1
TIỂU LUẬN - Đảng lãnh đạo đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
(1986- 2007)
Hơn ba phần tư thế kỷ trôi qua kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã dẫn dắt giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc Việt Nam vào
con đường đấu tranh cách mạng và đã giành được những thắng lợi vĩ đại,
có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
Đó là thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, xoá bỏ chế
độ thuộc địa và nửa phong kiến, lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, mở ra
kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Đó là thắng lợi của những cuộc
kháng chiến oanh liệt chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập
thống nhất hoàn toàn, thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc. Đó là
thắng lợi của cơng cuộc đổi mới tồn diện, vững chắc theo con đường xã
hội chủ nghĩa làm biến đổi sâu sắc đất nước, xã hội, con người Việt
Nam, nâng cao vị thế của nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước hơn 20 năm qua là một
là một chặng đường rất vẻ vang trong tiến trình lãnh đạo của Đảng.
Những thắng lợi của chặng đường này không chỉ đem lại niềm tự hào
cho những người đảng viên cộng sản, mà bất kỳ một người Việt Nam
yêu nước nào cũng thấy tự hào, tin tưởng vào Đảng, vào tương lai
phát triển của đất nước, dân tộc. Hơn 20 năm đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của nhà nước và sự lao động
sáng tạo của toàn dân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
2
có ý nghĩa lịch sử, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Những thành tựu
trên lĩnh vực kinh tế đã và đang nhanh chóng làm thay đổi bộ mặt của
đất nước, cải thiện đáng kể đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta được xuất phát từ thực tiễn
của lịch sử, từ nhu cầu của đời sống xã hội và sự phát triển của cách
mạng Việt Nam. Đổi mới là một q trình tìm tịi, sáng tạo, thận trọng
của Đảng, q trình đó được hình thành và phát triển từ đổi mới tư
duy và trước hết là tư duy kinh tế.
1.Quá trình tìm tịi, hoạch định đường lối đổi mới kinh tế và
những thành tựu kinh tế của công cuộc đổi mới.
Ngay sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành
được thắng lợi trên phạm vi cả nước, Đảng ta đã tiến hành Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV vào tháng 12- 1976. Một trong những nội
dung cơ bản của Đại hội là đề ra đường lối phát triển kinh tế nhằm
khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và xây dựng lại đất nước.
Sau Đại hội Đảng IV, có nhiều hội nghị Trung ương, trong đó có
5 hội nghị chuyên bàn về kinh tế: Hội nghị Trung ương 2 (2 - 1977)
bàn về nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Hội nghị Trung ương
3 (12 - 1977) bàn về khắc phục sự trì trệ trong sản xuất và quản lý
kinh tế, kế hoạch kinh tế năm 1978; Hội nghị Trung ương 5 (121978), phân tích tình hình kinh tế và xác định các nhiệm vụ lớn; Hội
nghị Trung ương 6 (9 - 1979) bàn về những vấn đề kinh tế cấp bách và
sản xuất hàng tiêu dùng; Hội nghị Trung ương 9 (12- 1980) xác định
phương hướng nhiệm vụ kinh tế năm 1981.
3
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng IV và các hội nghị Trung
ương, nhân dân Việt Nam đã phấn đấu và đã đạt nhiều thành tựu về kinh
tế, xã hội. Đặc biệt từ Hội nghị Trung ương 6 – (9 - 1979) là Hội nghị
mở đầu quá trình đổi mới. Với tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra”,
Hội nghị đã quyết định mở rộng quyền chủ động của cơ sở, cho sử dụng
các thành phần kinh tế ngoài kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể để
phát triển sản xuất, ổn định kinh tế và chính trị xã hội. Hội nghị cũng đã
thừa nhận việc quan tâm lợi ích kinh tế và khuyến khích vật chất là
động lực quan trọng thúc đẩy người lao động. Nghị quyết hội nghị chủ
trương áp dụng một số yếu tố của cơ chế thị trường như giá cả thoả
thuận, hợp đồng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Những vấn đề này là
một bước phát triển mới trong tư duy kinh tế của Đảng, là những vấn đề
có thể được coi là “cấm kị” trong giai đoạn trước đây khi đề cập đến
vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là Nghị quyết mang tính đột
phá mở ra hướng tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường chủ
nghĩa xã hội là phải chấp nhận: nền kinh tế nhiều thành phần; kinh tế thị
trường; quan tâm lợi ích người lao động. Thực tiễn Nghị quyết trung
ương 6 đã đi vào cuộc sống với sự ra đời của hàng trăm xí nghiệp tư
nhân, nhất là ở các thành phố lớn và đã giải quyết được một phần trong
đời sống…Tuy nhiên, Nghị quyết trung ương 6 chưa đủ sức giải quyết
các vấn đề xã hội đặt ra.
