1
TIỂU LUẬN - Lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa MáCLÊNIN về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Sự VậN
DụNG SáNG TạO CủA ĐảNG TA VàO THựC TIễN CáCH
MạNG VIệT NAM
mở đầu
Học thuyết HTKT-XH của chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời, lần
đầu tiên những nghiên cứu về lịch sử xã hội được trình bày một
cách khoa học trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng. Một
trong những nội dung quan trọng của học thuyết là lý luận về thời
kỳ quá độ lên CNXH. Đó là hệ thống những quan điểm, sâu sắc
tồn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, cơ sở để các Đảng
cộng sản laừnh ủaùo quá độ đi lên CNXH. Hệ thống lý luận đó đã
được Mác-Ăngghen vạch ra những nét cơ bản và Lênin đã tiếp thu,
bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới,
khi CNTB đã trở thành CNĐQ, CNXH trở thành hiện thực ở nước
Nga. Hiện nay, lợi dụng sự sụp đổ CNXH hiện thực ở các nước
Đông Âu và Liên Xô, các thế lực phản động, các học giả tư sản ra
sức tập trung chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin
nói chung và lý luận về thời kỳ quá độ nói riêng. Họ cho rằng lý
luận về HTKT-XH, về thời kỳ quá độ lên CNXH đã mất ý nghĩa
không thể áp dụng vào thế giới hiện đại, rằng CNXH hiện thực là sự
nhầm lẫn của lịch sử do vậy lý luận ủoự đã lỗi thời, khơng cịn giá
trị. Đồng thời, sau sự kiện đó khơng ít người hồi nghi lý luận thời
2
kỳ quá độ lên CNXH, họ coi đó là sự cáo chung của lý luận Mácxít
về CNXH nói chung và về lý luận HTKT-XH nói riêng, từ đó đi đến
phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa MácLênin. ở nước ta sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đã thu được những thành
tựu hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay “nước ta
đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng
hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức
nào” 1. Do đó, vấn đề đặt lên hàng đầu là phải tích cực, chủ động
tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức tiếp tục đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển nhanh và bền vững hơn. Thực
tiễn đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng
tạo lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin,
để đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn cho tiến trình cách
mạng nước ta.
Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn
là nhận thức và làm sáng tỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, sự vận dụng sáng tạo
của Đảng ta vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, qua đó góp phần
tích cực trong việc đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận về thời
kỳ quá độ lên CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.
nội dung
1
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H , 2006, tr.22
3
1. Quan điểm Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH.
Học thuyết HTKT-XH của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một học
thuyết khoa học và cách mạng, chứng minh xã hội loài người phát triển
từ thấp đến cao thông qua sự kế tiếp nhau của các HTKT-XH. Lý luận
về HTKT-XH ra đời là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận
thức về xã hội-lịch sử, đưa lại quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản
xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, PTSX quyết định quá trình
sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung. Trước Mác, chủ nghĩa duy
tâm giữ vai trò chi phối trong việc giải thích về đời sống xã hội, các nhà
triết học duy tâm thường quan niệm xã hội một cách chung chung, trừu
tượng…chưa có sự nhìn nhận một cách hệ thống, khoa học. Mác đã
vận dụng phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu xã hội, nghiên cứu
hoạt động sản xuất vật chất và phát hiện ra mối quan hệ giữa con người
với con người, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong xã hội
các yếu tố LLSX, QHSX và KTTT có mối quan hệ với nhau và bao
giờ cũng gắn với một kiểu xã hội nhất định, sự tác động qua lại của
các yếu tố đó tạo thành các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX, quy luật CSHT quyết định KTTT và các quy
luật xã hội khác. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các quy luật
khách quan đó mà các HTKT-XH vận động và phát triển từ thấp đến
cao. Trên cơ sở đó Mác đi đến kết luận sự vận động phát triển của xã
hội lồi người là một q trình lịch sử tự nhiên. Mác viết: “Tôi coi sự
4
phát triển của những HTKT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên”2.
