Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận Phân tích và đánh giá những trường hợp chung sống như vợ chồng (Luật hôn nhân và gia đình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.91 KB, 15 trang )

1

MỞ ĐẦU
Hôn nhân hợp pháp phải đáp ứng được các quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Đăng ký kết hôn là một sự kiện pháp lý quan
trọng tạo nên một tế bào mới cho xã hội, đồng thời thể hiện sự giám sát của nhà
nước đối với việc tuân thủ pháp luật nói riêng và pháp luật hơn nhân và gia đình nói
riêng. Theo quy định tại Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình 2014, việc kết hơn phải
được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà trên thực tế nhiều trường hợp nam
nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Điều này gây ra những tác
động lớn đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên chung sống như vợ
chồng và với những người có liên quan. Vậy nên, em xin chọn đề tài: Phân tích và
đánh giá những trường hợp chung sống như vợ chồng. Mục đích nghên cứu đề tài
là qua việc tìm hiểu sâu sắc vấn đề, đánh giá vấn đề theo những khía cạnh khác
nhau, em mong muốn tìm ra những giải pháp hồn thiện pháp luật nhằm hạn chế
tình trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Khái niệm về chung sống như vợ chồng
1.1 Định nghĩa
Căn cứ vào Điều 3 khoản 7 Luật Hơn nhân và gia đình 2014, “Chung sống
như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”.
Theo quy định tại điểm d mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 03/01/2001 thì quy định chi tiết hơn, theo đó
nam nữ được coi là chung sống với nhau như vợ chồng nếu thuộc một trong các
trường hợp sau: Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; Việc nam nữ về
chung sống với nhau được gia đình (một trong hai bên) chấp nhận; Việc nam nữ về


2

chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; Họ thực sự chung


sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Như vậy, dưới góc độ pháp lý thì chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn là trường hợp nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội nhưng khơng tiến hành
đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Về bản chất, đây là quan hệ vợ chồng mà quan hệ đó khơng được xác nhận
theo thủ tục và trình tự pháp lý nhất định nhưng lại đã và đang tồn tại trên thực tế.
Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng, thực sự coi nhau là vợ chồng và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội.
1.2 Đặc điểm
Thứ nhất: Chủ thể của hành vi chung sống như vợ chồng có thể là giữa nam
với nam, giữa nam với nữ hoặc nữ với nữ.
Với cách hiểu này, nhà làm luật đã nới lỏng phạm vi đối tượng được chung
sống như vợ chồng. Nói cách khác, pháp luật đã gián tiếp thừa nhận chung sống
như vợ chồng là việc hai người cùng giới tính hoặc khác giới tính tổ chức cuộc
sống chung và coi nhau như vợ chồng. Điều này phù hợp với việc Luật Hơn nhân
và gia đình 2014 đã bỏ điều khoản cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
Như vậy, về mặt nội dung thì hơn nhân hợp pháp với chung sống với nhau như
vợ chồng căn bản là giống nhau. Tuy nhiên, về mặt hình thức, nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng là trường hợp sống chung nhưng giữa họ khơng có giấy
Chứng nhận đăng ký kết hơn do cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp.
Thứ hai: Trong thời gian chung sống như vợ chồng, hai người thực sự coi
nhau là vợ chồng.


3

Đây là điểm có thể giúp chúng ta phân biệt trường hợp chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn với trường hợp chung sống tạm bợ. Tuy nhiên, để
đánh giá việc hai người có coi nhau là vợ chồng hay không là điều không dễ dàng.