Trong nông nghiệp, cuộc thử nghiệm thành cơng từ “khốn chui”
ở Đồ Sơn (Hải Phòng) là một trong những cơ sở để ra đời Chỉ thị 100
của Ban bí thư (Tháng 11 - 1981) tiến hành khoán sản phẩm đến hộ và
4
người lao động, ổn định nghĩa vụ lương thực và cho phép trao đổi mua
bán lương thực dư thừa theo giá thị trường. Điều đó đã tạo ra động lực
phát triển mới trong phát triển sản xuất nơng nghiệp. “Khốn” trong
nông nghiệp là một bước phát triển mới trong tư duy kinh tế nơng
nghiệp của Đảng, vì đó là một hình thức quản lý, tổ chức kinh doanh
có lợi, và từ đó quan niệm về Hợp tác xã nơng nghiệp cũng cần phải
thay đổi.
Trong lĩnh vực cơng nghiệp, từ hình thức “xé rào” của một số xí
nghiệp quốc doanh đã gợi mở cho sự ra đời Quyết định 25 - CP của
chính phủ (Tháng 1 - 1981) cho phép các xí nghiệp thực hiện kế
hoạch ba phần, trong đó có một kế hoạch xí nghiệp tự ký hợp đồng để
đáp ứng nhu cầu của thị trường, lần đầu tiên cho phép hình thành yếu
tố thị trường trong khn khổ kế hoạch hoá. Đây là tư duy mới về
kinh tế của Đảng với các doanh nghiệp nhà nước.
Các thí điểm về cơ chế một giá trong thương nghiệp gắn liền
với cách trả lương mới tại Long An đã gợi mở những khả năng vận
dụng cơ chế thị trường, khắc phục những sai lệch về giá trị trong cơ
chế hai giá. Những cải cách đó được nối tiếp bằng nhiều cải cách ở
tầm kinh tế vĩ mô đã không ngừng nâng cao sản xuất nông nghiệp và
nhiều sản phẩm công nghiệp tiêu dùng mà cịn là những bước tập
dượt để ngươi nơng dân và xí nghiệp quốc doanh tiếp cận với cơ chế
thị trường trong giai đoạn đổi mới sau này.
Nhưng những cải cách đó khơng đủ sâu sắc và đồng bộ để bảo
đảm tăng trưởng kinh tế trong khi Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận, sự
5
giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu giảm
nhanh làm cho nền kinh tế tiếp tục xấu đi. Lạm phát tăng nhanh, đời
sống người ăn lương khó khăn nghiêm trọng…tình hình kinh tế và xã
hội vẫn trong khủng hoảng và cấp bách đòi hỏi những giải pháp có
hiệu lực để ổn định tình hình.
Như vậy, giai đoạn từ 1976 - 1986 là thời kỳ mơ hình cũ được
mở rộng trong cả nước. Những sai lầm của mơ hình ấy là trở lực lớn
đối với sự phát triển, đẩy cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội đến mức
gay gắt. Đây cũng là thời kỳ mà tư duy mới về kinh tế được hình
thành và phát triển trên cơ sở nguồn gốc từ thực tiễn và nhu cầu xã
hội Việt Nam. Chính từ cuộc sống địi hỏi trí tuệ của tồn Đảng, tồn
dân phải tư duy phân tích tình hình, làm rõ ngun nhân và vạch ra
các giải pháp để thay đổi mơ hình cũ, từng bước xây dựng mơ hình
mới.