Học thuyết HTKT-XH của Mác-Ăngghen đã đáp ứng được những
nhu cầu của thời đại, không những chứng minh sự vận động phát
triển của xã hội loài người, mà cịn giải thích rõ HTKT-XH CSCN sẽ
thay thế HTKT-XH TBCN là vấn đề mang tính quy luật. Đồng thời
Mác-Ăngghen cịn trình bày quan điểm của mình về sự vận động
phát triển của HTKT-XH CSCN, trong đó có lý luận về thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn phong phú, sơi động của
mình, Mác-Ăngghen đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật
vào nghiên cứu xã hội và đã hình thành những tư tưởng hết sức cơ
bản về thời kỳ quá độ lên CNXH. Mác và Ăngghen không những
phân chia lịch sử phát triển của xã hội lồi người qua các HTKTXH, mà cịn phân chia mỗi HTKT-XH thành các giai đoạn phát
triển nhất định. Theo Mác, mỗi HTKT-XH đều có tính chất q độ
và tính chất lịch sử. Bằng cách phân tích khoa học quá trình phát
sinh, phát triển và diệt vong của HTKT-XH TBCN và những vấn
đề gắn liền với các giai đoạn của q trình ấy, các ơng đã chứng
minh CNTB tất yếu phải nhường chỗ cho CNCS, đó là một q
trình lịch sử tự nhiên. Mác và Ăngghen đã nhìn thấy xã hội mới
phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường đi tới
xã hội CSCN.
2
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQG. H, 1995, tr.21.
5
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Ăngghen đã nói
rõ tính khách quan sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài
người tất yếu sẽ đi lên CNCS, các ông gọi CNCS là một trào lưu
hiện thực. Trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô ta” Mác đã
đưa ra định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá độ lên CNXH. Mác
viết: “giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy
là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không phải là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng
của giai cấp vô sản”3. Thời kỳ quá độ “là xã hội vừa thốt thai
từ xã hội TBCN do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh
tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lịng ra 4”, đó là xã hội cịn chưa phát triển trên cơ sở
của chính nó. Mác-Ăngghen đã nêu tư tưởng về hai giai đoạn của
CNCS, giai đoạn thấp là xã hội - XHCN, xã hội vừa thoát thai từ
xã hội cũ, trong xã hội ấy tất yếu cịn đấu tranh giai cấp và vì vậy
cịn cần đến nhà nước của giai cấp vơ sản, nó tồn tại đến khi xây
dựng xong cơ sở vật chất cho CNCS. Giai đoạn cao là CNCS, xã
hội không cịn phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Như vậy thời kỳ quá
độ là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn để loại bỏ dần cái cũ, xây
dựng và củng cố dần những cái mới, là thời kỳ tạo ra những tiền
3
4
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG. H, 1995, tr.47.
C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb CTQG. H, 1995, tr33
6
đề vật chất và tinh thần để hình thành một xã hội mới cao hơn xã
hội tư bản.
Trong điều kiện mới, CNTB phát triển thành CNĐQ, cách
mạng XHCN đã trở thành vấn đề trực tiếp, Lênin đã kế thừa và phát
triển tư tưởng của Mác và Ăngghen về phân kỳ HTKT-XH, về thời
kỳ quá độ lên CNXH. Ông đã đề cập đến khả năng giành thắng lợi
của cách mạng XHCN ở một số nước, kể cả những nước tư bản phát
triển trung bình, thậm chí cịn lạc hậu nhiều mặt. Cuộc Cách mạng
tháng Mười Nga (1917), cùng với quá trình xây dựng CNXH ở
nước Nga đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về lý luận và
thực tiễn của thời kỳ quá độ lên CNXH, làm cho lý luận đó ngày
càng sáng tỏ hơn. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Lênin
đã phân chia HTKT-XH CSCN qua ba giai đoạn: Giai đoạn một:
“những cơn đau đẻ kéo dài”, gọi là thời kỳ quá độ lên CNXH; Giai
đoạn hai: “giai đoạn đầu của xã hội CSCN”, gọi là CNXH; Giai
đoạn ba: “giai đoạn cao của xã hội CSCN” gọi là CNCS. Qua sự
phân kỳ của Lênin, thời kỳ q độ có vị trí độc lập tương đối, khơng
nằm trong giai đoạn đầu của xã hội CSCN, nhận thức như vậy thì
mới xác định được vị trí, phạm vi, đặc điểm, tính chất của thời kỳ
quá độ lên CNXH. Chủ nghĩa Mác-Lênin còn chỉ rõ: “Những thời
kỳ của lịch sử xã hội cũng giống như những thời kỳ của lịch sử trái
đất đều khơng có ranh giới trừu tượng nào thật rành mạch cả”5.