Bởi lẽ đây là vấn đề thuộc về ý thức chủ quan của con người. Đối với trường hợp
này, không thể chỉ căn cứ vào lời khai của họ mà cho rằng họ chỉ chung sống "tạm
bợ" với nhau, mà phải căn cứ vào tình cảm, thái độ, cách cư xử của họ với nhau và
hậu quả trong thời gian chung sống để đánh giá và quyết định.
Thứ ba: Khi bắt đầu chung sống, hai người muốn chung sống lâu dài và ổn
định.
Đây là đặc điểm để phân biệt với khái niệm "hôn nhân thử nghiệm" hay “sống
thử” mà những năm gần đây trở nên khá phổ biến. Đối với những cuộc "hôn nhân
thử nghiệm", nếu sau một thời gian chung sống, các bên thấy phù hợp thì sẽ tiến
hành đăng ký kết hơn, nếu khơng hợp nhau thì các bên "đường ai nấy đi". Còn
trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng khơng đăng ký kết hơn thì
ngay từ đầu do hai bên mong muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc nên khi bắt
đầu chung sống, họ đã có ý định gắn bó lâu dài với nhau. Chỉ vì vài lý do như
không đủ điều kiện đăng ký kết hơn hay đủ điều kiện kết hơn nhưng vì quan điểm
sai lệch, nhận thức chưa đầy đủ mà tình trạng chung sống như vợ chồng diễn ra
ngày càng phổ biến.
2. Đánh giá các trường hợp chung sống như vợ chồng
2.1 Các trường hợp chung sống chung như vợ chồng
2.1.1 Chung sống như vợ chồng không bị coi là vi phạm pháp luật
a. Chung sống như vợ chồng (kể từ ngày 03/01/1987 trở về sau) giữa nam nữ đủ
điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn


4

Chung sống như vợ chồng không bị coi là vi phạm pháp luật là việc chung
sống giữa nam và nữ như vợ chồng (kể từ ngày 03/01/1987 trở về sau) khơng vi
phạm điều kiện kết hơn. Điều đó có nghĩa là việc chung sống giữa hai bên nam nữ
không vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn, tinh thần tự nguyện, năng lực hành vi
dân sự và các trường hợp cấm kết hơn. Có nhiều ngun nhân của tình trạng chung

sống như vợ chồng mà khơng có đăng ký kết hơn, trong đó chủ yếu là:
Thứ nhất, do trình độ dân trí cịn thấp, khơng đồng đều nên chưa nhận thức
được các quyền và nghĩa vụ, hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn;
Thứ hai, do ảnh hưởng của yếu tố tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo về kết hơn ở
địa phương và cộng đồng;
Thứ ba, do tác động của tình trạng “hơn nhân thử” có xu hướng mở rộng trong
bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tự do cá nhân;
Thứ tư, do thủ tục đăng ký kết hơn có nhiều cứng nhắc, chưa bảo đảm thuận
lợi cho người dân thực hiện quyền kết hơn của mình, nhất là khi cá nhân có sự di
biến động rất lớn giữa nơi có hộ khẩu với nơi học tập, làm ăn, sinh sống.
Trong thực tiễn vẫn xảy ra nhiều trường hợp nam, nữ sống chung như vợ
chồng vì hồn cảnh hoặc lý do khác nhau, họ khơng đăng ký kết hơn, trong đó có
cả những trường hợp do chủ quan, tin tưởng lẫn nhau nên không xem việc đăng ký
kết hôn là quan trọng. Những cặp nam nữ này vẫn sống một cách bình thường,
hạnh phúc như các cặp nam nữ có đăng ký kết hơn, có trường hợp đã có Sổ hộ khẩu
trong đó ghi tên đầy đủ một trong hai bên là chủ hộ, còn bên kia là chồng hoặc vợ
của chủ hộ, tên con cái đầy đủ, concó giấy khai sinh trong đó tên cha mẹ ghi đầy đủ
(qua thủ tục nhận cha mẹ con), có cặp đã lớn tuổi có cả Giấy chứng nhận quyền sử