Để khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, không
thể đơn giản chỉ thực hiện những cải cách mang tính giải pháp mà tất
yếu phải đổi mới toàn diện bắt đầu tư đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tế để đi lên một mơ hình mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam trong thời đại mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã hoạch định
đường lối đổi mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận. Đại hội VI của
Đảng đã quyết định những nội dung quan trọng trong đường lối đổi
mới. Đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ. Đổi mới cơ chế
6
quản lý, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch
toán kinh doanh, chú trọng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, quan
tâm lợi ích người lao động. Đổi mới vai trò và nội dung quản lý, điều
hành của nhà nước xã hội chủ nghĩa, làm rõ chức năng quản lý của
nhà nước về kinh tế, xã hội của bộ máy nhà nước. Đổi mới hoạt động
đối ngoại chuyển sang hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư
của nước ngoài. Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của Đảng
trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nắm vững và
vận dụng đúng đắn quy luật khách, khắc phục bệnh chủ quan duy ý
chí.
Trong hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta xem đổi
mới kinh tế là cơ bản, là nhiệm vụ trung tâm, đổi mới về chính trị
phải làm đồng thời nhưng phải thận trọng, có bước đi vững chắc.
Tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với cơng bằng xã hội, phát triển văn
hố, giáo dục, khoa học, y tế, xây dựng tốt môi trường sinh thái. Coi
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo
của Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị là vấn đề then chốt. Sau Đại
hội VI, Đảng tiếp tục cụ thể hoá, bổ xung phát triển đường lối đổi
mới, chỉ đạo để từng bước thực hiện đường lối. Ngày 15 - 4 - 1988,
Bộ chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp,
giao quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ nơng dân và hình thành
đơn vị kinh tế hộ. Ngày 29 - 3 - 1989, Hội nghị trung ương 6 khoá VI
đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể để phát triển mạnh mẽ các
thành phần kinh tế và đề ra 5 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới.
7
Những quyết định quan trọng đó đã thúc đẩy kinh tế phát triển, vượt
qua thách thức do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, bảo đảm cho công cuộc đổi mới
phát triển đúng hướng. Năm 1989, nhờ “khoán 10” mà nông nghiệp
phát triển nhảy vọt, không những ta bảo đảm đủ lương thực mà đã có
dự trữ và xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới. Lạm phát từ mức
774,7% năm 1986 giảm xuống còn 67,1% năm 1991 (số liệu dẫn theo
Tạp chí cộng sản số 243 năm 2006, tr 45). Đánh giá sau hơn 4 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và kinh nghiệm tiến hành đổi mới,
Đảng ta đã khẳng định: “Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực,
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”1.
Đường lối cơng cuộc đổi mới của Việt Nam được tiếp tục phát
triển qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (Tháng 6 1991). Đại hội đã thông qua nhiều nội dung, trong đó phát triển
đường lối đổi mới kinh tế, xác định ở nước ta bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế chủ
yếu trong thời kỳ quá độ ở nước ta trong thời kỳ quá độ là; kinh tế
quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước. Cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta là: cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các cơng cụ khác. Đại hội chủ trương tiếp tục đẩy mạnh
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, H, 1991, tr 49.
8
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước trên thế
giới và trong khu vực.
Sau Đại hội VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có nhiều
hội nghị bàn chuyên đề và những nghị quyết quan trọng đưa đất nước
vượt ra khỏi khó khăn, giành nhiều thành tựu lớn. Hội nghị giữa
nhiệm kỳ (khoá VII) vào tháng 1 - 1994 đã bổ xung: trong phát triển
kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước phải gắn xây dựng
nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt.
Từ năm 1991 - 1995, Việt Nam có bước phát triển bứt phá to
lớn trong công cuộc đổi . Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm về
tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Lạm phát giảm chỉ còn
12,7% năm 1995. Đại hội VIII của Đảng (6 - 1996) khẳng định: Nước
ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xác định rõ hơn về mục tiêu, mơ
hình, chặng đường, bước đi và những hình thức, giải pháp thực hiện
mục tiêu.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới cho thấy sự cần thiết và vai trò
quan trọng của chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là chủ
trương nhất quán, lâu dài của Đảng và nhà nước ta. Đại hội IX của
9
Đảng (4 - 2001) khẳng định: “đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”2. Tạo lập các yếu tố thị trường: thị trường
hàng hoá và dịch vụ, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường
vốn, thị trường bất động sản. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 - 2010, Đại hội Đảng IX đã nêu rõ mục tiêu đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển để thành nước cơng
nghiệp theo hướng hiện đại.
