TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
___________
_____________________
BIÊN BẢN
PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 27 tháng 07 năm 2012.
Tại Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Giang.
Mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Vũ Văn Đạt
và Vũ Văn Nghĩa. Bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Giết người” theo khoản 2
Điều 93 BLHS.
Vụ án được xét xử công khai.
I. Những người tiến hành tố tụng:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ơng Trịnh Quốc Đạt
Thẩm phán: Ông Đào Hồng Phúc
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Đức Hưng
Bà Trần Vân Anh
Bà Nguyễn Thu Giang
Thư ký phiên tòa: Bà Lý Vương Khanh – Cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thảo Linh
Bà Nguyễn Phương Hoa
II. Những người tham gia tố tụng:
Bị cáo:
1. Vũ Văn Đạt – sinh năm 1992.
2. Vũ Văn Nghĩa – sinh năm 1994.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Văn Nghĩa:
Luật sư Đồn Đức Lộc – Luật sư Văn phịng luật sư Dân An – Đoàn luật sư
tỉnh Bắc Giang.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Văn Đạt:
Luật sư Nguyễn Hữu Hồng – Luật sư Cơng ty luật số 1 – Đoàn luật sư tỉnh
Bắc Giang.
Đại diện hợp pháp cho bị cáo Vũ Văn Nghĩa:
Ông Vũ Văn Sáng – sinh năm 19664 (là bố đẻ của bị cáo Nghĩa)
Trú quán: thôn Lâm Sơn xã Dương Đức – Lạng Giang – Bắc Giang.
Đại diện hợp pháp cho người bị hại:
1. Ông Đoàn Văn Lưu – sinh năm 1964.
2. Chị Nguyễn Thị Tám – sinh năm 1965.
Đều trú quán: thôn Tê xã Tân Thanh – Lạng Giang – Bắc Giang.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lê Thị Vân – sinh năm 1964 (là mẹ đẻ của bị cáo Vũ Văn Nghĩa)
2. Anh Vũ Huy Hoàng – sinh 1992.
3. Anh Nguyễn Văn Thích – sinh năm 1993.
Đều trú quán: thôn Tê xã Tân Thanh – Lạng Giang – Bắc Giang.
4. Anh Vũ Văn Hiền – sinh năm 1974.
5. Anh Vũ Văn Hiếu – sinh năm 1994.
Đều trú quán: thôn Lâm Sơn xã Dương Đức – Lạng Giang – Bắc Giang.
III. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
1. Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Thư ký phiên tòa báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt
của những người được Tòa án triệu tập hoặc được mời và lý do vắng mặt.
3. Chủ tọa phiên tịa kiểm tra lại sự có mặt của những người có mặt tại
phiên tịa theo giấy triệu tập, giấy mời của Tòa án; kiểm tra lý lịch, phổ biến
quyền và nghĩa vụ của họ; giải thích cho họ biết về những bản án, quyết định
được công bố trên Cổng thơng tin điện tử của Tịa án và quyền của họ về việc
u cầu Tịa án khơng cơng bố những nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí
mật gia đình, bí mật kinh doanh; u cầu người phiên dịch, người giám định
phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ và yêu cầu người làm chứng là người thành
niên phải cam đoan không khai gian dối.
4. Chủ tọa phiên tòa giới thiệu những người tiến hành tố tụng và hỏi Kiểm
sát viên, những người tham gia tố tụng xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký phiên tịa, người giám định, người
phiên dịch hay khơng.
5. Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo đã được giao nhận bản cáo trạng/quyết
định truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử hay chưa.
6. Chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên và những người tham gia tố
tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa
thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét hay khơng.
IV. Phần tranh tụng tại phiên tịa:
1. Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng
2. Hỏi và trả lời tại phiên tòa:
* Chủ tọa hỏi bị cáo Đạt:
H: Bị cáo thấy bản cáo trạng mà vị đại diện viện kiểm sát vừa cơng bố có
giống với nội dung của bản cáo trạng bị cáo đã được tống đạt khơng?
Đ: Thưa, có.
H: Bị cáo và bị hại gặp nhau ở đâu? Khi bị cáo và nạn nhân gặp nhau, đã
có chuyện gì diễn ra?
Đ: Trên đường đi lễ hội về, bị cáo gặp anh Tâm.
H: Nguyên nhân mâu thuẫn của bị cáo và bị hại là gì?
Đ: Sau khi thấy anh Tâm cầm dao đuổi theo đám thanh niên, anh Tâm đã
đánh bị cáo mà khơng rõ lí do.
H: Tư thế bị cáo chém anh Tâm như thế nào? Bị cáo chém vào vị trí nào
trên người của bị hại?
Đ: Tay phải cầm kiếm đâm vào thân dưới của anh Tâm. Anh Tâm bỏ chạy
xuống ruộng, bị cáo đuổi theo đâm vào đùi phải mặt ngoài của anh Tâm.
H: Lúc bị cáo chém anh Tâm thì bị cáo Nghĩa có tham gia hay khơng?