5

dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ghi tên đầy đủ hai người với tư cách là vợ chồng,
là tài sản chung của vợ chồng hình thành trong thời kỳ sống chung như vợ chồng
nhưng không đăng ký kết hôn. Pháp luật đã có quy định về điều này, tùy theo thời
điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ
cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên)
chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức
chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ

nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Như vậy trường hợp sống chung mà khơng đăng ký kết hôn tức là chưa được
pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng cũng như không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa vợ với chồng; do đó trường hợp khơng muốn chung sống nữa thì
cũng khơng phải làm thủ tục ly hơn. Cịn tài sản được giải quyết theo thỏa thuận
giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định
của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc thỏa thuận
về người trực tiếp nuôi con và trách nhiệm cấp dưỡng cho con được giải quyết theo
Luật hơn nhân và gia đình, theo đó: Sau khi ly hơn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ
trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên
quan; Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi
bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tịa án quyết
định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con; Con dưới 36
tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều
kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có
thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.


6

b. Chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới tính
Theo Điều 8 khoản 2 Luật Hơn nhân và gia đình 2014, Nhà nước khơng thừa
nhận hơn nhân giữa những người cùng giới tính. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà
nước khơng cấm những người cùng giới tính chung sống với nhau. Do đó, việc
những người cùng giới tính chung sống như vợ chồng với nhau không bị coi là vi
phạm pháp luật. Giống như Tiến sĩ Nguyễn Văn Cừ khẳng định tại Hội nghị Tham
vấn công chúng về Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung Luật Hôn nhân và Gia

đình: "Pháp luật chỉ khơng cho phép duy nhất một điều là đăng ký kết hơn. Có ai
cấm người đồng tính tổ chức đám cưới đâu".
c. Trường hợp nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn nhưng chung sống với nhau
như vợ chồng (kể từ ngày 03/01/1987 trở về sau) mà không đăng ký kết hôn
Trường hợp này có nghĩa một trong hai bên hay cả hai bên nam và nữ không
đủ điều kiện kết hôn nên họ không thể đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với
nhau như vợ chồng. Chẳng hạn, trước đây pháp luật về hơn nhân và gia đình cấm
những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn, tuy nhiên, nhiều người nhận
thấy đây là quy định thiếu nhân đạo nên trong Luật Hơn nhân và gia đình 2014, nhà
làm luật đã bỏ quy định cấm này và đưa vào điều kiện kết hơn. Vì thế, nếu những
người mất năng lực hành vi dân sự có chung sống với nhau hay với người khác như
vợ chồng mà không đăng ký kết hơn thì cũng khơng phải hành vi vi phạm pháp luật
vì pháp luật khơng cấm họ làm điều đó. Tương tự như vậy, trường hợp hai bên nam
nữ đều từ đủ 16 tuổi trở lên, có tài sản riêng, chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hơn, thậm chí có quan hệ tình dục với nhau một cách tự
nguyện thì hành vi chung sống này cũng không bị xem là vi phạm pháp luật.


7

2.1.2 Chung sống như vợ chồng bị coi là vi phạm pháp luật
Đây là dạng chung sống giữa nam và nữ vi phạm một trong các điều cấm kết
hôn như: một hoặc cả hai bên nam nữ chưa đến tuổi kết hơn, một hoặc cả hai bên
nam nữ đang có vợ hoặc chồng,…
a. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà một bên hoặc cả hai bên đang
có vợ hoặc có chồng
Trên thực tế, có khơng ít các trường hợp người đang có vợ, có chồng mà lại
chung sống như vợ chồng với người khác. Trong xã hội tồn tại khơng ít các mối
quan hệ bừa bãi. Chúng ta có thể bắt gặp nhiều trường hợp các đại gia có vợ con đề
huề rồi mà vẫn cặp bồ với cơ chân dài nào đó, thậm chí chung sống như vợ chồng