Hoặc “dĩ nhiên là những cách phân giới hạn đó, cũng giống như
5
C.Mác - Ph.Ăngghen tồn tập, tập 23, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 537.
7
những cách phân giới hạn trong giới tự nhiên hoặc trong xã hội,
đều chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều là tương đối chứ
không phải là tuyệt đối”6. Qua đó ta thấy được tư tưởng biện chứng
của Mác-Ăngghen và Lênin, khi nhận biết được vị trí, giới hạn của
thời kỳ quá độ, thì ngay trong vị trí, giới hạn đó cịn hàm chứa cả
những đặc điểm, nội dung của thời kỳ quá độ và còn của cả giai
đoạn XHCN.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên CNXH, theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin là thời kỳ chuyển biến cách mạng từ xã hội cũ sang
xã hội mới xã hội-XHCN, được bắt đầu khi giai cấp vô sản giành
chính quyền, thiết lập chun chính vơ sản và kết thúc khi xây dựng
xong cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Trong thời kỳ quá độ, theo quan điểm của Mác-Ăngghen, chính
quyền TBCN đã bị đánh bại nhưng chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại, việc
cải tạo và đi đến xố bỏ nó phải tiến hành dần dần, đó là q trình mà
giai cấp vơ sản phải tạo ra được khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết,
thì lúc đó mới xố bỏ được chế độ tư hữu. Về quan hệ phân phối cịn
chưa thể bình đẳng. Tóm lại, trong thời kỳ q độ khơng riêng gì lĩnh
vực kinh tế mà các lĩnh vực khác của đời sống xã hội còn mang những
tàn dư, dấu vết của xã hội cũ chưa thể xoá bỏ ngay lập tức. Trong thời
kỳ quá độ còn nhà nước, còn giai cấp và tất yếu cịn đấu tranh giai
cấp.
6
Lênin tồn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập 23, tr 175.
8
Kế thừa quan điểm của Mác-Ăngghen, Lênin đã chỉ ra đặc
điểm của thời kỳ quá độ là: sự cùng tồn tại, vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau của những yếu tố, thuộc tính của cả xã hội cũ và xã
hội mới, là thời kỳ đan xen, thâm nhập vào nhau giữa CNTB và
CNXH, là thời kỳ mà cái cũ cịn tồn tại và thậm chí cịn phát triển
lấn áp những mầm mống của cái mới. Thời kỳ quá độ cịn là thời kỳ
lâu dài khó khăn, phức tạp, để vượt qua những khó khăn phức tạp
ấy giai cấp vơ sản phải sẵn sàng đón đợi và phải trải qua nhiều lần
thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, có như vậy mới tìm ra
được hướng đi đúng đắn, hiệu quả. Theo Lênin: “Thời kỳ đó khơng
thể khơng bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết
cấu kinh tế xã hội ấy. Gọi là thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại
không phải là thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đang giãy chết và
CNCS đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa CNTB đã bị
đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và CNCS đã phát sinh nhưng
vẫn còn rất non yếu”7. Người còn chỉ rõ: về phương diện kinh tế,
thời kỳ quá độ tồn tại những thành phần, những bộ phận của cả
CNTB và CNXH, các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen, thâm
nhập lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau; về chính trị-xã
hội đây là thời kỳ đấu tranh giữa CNTB đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt tận gốc, CNXH đã phát sinh nhưng còn non yếu, do đó
nhất thiết phải thiết lập chun chính vơ sản, củng cố nền dân chủ
của nhân dân; thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại cơ cấu giai cấp
7
V.I.Lênin, toàn tập, tập 39 Nxb tiến bộ, Matxcơva 1979, tr 309 - 310
9
xã hội phức tạp, với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau mà
lợi ích cơ bản của họ khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặt khác,
trong thời kỳ quá độ các thế lực phản động bên ngồi ln ln tìm
cách móc nối phá hoại cơng cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Vì
vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp, dân tộc diễn ra gay
go phức tạp, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá
độ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố-xã hội,
quốc phịng-an ninh…với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Khi lý giải về thời kỳ quá độ lên CNXH, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin còn đề cập đến con đường phát triển
không qua TBCN ở các nước chậm phát triển, tức là quá độ từ xã
hội tiền tư bản lên CNXH. Mác-Ăngghen cho rằng: với sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản đã chiến thắng, các dân tộc lạc hậu có thể rút
ngắn được rất nhiều quá trình phát triển của mình để tiến lên CNCS.
“Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự
vận động của nó, cũng khơng thể nào nhảy qua các giai đoạn phát
triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xố bỏ những giai đoạn đó.
Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”8.
Như vậy, các nước tiền TBCN có thể đi lên CNCS bằng con đường
bỏ qua sự phát triển TBCN với những điều kiện tiên quyết nhất
định, một trong những điều kiện đó là các nước tiền tư bản phải
được sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến.
8
C .Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1993, T.23, tr21.
10
Trong điều kiện lịch sử mới, sau Cách mạng tháng Mười vĩ
đại, Lênin khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các
nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến lên tới chế độ Xơ viết,
và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới CNCS,
không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN”9. Lênin đã đưa ra
quan điểm hai hình thức quá độ lên CNXH, đó là quá độ trực tiếp
và quá độ gián tiếp. Theo Lênin, những nước CNTB phát triển
cao, giai cấp cơng nhân đã trưởng thành mới có đủ những tiền đề
xã hội, kinh tế và chính trị cho sự chuyển tiếp lên CNXH. Cịn
những nước lạc hậu chỉ có thể đi lên CNXH bằng quá độ gián
tiếp, điều kiện để quá độ gián tiếp theo Lênin là: HTKT-XH bỏ
qua đã lỗi thời lạc hậu, HTKT-XH mới ra đời đã thể hiện tính ưu
việt của nó; Đảng cộng sản giữ vị trí lãnh đạo xã hội và ln được
củng cố vững mạnh; chính quyền cơng nơng đủ điều kiện để làm
nhiệm vụ chun chính vơ sản; liên minh cơng nơng bền vững
làm cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; phải có sự giúp đỡ
của giai cấp vơ sản ở các nước tiên tiến. Lênin viết: “Tính quy
luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã khơng
loại trừ mà trái lại, cịn bao hàm một số giai đoạn phát triển
mang những đặc điểm hoặc về hình thức hoặc về trình tự của sự
phát triển đó”10. Lênin còn chỉ rõ, đối với những nước tiến lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN phải trải qua những bước trung gian,
q độ, mới có thể xây dựng thành cơng CNXH. “Chúng ta phải
9
V.I.Lênin. toàn tập , Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập.41, tr. 295.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập.45, tr.431.
10
11
hiểu đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần
thiết để chuyển từ quan hệ tiền TBCN lên CNXH. Đó là mấu chốt
vấn đề”11.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội,
nhằm cải tạo xã hội cũ, tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần của
xã hội mới, xã hội-XHCN. Đó là q trình đấu tranh để giải quyết
vấn đề ai thắng ai giữa CNTB và CNXH, mọi biểu hiện chủ quan
duy ý chí, nơn nóng hoặc trì trệ bảo thủ, thụ động đều gây hậu quả
tiêu cực, ngăn cản quá trình đi lên CNXH.
2. Đảng ta vận dụng sáng tạo lý luận thời kỳ quá độ lên
CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Lý luận thời kỳ quá độ lên CNXH đã được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đề cập đến một cách sâu sắc toàn
diện trong học thuyết HTKT-XH. Trung thành và vận dụng sáng
tạo lý luận đó vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và CNXH khơng tách rời nhau-đó là
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt đường lối của Đảng. Đường lối kiên định con đường tiến lên
CNXH của Đảng ta là phù hợp với xu thế của thời đại và điều
kiện cụ thể ở nước ta. Con đường của Cách mạng Việt Nam là tiến
hành giải phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc, dân chủ,
11
V.I.Lênin.Toàn tập, Nxb tiến bộ , Matxcơva, 1978, tập 43, tr. 274.
