn mình khơng phải là
giáo viên đại trà nhưng em khơng biết liệu mình có thể thực hiện
được điều đó khơng . Vì khi em thực tập trong 1 tháng c ảm thấy nó
rất khác so với những gì em được dạy trên trường đại học. Hơn nữa
để lên một tiết dạy hồn chỉnh khá là khó khăn. Cũng chính vì đi ều
đó mà cứ đến tiết dự giờ là học sinh lại được rà như kiểu rập khuôn.
Cá nhân em thấy điều đó là khó khăn nhất. Em cũng chưa nghĩ ra
được giải pháp nên làm sao. Vì thực tế thầy cơ cũng có cách gi ải
thích đúng cho phương pháp dạy hiện tại của mình.