Về phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa - thành quả
lớn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã được tiếp tục làm rõ thêm
trong văn kiện Đại hội X: “Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, điều cần thiết trước hết là nắm vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Đó là: thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển
sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế hàng
hố nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hồn
thiện chế độ phân phối chủ yếu theo kế hoạch lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr 86.
10
thơng qua phúc lợi xã hội. Phát huy vai trị làm chủ xã hội của nhân
dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều hành nền kinh tế của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”3.
Về đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, từ thực tiễn trong
nước và bối cảnh quốc tế hiện nay. Đại hội X xác định: phải tranh thủ
các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri
thức; coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển mạnh các ngành kinh tế có giá trị
tăng cao dựa vào tri thức; chúng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Như vậy, diễn tiến của quá trình dẫn đến đổi mới kinh tế ở Việt
Nam chỉ rõ: Đổi mới là giải pháp ra đời từ những địi hỏi khơng thể trì
hỗn của nền kinh tế, là kết quả của sự kết hợp giữa sáng kiến của
quần chúng với đổi mới tư duy của Đảng và nhà nước Việt Nam. Đó
là một thành quả lịch sử của dân tộc Việt Nam. Với tất cả những
thành tựu đạt được, đổi mới là kết quả của trí tuệ Việt Nam và không
theo bất kỳ một khuôn mẫu có sẵn trên thế giới.
Thời gian hơn 20 năm là rất ngắn so với lịch sử mấy ngàn năm
của dân tộc, nhưng hơn 20 năm đổi mới là một bước ngoặt quan trọng
3
Đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển (Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh trình bày ngày 18 - 4 - 2006), Báo nhân dân, Ngày 19 4 - 2006.
11
trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo, tự chủ, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa
nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI (1986 1990),công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất
quan trọng, GDP tăng 4,4%/ năm. Việc thực hiện tốt các chương
trình, mục tiêu về phát triển lưng thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu được đánh giá là sự thành công bước đầu cụ thể hố
nội dung của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
đầu tiên được Đại hội thông qua. Trong đó, ngành nơng nghiệp có sự
phát triển vượt bậc với chế độ khốn nơng nghiệp (1988), giao đất
cho nông dân, lấy nông dân làm đơn vị kinh tế. Kết quả là năm 1988
Việt Nam còn phải nhập khẩu 450 ngàn tấn lương thực thì năm 1989
khơng những đủ mà còn xuất khẩu gần một triệu tấn lương thực.
(Hiện nay chúng ta xuất khẩu gạo 5 triệu tấn, đứng thứ hai thế giới).
Trong 5 năm (1991 - 1995), thực hiện nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã khắc phục
được tình trạng trì trệ, suy thối, đạt tốc độ tăng trưởng toàn diện liên
tục tương đối cao, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu của kế
hoạch 5 năm (1991 - 1995). Tăng trưởng GDP hàng năm thời kỳ này
đạt 8,2%, vượt kế hoạch đề ra. Kết thúc thời kỳ 1991 - 1995, Đại hội
Đảng VII đã kết luận: đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần
12
thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Năm 1996 - 2000, là thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước. Mặc dù kinh tế nước ta chịu sự tác động tiêu cực
của thiên tai, khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng vẫn duy trì được
tăng trưởng GDP 7%/ năm.
Trong thời kỳ 2001 - 2005, GDP tăng bình quân 7,5%/năm, đạt
mục tiêu kế hoạch đề ra, trong đó nơng nghiệp tăng 3,8%; công
nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; dịch vụ tăng 7%. Quy mô tổng sản
phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838.000 tỷ Đồng, gấp
đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu
Đồng (khoảng 640 USD)4. Tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP tăng
nhanh, năm 1990 vốn đầu tư phát triển chiếm 17,3% GDP; năm 2000
lên 28%; năm 2005 mức huy động 38,9% GDP. Tổng tích luỹ tăng
bình qn thời kỳ 1996 - 2000 là 9,5%/ năm; thời kỳ 2005 là 11,3%/
năm5.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, phát huy được lợi thế so sánh trong từng ngành,
từng vùng làm tăng hiệu quả và chất lượng, tỷ trọng nông nghiệp, lâm
nghiệp và thuỷ sản trong GDP đã giảm từ 38,1% năm 1990 xuống
còn 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000 và khoảng 20,89% năm 2005.