12
nhân dân quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Theo quan
điểm của Đảng, sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân
chủ, nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dựa trên nền
nền tảng liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức đã được củng
cố vững chắc, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới,
giai đoạn quá độ đi lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
khi Miền Bắc hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ, miền Nam
cịn bị đế quốc Mỹ chiếm đóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
chủ trương, đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến
hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên
CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, miền Nam tiếp tục
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai cuộc cách
mạng này có quan hệ chặt chẽ thống nhất với nhau là điều kiện
thúc đẩy cách mạng Việt Nam phát triển. Đường lối vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, xây dựng CNXH trong hồn cảnh có chiến
tranh là một sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của
Đảng ta, phản ánh đúng thực chất quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhận định chính xác những khó khăn phức tạp mà
cách mạng Việt Nam phải trải qua. Theo Người về phương diện
kinh tế “Miền Bắc nhất định tiến lên CNXH. Mà đặc điểm to nhất
của ta trong thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
13
thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN”12. Chúng ta xây dựng CNXH trong điều kiện vừa có hồ
bình, vừa có chiến tranh, bối cảnh quốc tế vừa có thuận lợi vừa có
khó khăn, thuận lợi là CNXH đã ra đời ở nhiều nước, chúng ta
nhận được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần
quốc tế vơ sản chân chính; khó khăn của chúng ta là, ln ln bị
CNĐQ tìm cách phá hoại. Điều đó buộc chúng ta phải có ý thức
độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế
thuận lợi, khắc phục những khó khăn để xây dựng CNXH. Đảng
ta chỉ rõ, quá độ lên CNXH ở Việt Nam là q trình khó khăn
phức tạp, lâu dài. Q trình đó bao gồm hai mặt cải tạo xã hội cũ
và xây dựng xã hội mới, trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt,
trung tâm. Đồng thời Đảng ta nhấn mạnh đến tính chất phức tạp
khó khăn của thời kỳ quá độ lên CNXH, được thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Đảng ta chỉ rõ:
Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn
mọi mặt đời sống xã hội, cả LLSX và QHSX, cả CSHT và KTTT.
Nó đặt ra và địi hỏi đồng thời phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
khác nhau.
Thứ hai, sự nghiệp xây dựng CNXH là sự nghiệp mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, là cơng việc hết sức
mới mẻ, vừa làm vừa học, có thể sẽ vấp váp và thiếu sót. Xây dựng
12
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập10, Nxb CTQG, H, 2000, tr. 13.
14
xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ
đã lỗi thời.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng CNXH luôn luôn bị các thế lực
phản động trong và ngồi nước tìm mọi cách chống phá. Vì vậy,
trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng phải thận trọng, tránh nơn
nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn. Vấn đề cơ bản là phải xác
định đúng bước đi và hình thức phù hợp với trình độ của LLSX,
biết kết hợp các khâu trung gian, quá độ, tuần tự từng bước, từ
thấp đến cao.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi
(04/1975) đất nước thống nhất, cách mạng Việt Nam bước sang
một giai đoạn mới quá độ đi lên CNXH bỏ qua phát triển TBCN.
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã vạch ra đường lối xây
dựng CNXH: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng: cách mạng QHSX, cách mạng khoa học kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng văn hố, trong đó cách mạng khoa học
kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hố XHCN là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên CNXH; xây dựng chế
độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây
dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN”13. Đồng thời Đảng
cũng nhận rõ những khó khăn thách thức trong quá trình xây dựng
CNXH. Chúng ta đi lên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong
13
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IV, Nxb.St, H, 1977, tr 67.