với cô ta. Hay ông Dương Văn Chuốt ở thơn Thắng Chí, xã Minh Trí, Sóc Sơn, Hà
Nội chung sống cùng một lúc với tám người phụ nữ mà không bị xử phạt thật sự
dấy lên một hồi chng báo động về tình trạng này. Có thể thấy, những trường hợp
nam, nữ chung sống như vợ chồng với nhau chấp nhận chung sống khơng có đăng
ký kết hơn một phần vì họ khơng thể đăng ký kết hơn do rơi vào trường hợp mà
pháp luật đã cấm kết hôn (khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014),
phần khác là họ khơng quan tâm đến những quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình mà vơ tình hoặc cố tình vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Nhận
biết được ảnh hưởng của việc nam nữ chung sống như vợ chồng đối với chế độ hôn
nhân một vợ, một chồng và cũng nhằm ngăn chặn tình trạng trên, Bộ luật hình sự
2015 sẽ có hiệu lực vào ngày 15/07/2016 quy định như sau: “Người nào đang có
vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với
người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ
03 tháng đến 01 năm:


8

+ Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn.
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà cịn vi phạm.”
Như vậy, Bộ luật hình sự 2015 đã quy định một cách chi tiết và rõ ràng về
“Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng” hơn Bộ luật hình sự 1999.
b. Trường hợp chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi,
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
Việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ
hoặc có họ trong phạm vi ba đời làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân

số, suy giảm giống nòi, làm suy giảm chất lượng đời sống của người dân, cản trở sự
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhiều người do thiếu biết hoặc biết mà bất
chấp pháp luật vẫn chung sống như vợ chồng với người thân của mình.
Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐCP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hơn nhân và gia đình, thi hành án dân sự,
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã quy định hình thức xử phạt hành chính đối với
hành vi chung sống như vợ chồng với với người có cùng dịng máu về trực hệ,
người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Trong đó, phạt tiền từ 10-30 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Lợi
dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về
dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà khơng nhằm mục đích chấm dứt hơn
nhân; kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực


9

hệ; Phạt tiền từ 1 – 3 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng.
c. Trường hợp một bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đến tuổi kết hơn
Theo Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 thì nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ
từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ tuổi kết hôn. Trong thực tế có những trường hợp vì
nhiều ngun nhân, lý do khác nhau mà nam nữ muốn "kết hôn" khi một bên hoặc
cả hai bên chưa đến tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Đối với các trường
hợp này thì thơng thường là họ tổ chức lễ cưới theo phong tục mà trong nhân dân

thường nói là "cưới chui". Hiện trạng này diễn ra khá tràn lan, mà phần lớn là do
“chú rể” làm “cơ dâu” có bầu trước nên mới phải nhanh chóng về sống chung với
nhau mặc dù một bên hoặc cả hai đều chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp
luật. Như vậy, nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng
thì có thể vi phạm quy định pháp luật về tảo hôn hay vi phạm các quy định trong
pháp luật hình sự. Ví dụ: Vụ việc gần đây xảy ra ở xã Phú Thuận. huyện Phú Tân,
tỉnh Cà Mau đã gây nên một luồng dư luận ồn ào xung quanh việc tổ chức đám
cưới của con gái Chủ tịch xã Phú Thuận (15 tuổi) với cậu bạn trai (19 tuổi) do bên
nam làm bên nữ có thai. Như vậy, trong trường hợp này, viêc chung sống như vợ
chồng, có quan hệ tình dục (dù là tự nguyện) nhưng vẫn bị xem là vi phạm pháp
luật. Điều đáng nói ở đây là với vai trị Chủ tịch xã, ông Lê Công Quẩn không
những không làm gương mà còn trực tiếp đứng ra tổ chức lễ cưới cho con gái chưa
đủ tuổi. Thử hỏi, đối với một người thi hành pháp luật mà còn hành sự như vậy, thì
những người dân khác sẽ có cái nhìn như thế nào về vấn đề này?