4
5
Dẫn theo Tạp chí kinh tế và dự báo, Số 4 - 2006, tr 12.
Dẫn theo Tạp chí kinh tế và dự báo, Số 4 - 2006, tr 12.
13
Công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% năm 1990 lên 28,8% năm
1995, 36,7% năm 2000 và khoảng 41% năm 2005.6
Nhờ có tiến bộ trong đổi mới,Việt Nam đã vượt qua được qua
sự bao vây cấm vận kinh tế. Gia nhập ASEAN (1996), APEC, trở
thành đối tác kinh tế quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt là những thành công trong việc ký hiệp định thương mại và bình
thường hố quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO) năm 2006 là một thành tựu quan trọng trong đường lối
đổi mới đối ngoại nói chung cũng như thực hiện đổi mới kinh tế đối
ngoại.
Một trong những thành tựu lớn nhất của đổi mới kinh tế nói
riêng cũng như của cơng cuộc đổi mới là đã khơi dậy sức sáng tạo,
tinh thần lao động cần cù, sự nhanh nhạy trong kinh doanh và ý thức
học hỏi cái mới của người lao động. Người dân đã khắc phục được
thói quen ỷ lại của thời bao cấp, đã phát huy dược tinh thần chủ động,
sáng tạo trong tìm việc làm và thu nhập. Điều đó đã làm tăng thêm sự
năng động của toàn bộ hoạt động kinh tế, huy động vốn, kinh nghiệm
của toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở
Việt Nam. Thành tựu hơn 20 năm đổi mới trên các lĩnh vực nói chung
và kinh tế nói riêng có ý nghĩa lịch sử và là bước ngoặt mang tính thời
đại. Những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới khơng những đưa nước
ta thốt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà nó cịn khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn tồn đúng
6
Dẫn theo Tạp chí kinh tế và dự báo, Số 4 - 2006, tr 13.
14
đắn mang tính độc lập, tự chủ, sáng tạo và là kết quả của trí tuệ Việt
Nam.
Thắng lợi của đổi mới kinh tế còn là cơ sở để chúng ta đấu tranh
chống lại những quan điểm sai trái. Có quan điểm cho rằng là do sự
du nhập hay là “theo đi” nước ngồi mà trực tiếp là Liên Xơ, Trung
Quốc, là sự “ăn may”. Hay có quan điểm cho rằng ở Việt Nam vào
cuối những năm 80 của thế kỷ 20 khơng có dấu hiệu khủng hoảng, do
vậy khơng cần thiết phải tiến hành đổi mới. Đó là quan điểm sai trái
nhằm phủ định hay hạ thấp thành tựu đổi mới và vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn, tiến hành đổi mới ở Việt Nam là tất yếu khách quan và
hợp quy luật. Đổi mới từ thực tiễn lịch sử, từ nhu cầu của kinh tế - xã
hội Việt Nam, tuy nhiên có sự tham khảo thành cơng của các nước trên
thế giới nhưng không dập khuôn, máy móc. Để có được đường lối đổi
mới là cả một q trình tìm tịi, khảo nghiệm, từ cải cách, đổi mới từng
lĩnh vực, từng phần, từ đổi mới tư duy kinh tế đến chỉ đạo thực hiện, từ
đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, vừa thực hiện vừa tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu khái quát thành lý luận. Việt Nam là một trong số ít các
nước trên thế giới đã tự lực tiến hành cải cách kinh tế bằng nguồn lực,
trí tuệ và vật chất trong nước. Việt Nam tiến hành đổi mới khơng những
khơng có sự hỗ trợ đáng kể nào của nước ngồi mà cịn vượt qua được
mất đi đột ngột nguồn viện trợ và vay vốn cũng như thị trường xuất
khẩu truyền thống là Liên Xơ và các nước Đơng Âu, nhanh chóng ổn
định nền kinh tế, đạt nhịp độ tăng trưởng cao.