15
kiến, điểm xuất phát thấp, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua
HTKT-XH TBCN; đất nước lại trải qua hai cuộc chiến tranh với
hậu quả để lại hết sức nặng nề, vì vậy thời kỳ quá độ là một quá
trình đấu tranh giai cấp phức tạp lâu dài, phải tiến hành đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN, trong đó nhiệm vụ xây dựng là quan trọng hàng
đầu. Những năm trước Đại hội VI (1986), do duy trì quá lâu cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, lối suy nghĩ và hành động đơn
giản, chủ quan duy ý chí, muốn xố bỏ nhanh các thành phần kinh
tế khơng cơ bản, khơng tơn trọng quy luật khách quan, áp dụng
máy móc mơ hình CNXH đã làm cho nước ta rơi vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế-xã hội. Đại hội VI của Đảng với phương
châm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tổng kết
những thành tựu đạt được, chỉ ra những mặt còn hạn chế, yếu kém
cần phải khắc phục, trên cơ sở đó đề ra đường lối đổi mới tồn
diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây
dựng CNXH. Chủ trương của Đảng là thực hiện mở cửa, đổi mới
toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy, tư duy về kinh tế, tư duy về
chính trị, chú trọng đổi mới kinh tế làm cơ sở tiền đề để từng
bước đổi mới chính trị. Đảng ta xác định đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu CNXH mà là tìm cách thực hiện mục tiêu đó
một cách có hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó Đại hội đưa ra những
nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về cơng nghiệp hố XHCN trong
chặng đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
16
xuất hàng hoá và thị trường, xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan
liêu bao cấp chuyển hẳn sang hạch tốn kinh doanh, coi trọng lợi
ích cá nhân và tập thể, chăm lo phát triển nhân tố con người, đổi
mới cơ chế chính sách xã hội. Đại hội VI là cột mốc đánh dấu
bước chuyển nhận thức của Đảng ta về CNXH và thời kỳ quá độ
lên CNXH. Trước đây nhấn mạnh cách mạng QHSX, trong đổi
mới chúng ta đặt vấn đề một cách thực tế hơn, khẳng định rõ tư
tưởng căn bản của đổi mới là giải phóng LLSX, trên cơ sở đó từng
bước tạo lập xây dựng QHSX XHCN phù hợp.
Đại hội ĐBTQ lần thứ VII tiếp tục đổi mới tư duy lý luận,
trên cơ sở lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH của chủ nghĩa
Mác-Lênin, trong tình hình các nước XHCN ở Đơng âu sụp đổ và
Liên xơ đang có nguy cơ đi đến tan rã. Kiên định mục tiêu, con
đường đã chọn Đảng ta khẳng định: Dẫu sự phát triển xã hội đang
trải qua những bước quanh co, phức tạp với những thăng trầm lịch
sử, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH, vì đó là
quy luật tiến hố của lịch sử. Đại hội cũng đã nêu lên sáu đặc
trưng cơ bản của XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Đồng thời Đại
hội xác định rõ phương hướng mục tiêu, nhiệm vụ chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ: “thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt
tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở
chặng sau”14; xây dựng nhà nước XHCN thực sự của dân, do dân,
vì dân, lấy liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nông dân và
14
Đảng cộng sản Việt Nam Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Nxbst, H,1991.tr.11
17
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo; đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố là nhiệm vụ trung tâm nhằm
phát triển LLSX; thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến
cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phù hợp với tính chất,
trình độ của LLSX; tiến hành cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng
văn hố; thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc; kết hợp chặt
chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thường
xuyên chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng. Việc
xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ lên CNXH thể hiện tư duy mới của Đảng về thời
kỳ quá độ lên CNXH, tạo cơ sở, tiền đề để chúng ta bước vào
chặng đường tiếp theo.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ đại hội
Đảng VII, đại hội Đảng VIII nhận định: “Con đường đi lên CNXH
ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn; xét trên tổng thể, việc
hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ
bản là đúng đắn, đúng định hướng XHCN”15. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ.
Bước sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đại hội IX, X của Đảng tiếp tục khẳng định:
nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ở nước
15
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII, Nxb. CTQG, H, 1996, tr.
68.
18
ta ngày càng sáng tỏ hơn, “Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”16. Đại hội X của Đảng đã khái qt mơ
hình “XHCN mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một
xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên LLSX
hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; có nền
văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”17.
Đảng ta cũng chỉ ra phương hướng và điều kiện quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN: “Để đi lên CNXH, chúng ta phải
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền
16
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001. tr.21.
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.
68.
17
19
dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế”18.
Như vậy, tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN phải trải qua
thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, là thời kỳ lâu dài và hết
sức khó khăn, phải trải qua nhiều chặng đường, do điểm xuất phát
của chúng ta thấp, đi lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ... Đó là
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây
dựng một chế độ xã hội mới cả LLSX, QHSX và KTTT, là thời kỳ
đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt và phức tạp, đấu tranh giữa hai
con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội nhằm giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa CNTB và CNXH. Việc
xác định đúng bước đi chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên
CNXH đã tạo những điều kiện cơ bản để chúng ta bước vào chặng
đường tiếp theo. Quá trình vận dụng sáng tạo lý luận về thời kỳ quá
độ lên CNXH của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là q trình
vận dụng, bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm lý luận Chủ
nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh
sau 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được những thành tựu vơ cùng
to lớn và có ý nghĩa lịch sử: “Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng
18
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.