10

Về mặt pháp lý, hai bên nam nữ đã chung sống như vợ chồng từ khi còn chưa
đến tuổi kết hơn đó có phải là vợ chồng khơng? Theo hướng dẫn tại một số văn bản
pháp luật được ban hành từ khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực
đến nay thì chỉ cơng nhận "hơn nhân thực tế" đối với các trường hợp nam nữ có đủ
điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng không đăng ký kết hôn mà
chung sống như vợ chồng với nhau (Thông tư số 112/NCPL; Nghị quyết số 01/NQHĐTP). Và như vậy, đối với các trường hợp này không thể công nhận quan hệ giữa
hai bên nam nữ là quan hệ vợ chồng được. Nhưng nếu trường hợp nam nữ đã
chung sống hàng chục năm, có con chung, tài sản chung, bản thân họ đã từng có
thời gian hạnh phúc bên nhau mà nay không công nhận quan hệ vợ chồng giữa họ
thì e rằng trong nhiều trường hợp sẽ khơng bảo vệ được quyền và lợi ích của các
bên. Gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề
này. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP và Nghị

quyết số 35/2000/QH10 đã quy định và hướng dẫn, nếu quan hệ vợ chồng được xác
lập từ trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực (ngày
03/01/1987) thì khi xem xét cơ quan nhà nước có thẩm quyền khơng cần phải xem
xét rằng các bên có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình hay khơng.
2.2 Đánh giá
Thống kê khơng chính thức cho thấy, Việt Nam có 300.000 cặp đang chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, theo đánh giá,
thì con số này mới là bề nổi, phản ánh những người tự nguyện khai báo, cịn lại vẫn
cịn rất nhiều người cho rằng đó là việc riêng của họ, hoặc việc chung sống của họ
là vi phạm quy định của pháp luật. Việc sống chung được thực hiện bởi nhiều đối
tượng cùng với nhiều lí do khác nhau, như là sống chung khi “lỡ” làm người phụ
nữ có thai mà chưa có điều kiện thơng báo với họ hàng, hay có thể là một trong hai


11

người “q lứa lỡ thì” khơng muốn đăng ký kết hơn nữa, chỉ về chung sống với
nhau để có người bầu bạn khi về già…
Chính sự thiếu hiểu biết cùng suy nghĩ dễ dãi đó đã tao nên những hệ quả
không tốt trong xã hội, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người trong cuộc.
Thứ nhất, đối với vấn đề hưởng di sản thừa kế. Việc những người khác giới
tính hay cùng giới tính sống chung với nhau mà khơng đăng ký kết hơn thì khơng
được pháp luật công nhận hợp pháp, dĩ nhiên cũng không được đứng tên ở hàng
thừa kế thứ nhất của người kia và cũng khơng phải là người được hưởng ít nhất 2/3
suất thừa kế theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005. Như vậy, quyền
hưởng di sản thừa kế của cả hai bên đối với di sản người kia để lại đều không được
thực hiện, mặc dù trên thực tế họ coi nhau như vợ chồng.
Thứ hai, những người cùng giới chung sống với nhau khơng có sự dảm bảo

pháp lý rõ ràng về con cái. Pháp luật hiện hành còn chưa bao quát hết được các
trường hợp chung sống như vợ chồng trên thực tế. Luật mới chỉ đề cập đến quan hệ
nhân thân, con, tài sản chung của trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng
theo Điều 15,16 Luật Hơn nhân và gia đình 2014. Còn việc chung sống như vợ
chồng giữa những người cùng giới tính hoặc của người chuyển giới thì bỏ ngỏ,
hồn tồn khơng quy định điều chỉnh gì đến quan hệ những người cùng giới tính
chung sống với nhau. Cụ thể, nếu hai người đồng giới chung sống với nhau như vợ
chồng mà nhận ni con ni thì chỉ có thể xác định một người là cha (mẹ) của đứa
trẻ. Hay trong trường hợp họ chấm dứt sống chung như vợ chồng thì giải quyết tài
sản của họ thế nào? Thiết nghĩ pháp luật đã ngầm thừa nhận việc chung sống như
vợ chồng của họ thì cũng khơng nên “bỏ mặc” họ như vậy.