15
Thực tiễn của hơn 20 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã
rút ra được một số bài học lớn. Đổi mới phải kiên định và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đổi mới không phải
là thay đổi, xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho mục tiêu ấy thực
hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và
bằng những hình thức, bước đi thích hợp. Đổi mới là phải giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa những vấn đề mang tính nguyên tắc với sự
vận dụng linh hoạt, nhanh nhạy nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ.
Một trong những bài học quan trọng rút ra từ thực tiễn là đổi
mới phải xuất phát từ thực tiễn, Giải quyết đúng đắn nhu cầu thực tiễn
đặt ra. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới.
2. Về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện tồn cầu hố nền kinh tế,
mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy
kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một thị trường thống nhất, tại sao chúng
ta lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đây là quan
điểm nhìn nhận phiến diện, thiếu cơ sở khoa học. Vì độc lập tự chủ là
một xu thế phát triển của thế giới, trong điều kiện tồn cầu hố, nền
kinh tế ảnh hưởng lẫn nhau, liên doanh, liên kết phức tạp như hiện
nay lại càng phải giữ vững tính độc lập tự chủ.
16
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ
quan điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ mà còn là đòi hỏi của
thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo
đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế,
cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ
về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập tự chủ của một quốc gia
là có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ hay không. Đây là
kinh nghiệm của nước ta và cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên
thế giới. Hơn nữa, nước ta phát triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã
hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù
địch chống đối thường xuyên ngăn cản, chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh
tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi
dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc ép buộc chúng ta thay đổi chế độ
chính trị, đi chệch quỹ đạo chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây
dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế,
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập
tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để bảo đảm cho sự độc lập tự
chủ bên vững về chính trị. Khơng thể có độc lập tự chủ về chính trị
nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong
mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra
sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia.
Nói nền kinh tế độc lập tự chủ trong thời đại ngày nay được
hiểu rằng: đó khơng phải là nền kinh tế biệt lập, tự cung, tự cấp khép
17
kín mà phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội
nhập, chủ động tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế
trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia,
từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất đáp ứng được nhu cầu cơ
thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức
cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an
ninh.
Vậy làm thế nào để bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế? Thực tế
cho thấy, muốn giữ vững được độc lập tự chủ về kinh tế, nhất thiết
phải có hai điều kiện: Một là, phải có đường lối chính sách độc lập tự
chủ. Hai là, phải có thực lực kinh tế đủ mạnh.
Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế có nghĩa là
chúng ta tự lựa chọn định hướng phát triển, tự xác định chủ trương,
chính sách và mơ hình kinh tế, khơng bị động và lệ thuộc bên ngồi,
khơng chịu sức ép của bất cứ ai và mục đích khơng lành mạnh của họ.
Nhận thức được vấn đề này, Đại hội IX của Đảng xác định đường
lối kinh tế của nước ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh
tế đi liền với phát triển triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
18
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng - an ninh.
Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng. Trên cơ
sở chủ trương như vậy, thực lực nền kinh tế đủ mạnh được hiểu là:
-Toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng được đủ nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân và có phần tích luỹ cần thiết từ nội bộ nền
kinh tế quốc dân để tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế.
- Phải có thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế
gắn với cơ cấu cơng nghệ, phát huy được lợi thế so sánh, có đủ khả
năng tạo ra sức cạnh tranh và hiệu quả, tạo được tích luỹ, đáp ứng
được nhu cầu của thị trường trong nước, chiếm lĩnh và giữ được thị
trường ngoài nước; bảo đảm được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn
định, bền vững. Cơ cấu kinh tế này bao gồm cơ cấu các ngành sản
xuất và dịch vụ, cơ cấu các vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh
tế, cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu đầu tư. Thể chế kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa được xây dựng và hoàn thiện, phát triển các thành
phần kinh tế, các loại thị trường, có một hệ thống phát luật hồn
chỉnh, có mạng lưới an sinh xã hội khả thi, một chiến lược quốc gia
về bảo vệ mơi trường.
- Phải có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để
làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của Việt
Nam, bảo đảm cho sự trao đổi bình đẳng về kinh tế và cơng nghệ với
nước ngoài, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi sức cạnh tranh kinh
19
tế ngày càng dựa vào thế mạnh và khả năng về khoa học và công
nghệ.