69.
20
trưởng khá nhanh; sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đẩy mạnh. Đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại
đồn kết tồn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội
ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên
trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp
tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”19. Thực tế sinh động đó đã minh
chứng cho tính đúng đắn của lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH
và sự vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam của Đảng ta. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ lên CNXH đặt ra nhiều
vấn đề cần phải bổ sung cho phù hợp với điều kiện từng giai đoạn
cách mạng, phải vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng đi
đến thắng lợi cuối cùng.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đặt ra đối với nước ta là
làm sao tận dụng được thời cơ, vượt qua những thách thức nguy
cơ trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đưa đất nước phát
triển nhanh, mạnh, vững chắc theo con đường XHCN, hoàn
thành nhiệm vụ chiến lược mà đường lối đổi mới của Đảng đã đề
ra. Muốn vậy, thiết nghĩ cần quán triệt và thực hiện tốt một số
vấn đề cơ bản sau:
19
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.17.
21
Một là: Nhận thức đúng đắn đầy đủ hơn về đặc điểm tình
hình, điều kiện, khả năng, của đất nước và thời đại, trên cơ sở
đó đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng
Trước hết, chúng ta phải nhận thức rõ thực chất, điều kiện
và khả năng bỏ qua chế độ TBCN, quá độ đi lên CNXH ở nước ta
hiện nay. Thực chất bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam, theo quan
điểm của Đại hội lần thứ IX của Đảng là: Đảng cộng sản cầm
quyền với phương thức và bước đi, cách làm phù hợp tiến lên
CNXH. Bỏ qua ở đây là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
QHSX và KTTT TBCN, đồng thời tơn trọng quá trình lịch sử tự
nhiên, nhất là quá trình phát triển kinh tế, khơng nóng vội chủ
quan, duy ý chí. Bỏ qua bằng cách thơng qua những khâu trung
gian, những hình thức q độ nhưng khơng bỏ qua những tính
quy luật chung của nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn. Bỏ qua
nhưng có kế thừa và phát triển những thành quả tích cực của
CNTB, đặc biệt là khoa học kỹ thuật công nghệ, đồng thời từng
bước xây dựng và hoàn thiện QHSX phù hợp theo định hướng
XHCN. Đảng ta còn khẳng định, chúng ta quá độ đi lên CNXH
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN là phù hợp với xu hướng phát
triển của xã hội loài người, với xu thế của thời đại, với điều kiện
nước ta và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đại hội Đảng
lần thứ IX nhấn mạnh: ở nước ta có cả tính tất yếu và điều kiện,
khả năng để quá độ bỏ qua CNTB tiến lên CNXH. Chúng ta có
Đảng cộng sản dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo, có chính quyền,
22
có nền tảng liên minh cơng-nơng-trí vững chắc, có sự hội nhập
giao lưu kinh tế thế giới, có sự ủng hộ cổ vũ của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, có thành tựu của hơn 20 năm đổi mới,
nhân dân ta cần cù sáng tạo tin theo Đảng. Đó là cơ sở, động lực
cho phép nước ta vững bước tiến lên CNXH. Tuy nhiên, chúng ta
cũng nhận thức đúng những khó khăn thách thức mà cách mạng
nước ta phải vượt qua. Việt Nam đi lên CNXH từ điểm xuất phát
thấp, lại không qua giai đoạn phát triển TBCN, trong điều kiện
xây dựng CNXH ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cuộc chiến
tranh giải phóng miền Nam. Mặt khác, sau khi cả nước thống
nhất, công cuộc xây dựng CNXH tiếp tục tiến hành trong bối
cảnh hết sức khó khăn: bị bao vây cấm vận, phải giải quyết gánh
nặng hậu quả của chiến tranh để lại, phải đương đầu với những
chấn động sâu sắc và to lớn của cuộc khủng hoảng sụp đổ CNXH
ở Đông âu và Liên Xô. Trong khi đó, đất nước cịn nghèo, trình
độ dân trí thấp, tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc, môi trường
quốc tế cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Đồng thời chúng ta còn
phải đấu tranh với những nguy cơ to lớn: tụt hậu xa hơn về kinh
tế; chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng, tệ quan liêu, sự suy
thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên và nguy cơ
“Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch. Đó thực sự là
những khó khăn thách thức đan xen, tác động lẫn nhau, thường
xuyên đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ ta. Vì vậy, để
cách mạng nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, tiến lên
23
CNXH giành thắng lợi, vấn đề có ý nghĩa chiến lược đặt ra là
phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về đặc điểm tình hình,
điều kiện khả năng của đất nước, thế giới, trên cơ sở đó xác định
đúng đường lối chiến lược, sách lược, đưa đất nước tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường XHCN.