12

Thứ ba, một số trường hợp chung sống như vợ chồng vi phạm pháp luật gây
nên những hậu quả nghiêm trọng cho giống nòi sau này, ảnh hưởng đến chất lượng
dân số. Đơn giản nhất có thể kể đến trường hợp chung sống như vợ chồng giữa
những người cùng dòng máu về trực hệ hay những người có họ trong phạm vi ba
đời, có quan hệ tình dục với nhau khiến con sinh ra thường hay mắc các bệnh về
nhiễm sắc thể, tỉ lệ tử vong sau sinh cao. Điều đáng nói ở đây là điều này diễn ra
phổ biến ở một vài dân tộc đang có số dân dưới 1000, dẫn đến nguy cơ diệt vong
của cả một dân tộc. Hay như là việc chung sống với nhau như vợ chồng trong
trường hợp một hoặc cả hai chưa đủ tuổi kết hôn cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến
tâm lý và sự phát triển của họ, nhất là đối với người con gái. Theo một nghiên cứu
trước đây, Những đứa trẻ sinh ra trong khi mẹ mới đang ở độ tuổi vị thành niên
thường có tỷ lệ tử vong và cân nặng thấp dưới 2500g cao hơn những mà mẹ đủ tuổi
do nhiều nguyên nhân: cơ thể người mẹ chưa phát triển hồn chỉnh, khơng có kiến
thức làm mẹ, khơng biết cách hoặc khơng được chăm sóc khi mang thai khiến quá
trình sinh trường và phát triển của thai nhi bị ảnh hưởng,… Ngoài ra, nếu sinh con

trước 20 tuổi, người mẹ sẽ bị hạn chế khả năng học tập và cơ hội có nghề nghiệp ổn
định, do đó sẽ khơng có đủ điều kiện tốt nhất để chăm sóc cho trẻ.
Mặc dù khơng thừa nhận quyền và nghĩa vụ giữa các bên chung sống như vợ
chồng nhưng quy định pháp luật về vấn đề này cũng có điều vài đáng chú ý.
Trước hết là tư tưởng tiến bộ. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay có xuất hiện tình
trạng những người cùng giới tính xác lập việc sống chung với nhau. Nhà nước
không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng khơng cấm hai
người họ sống chung. Điều đó cho thấy tư tưởng tiến bộ của Việt Nam so với các
nước trong khu vực.
Thứ hai là pháp luật đã quy định quan hệ nhân thân, con, tài sản chung của
trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng theo Điều 15,16 Luật Hôn nhân và


13

gia đình 2014. Theo đó, con sinh ra khi bố mẹ khơng đăng ký kết hơn thì khơng
phải con ngồi giá thú theo quy định trước đây nữa mà là con chung của hai vợ
chồng. Bố mẹ và con có đầy đủ quyền và nghĩa vụ tương tự như trường hợp hơn
nhân hợp pháp.
3. Giải pháp nhằm hạn chế tình trạng chung sống như vợ chồng
Trước hết, đó là nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, phổ
biến pháp Luật Hơn nhân và gia đình trong nhân dân, đặc biệt là các quy định về
đăng ký kết hôn, giúp nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đăng ký
kết hơn, để từ đó họ lựa chọn cho mình phương thức "kết hơn" hay "chung sống
như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn".
Bên cạnh đó, cần đặc biệt chú trọng tới việc mở rộng và nâng cao nhận thức
của đồng bào dân tộc thiểu số, cần tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đưa những
quy định của pháp Luật Hơn nhân và gia đình đến với đồng bào các dân tộc. Song
song với việc giáo dục pháp luật, cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục giới
tính với tầng lớp thanh, thiếu niên ….