- Phải luôn luôn giữ được ổn định kinh tế vĩ mơ với hệ thống tài
chính, tiền tệ lành mạnh, bảo đảm giữ được cán cân thương mại và
cán cân thanh toán, tăng nhanh dự trữ ngoại tệ cần thiết, không để bị
động và lệ thuộc.
- Phải có một số yếu tố vật chất bảo đảm an toàn và điều kiện cơ
bản cho phát triển. Trước hết là các yếu tố: an ninh, an toàn năng
lượng, an tồn mơi trường, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội được xây
dựng đồng bộ và tương đối có chất lượng. Đồng thời, có một số
ngành và cơ sở cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp có tính chất nền tảng
để tạo sức mạnh công nghiệp quốc gia, đặc biệt là nếu phải đương
đầu với những tình huống khó khăn, phức tạp như bị bao vây cấm
vận, chiến tranh xâm lược…
Muốn có thực lực kinh tế đủ mạnh thì nhất thiết phải đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có
cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì mới tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, tạo ra thực lực của đất nước, nâng cao được đời
sống của nhân dân.
Về hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định nước ta cần tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế, và trên thực tế chúng ta đã và đang tham gia
tích cực, có hiệu quả.
20
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn nền kinh tế
của một nước và các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực hoặc toàn cầu;
trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung
như: Liên minh châu Âu (EU), afta, tổ chức thương mại thế giới
(WTO)…. Trước kia, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu
đơn thuần là những hoạt động giảm thuế, mở cửa thị trường. Hội
nhập kinh tế quốc tế ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực
hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế kinh tế quốc tế, tài
chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu
tư…nhằm mục tiêu mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại
bỏ các rào cản đối với trao đổi thương mại.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đề ra “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”. Đại hội X của Đảng bổ xung thêm là “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế”. “Chủ động” là ta tự quyết định đường lối
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, chủ trương chính sách hội nhập
kinh tế nói riêng, là nắm vững các quy luật, tính tất yếu của sự vận
động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh của đất
nước, xác định lộ trình, nội dung, quy mơ, bước đi hội nhập kinh tế
quốc tế, không chỉ tập trung vào một thị trường, một sản phẩm; chủ
động thực hiện các cam kết song phương, đa phương và chủ động vận
dụng các “luật chơi” của các thể chế kinh tế - thương mại quốc tế trên
cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của đất nước, không bị động và cũng
không tự phát, nóng vội, chủ quan, duy ý chí, chủ động lựa chọn đối
21
tác và phương thức kinh doanh, dự báo được những thuận lợi và khó
khăn khi hội nhập kinh tế quốc tế.
“Tích cực” là hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần mạnh mẽ
hơn, khẩn trương hơn, toàn diện và sâu rộng hơn so với giai đoạn
trước; không chần trừ do dự mà đẩy mạnh đổi mới từ bên trong, từ
phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn, từ Trung
ương đến địa phương, doanh nghiệp, tích cực tranh thủ vốn nước
ngoài đồng thời mạnh dạn đầu tư ra nước ngồi, mạnh dạn mở rộng,
đa dạng hố các hoạt động kinh tế đối ngoại và tham gia các thể chế,
định chế kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế. “Tích cực”
cịn là khơng duy trì quá lâu các chính sách bảo hộ của nhà nước,
khắc phục nhanh tình trạng trì trệ và tâm lý trơng chờ, ỷ lại. Tích cực
nhưng vững chắc, có sự chuẩn bị cần thiết về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu quản lý, hệ thống luật pháp, có thơng tin cập nhật và dự báo
tình hình tương đối chính xác, có đội ngũ cán bộ hiểu biết về thị
trường, đối tác, tinh thông nghiệp vụ kinh doanh, hội nhập kinh tế.