Hai là: Giữ vững lập trường, kiên định nguyên tắc định
hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới sáng tạo
Đảng ta xác định rõ lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp
cách mạng. Đòi hỏi chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN,
coi đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Thực chất là kiên trì sự lựa chọn con đường phát
triển XHCN, gắn liền độc lập dân tộc với CNXH trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, việc
chậm khắc phục sửa chữa những yếu kém khuyết điểm có thể dẫn
đến mất phương hướng, thậm chí mất chế độ như một số nước
XHCN đã không đủ sức vượt qua khi tiến hành cải tổ, cải cách.
Kiên định lập trường nguyên tắc XHCN, chính là giữ vững và kế
thừa, bảo vệ các nguyên lý, phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời nghiên cứu và sáng
tạo giải quyết những vấn đề cụ thể trên cơ sở phương pháp luận
Mácxít và xuất phát từ thực tế đất nước. Phải không ngừng điều
chỉnh, bổ sung, phát triển kho tàng lý luận Mácxít bởi những kinh
nghiệm và tri thức mới. Kế thừa, bảo vệ phát triển không phải làm
24
xơ cứng, triệt tiêu sức sống và làm trì trệ lý luận Mác xít, lại càng
khơng có nghĩa là tuỳ tiện làm biến dạng nó, gị theo ý muốn chủ
quan và tách rời nó khỏi mảnh đất hiện thực thời đại, mà là vận
dụng nó một cách linh hoạt vào điều kiện thực tế lịch sử cách
mạng Việt Nam.
Đồng thời với kiên định lập trường nguyên tắc XHCN chúng
ta phải tiến hành đổi mới sáng tạo. Trước hết là đổi mới tư duy,
phải nhận thức một cách đúng đắn những nguyên lý chủ nghĩa
Mác-Lênin, không giáo điều mà vận dụng một cách sáng tạo, linh
hoạt phù hợp với bối cảnh cụ thể của đất nước ta, làm cho nó có
sức sống mới trong thực tiễn xây dựng CNXH. Do đó, đổi mới
tuyệt nhiên không phải thay đổi mục tiêu CNXH, xa rời chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là xuất phát từ lý luận
đó để hành động một cách đúng đắn theo mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Đảng ta chỉ rõ: “Kiên trì chủ nghĩa MácLênin là vấn đề có tính ngun tắc số một đối với Đảng ta. Trung
thành với chủ nghĩa Mác-Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng một
cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo”20. Rõ ràng, khơng
thể có đổi mới sáng tạo nếu khơng xuất phát từ sự kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngược lại sự kiên
định sẽ trở nên mất hết ý nghĩa, rơi vào chung chung trừu tượng
20
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Nxb sự thật, H, 1991, tr
127.
25
nếu khơng có sự đổi mới sáng tạo. Cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay chính là kết quả thể hiện hết
sức sinh động, thuyết phục về sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề
kiên định với đổi mới sáng tạo.
Ba là: Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với đổi
mới chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, "Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”21. Trong
thời kỳ tồn cầu hố hiện nay, hầu hết các nước đều phải xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường, đó là xu thế khách quan, tuy nhiên, ở mỗi
chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với mục
đích khác nhau. Đối với các nước tư bản, kinh tế thị trường là kinh tế
thị trường TBCN, phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. ở nước ta,
kinh tế thị trường phải giữ vững định hướng XHCN. Kinh tế thị
trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, là kết quả của sự
phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, của q trình phân cơng
lao động xã hội, đa dạng hố các hình thức sở hữu, đồng thời nó là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu thế phát
21
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr
84-85.