Thứ hai, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước với lĩnh vực hơn nhân
và gia đình, nhất là cơng tác hộ tịch. Đối với công tác hộ tịch ở cấp cơ sở, cần phải
tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ hộ tịch, phải nâng cao trình độ hiểu
biết pháp luật cho đội ngũ này. Mặt khác, cũng cần thường xuyên kiểm
tra, giám sát kịp thời phát hiện những sai phạm trong hoạt động quản lý hộ tịch để
từ đó nâng cao hiệu quả cơng tác này.
Thứ ba, hiện nay Nhà nước ta đã thực hiện các biện pháp cải cách hành
chính hợp lý, thủ tục hành chính được cải cách theo cơ chế "một cửa", trong đó


14

bao gồm cả thủ tục đăng ký kết hơn. Ngồi ra, cần chú trọng đẩy mạnh công tác tổ
chức bộ máy hành chính ngày càng gọn nhẹ, tiết kiệm, đồng thời tuân thủ chặt
chẽ các quy định của pháp luật để từ đó các cơ quan hành chính hoạt động có
hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân
Thứ tư, cần chú trọng hơn nữa cơng tác hồn thiện pháp luật, loại bỏ những
quy định thiếu chặt chẽ. Cần bổ sung thêm một chương mới quy định về việc đăng
ký sống chung giữa những người cùng giới tính, trong đó quy định mang tính chất
ngun tắc với các nội dung như điều kiện đăng ký sống chung, trình tự thủ tục
đăng ký sống chung và giải quyết hệ quả nếu không sống chung nữa với nhau, quan
hệ tài sản, quyền ni con nếu có.
Đối với những trường hợp chung sống như vợ chồng vi phạm pháp luật thì tùy
vào tính chất, mức độ vi phạm của các đương sự mà Nhà nước cần có những biện
pháp xử lý riêng để áp dụng. Trước tiên, đó là buộc các bên phải chấm dứt quan hệ
chung sống như vợ chồng vi phạm các điều kiện kết hơn, cùng với đó là các biện
pháp phụ trợ kèm theo như biện pháp hành chính và biện pháp hình sự. Những biện
pháp xử lý này đã được pháp luật ghi nhận nhưng theo quan điểm của em thì chế tài
của luật chưa thật sự nghiêm minh. Thiết nghĩ, cần phải có mức chế tài nghiêm
khắc hơn để ngăn chặn tình trạng vi phạm trên, đồng thời cần phải kiên quyết xử lý

đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng vi phạm pháp luật và buộc họ
phải chấm dứt việc chung sống đó. Nhà nước cần xây dựng một văn bản pháp luật
riêng biệt, quy định những biện pháp chế tài rõ ràng, cụ thể, nhằm xử lý các vi
phạm trong lĩnh vực hộ tịch, trong đó có hành vi khơng đăng ký kết hơn; để từ đó,
giảm dần các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng
đăng ký kết hơn. Đồng thời, cần thiết phải có những biện pháp loại bỏ những
nguyên nhân gây ra tình trạng chung sống như vợ chồng, bởi đó mới là biện pháp


15

hiệu quả nhất, loại trừ tận gốc những tác động tiêu cực do việc chung sống như vợ
chồng mang lại.
KẾT LUẬN
Chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đang ngày càng diễn ra
phổ biến. Hi vọng trong thời gian tới, Nhà nước sẽ có những điều chỉnh thích hợp
để hạn chế tình trạng này hay ít nhất cũng là tạo ra những quy định cụ thể để nó
được thực hiện trong khn khổ. Trên đây là tồn bộ nội dung bài làm của em. Do
nhận thức còn hạn chế nên bài viết cịn nhiều sai sót. Em mong sẽ nhận được những
đánh giá khách quan của thầy cơ để em có thể hồn thiện tốt hơn những bài tập sau
này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Hơn nhân và gia đình 2014;
2. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 09 năm 2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư
pháp, hơn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
3. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT - TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 03
tháng 01 năm 2001 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09

tháng 06 năm 2000 của Quốc hội “về việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình;
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật HNGĐ Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007.


16

5. Quách Dương, Hỏi đáp Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Nxb Tư
pháp;
6. Cao Vũ Minh - Trương Tư Phước, Hoàn thiện các quy định về chung sống
như vợ chồng không đăng ký kết hôn theo tinh thần của Luật Hơn nhân gia đình
năm 2014, tạp chí Nghề luật số 6/2014;

Trang Web:
/> /> />


×