Nhấn mạnh phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ khơng có
nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Trái lại, Đảng ta luôn
coi hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung trong đường lối kinh tế,
đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta; kết hợp nội lực với
ngoại lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp phát triển đất
nước. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nhằm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích quốc gia, đồng thời
thông qua việc hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm
22
năng của nước ta trong trong quá trình hợp tác và phát triển của khu
vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu
khoa học - công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị
trường, tăng cường hợp tác và cùng có lợi, làm cho nước ta phát triển
ngày càng nhanh và bền vững hơn. Chúng ta khơng thể đồng tình với
ý kiến phê phán một chiều tích chất tiêu cực, mặt trái của vấn đề mở
cửa, hội nhập để từ đó dẫn tới đóng cửa, khép kín, phản bác chủ
trương mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng và nhà
nước ta.
Nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta cần
và có thể tham gia từng bước là mở cửa thị trường về thương mại, đầu
tư và dịch vụ.
Hội nhập kinh tế có cả hình thức đa phương và song phương,
vừa tham gia các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa
thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, kỹ thuật với từng
nước. Dù ta có tham gia ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế đa
phương khu vực và tồn cầu thì quan hệ song phương với từng nước,
từng vùng lãnh thổ cũng không ngừng mở rộng. Thực tế hiện nay cho
thấy, các định chế kinh tế đa phương, nhất là đa phương toàn cầu, có
giá trị hướng dẫn, tạo khn khổ chi phối các quan hệ song phương,
do đó hợp tác song phương nhìn chung phải dựa theo các quy định
của hợp tác đa phương. Nếu ta không tham gia các tổ chức đa phương
thì có khó khăn trong việc mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế
song phương, nhất là với các nước thành viên của tổ chức kinh tế
23
quốc tế, và nếu có quan hệ thì các nước đó vẫn khơng dành cho ta
những ưu đãi như họ đã dành cho các đối tác khác cùng tham gia tổ
chức kinh tế đa phương với họ. Hơn nữa, các quan hệ kinh tế đa
phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế, thương mại
trực tiếp, cụ thể, mà cịn có các lợi ích khác như liên kết trong khối
các nước đang phát triển, cùng nhau đấu tranh bảo vệ lợi ích chung
trên các diễn đàn quốc tế, chống lại việc áp đặt không công bằng,
không bình đẳng của các nước phát triển.
Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế là
phải bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn giá trị truyền thống và
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong các
quan hệ, dù song phương hay đa phương, đều phải giữ vững ngun
tắc bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Nguyên tắc đó được
thể hiện ngay trong từng định chế, thể thức mà các bên cam kết và
được thực hiện trong thực tế hành động. Một mặt, khơng để thiệt hại
đến lợi ích mà nước ta được hưởng; mặt khác, chúng ta phải chấp nhận
một sự chia sẻ lợi ích nhất định với các đối tác tuỳ theo mức đóng góp
của các bên tham gia hợp tác.
Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá trong
quan hệ kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm lợi ích của đất nước, giữ vững độc
lập tự chủ và sự cân bằng trong các mối quan hệ, tránh sự lệ thuộc một
chiều vào một hoặc một số đối tác.
24
Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương châm
chủ động, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo,
nhằm bảo vệ được lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tranh thủ dược
các thời cơ thuận lợi trong hội nhập. Trong bất kỳ tình huống nào
cũng phải luôn luôn chủ động, giành thế chủ động. Chủ động ngay từ
chủ trương, quyết sách, nội dung, phạm vi, mức độ, lộ trình,…khơng
để bị động, lơi kéo. Lại phải thường xuyên đề cao cảnh giác, không
mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch
muốn lợi dụng quan hệ kinh tế thương mại để thực hiện “diễn biến
hồ bình”, xâm nhập, phá hoại chế độ ta. Điều cơ bản có tính chất
quyết định để bảo đảm an ninh quốc gia là chúng ta phải có nội lực
mạnh, có sự thống nhất chặt chẽ trong nội bộ, có sự đồng tâm nhất trí,
sự ủng hộ mạnh mẽ của tồn dân.
Tóm lại, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát
huy cao độ các nguồn nội lực là quyết định, đồng thời thu hút và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, kết hợp nội lực với ngoại
lực thành sức mạnh tổng hợp là một nội dung quan trọng của đường
lối kinh tế của Đảng ta. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
là để tạo điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ.
Mặt khác có độc lập tự chủ về kinh tế thì mới có thể chủ động tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, bảo đảm giữ vững chủ
quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả là vì một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội.
25