Đ: Nghĩa kể lại cho bị cáo đã đánh anh Tâm.
H: Tại sao đi hội đền mà bị cáo lại mang theo kiếm?
Đ: Hoàng đã đưa kiếm cho bị cáo cầm hộ.
H: Sau khi bị cáo đâm anh Tâm, tình trạng của anh Tâm thế nào?
Đ: Đùi anh Tâm bị chảy máu.
H: Sau khi thực hiện hành vi, bị cáo đã đi đâu? Bị cáo đã làm gì với hung
khí sau khi gây án?
Đ: Đi về nhà văn hố thơn T, gặp bố đẻ và chú Hiển, sau đó đi về nhà chú
Hiển. Bị cáo vứt lại kiếm dưới bếp và lên nhà ngồi.
H: Bị cáo có ý kiến gì về kết luận giám định số 142/KL-PC54 và kết luận
giám định pháp y số 1610/12/GĐPY; Kết luận giám định pháp y số 5583/GĐPY
và cáo trạng số 19/KSĐT-TA?
Đ: Bị cáo không có ý kiến.
* Thẩm phán hỏi bị cáo Nghĩa:
H: Tại sao đang trong quá trình đi học lại tự nghỉ học?
Đ: Do bản thân bị cáo.
H: Theo như lời khai của bị cáo Đạt, bị cáo đã đi với anh Hiếu, anh Đạt
vào chiều ngày 02/02/2019 có đúng hay khơng?
Đ: Thưa, đúng.
H: Tại sao bị cáo lại đánh anh Tâm? Trước đây có bao giờ bị cáo đã gặp
phải tình huống tương tự chưa? Nếu có thì phản ứng của bị cáo là thế nào?
Đ: Bị cáo thấy anh Đạt bị đánh vơ cớ. Bị cáo khơng có hiềm khích với
anh Tâm trước đây và chưa bao giờ gặp phải tình huống tương tự.
H: Bị cáo đã đánh anh Tâm như thế nào?
Đ: Rút ông tuýp đánh anh Tâm.
H: Tại sao đi chơi hội bị cáo lại cầm theo ống tuýp sắt?
Đ: Hoàng đưa cho bị cáo để phòng thân.
H: Tại biên bản ghi lời khai ngày 03/02/2019 tại Công an huyện Lạng
Giang, tỉnh Bắc Giang, bị cáo đã khai dùng kiếm đâm bị hại Tâm. Sau đó 3 ngày
sau tại biên bản ghi lời khai vào ngày 06/02/2019, bị cáo khai lại chỉ đánh bị hại
Tâm. Tại sao bị cáo lại muốn khai nhận cho bị cáo Đạt?
Đ: Bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên muốn nhận tội thay anh Đạt, nhưng sau đó
suy nghĩ lại. Bị cáo và anh Đạt không bàn bạc cụ thể.
H: Bị cáo đã làm gì với cái ống tuýp sắt sau khi gây án xong?
Đ: Bị cáo mang về nhà và cất vào bếp.
* Hội thẩm hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Vũ Văn
Hoàng
H: Mối quan hệ giữa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan với bị cáo,
bị hại?
Đ: Tôi là em con nhà chú ruột của anh Đạt và anh Nghĩa. Tơi khơng có
mâu thuẫn với bị cáo và bị hại.
H: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã đưa kiếm cho ai?
Đ: Tơi khơng nhớ đã đưa kiếm cho ai.
H: Có biết kiếm có thể gây nguy hiểm cho người khác?
Đ: Tôi biết kiếm là vật nguy hiểm nhưng tôi chỉ muốn mang đi để tự vệ.
* Hội thẩm hỏi người làm chứng Vũ Văn Hiếu
H: Có tham gia khống chế, hành hung bị hại không?
Đ: Thưa, không.
H: Ai đưa kiếm cho Vũ Văn Đạt? Lí do?
Đ: Anh Hồng đi chơi với bạn gái nên đưa kiếm cho anh Đạt giữ hộ.
* Hội thẩm hỏi bị cáo Đạt
H: Sau khi mà bị cáo biết tin anh Tâm chết thì bị cáo có ý định ra cơng an
trình báo về hành vi phạm tội của mình khơng?
Đ: Có nhưng chưa kịp trình báo thì đã bị bắt.
H: Bị cáo có vận động gia đình mình bồi thường cho gia đình anh Tâm
khơng? Bồi thường được bao nhiêu rồi? Bị cáo có ý kiến gì về khoản bồi thường
mà gia đình nhà anh Tâm u cầu khơng?
Đ: Thưa, có. Bố bị cáo đã bồi thường 5 000 000 đồng cho nhà anh Tâm.
H: Gia đình bị cáo có ai được nhà nước cơng nhận là có cơng với cách
mạng hay có hn huy chương gì khơng? Bị cáo khơng có ý kiến gì về khoản
bồi thường được yêu cầu?
Đ: Gia đình bị cáo khơng có ai. Bị cáo khơng có ý kiến về khoản bồi
thường được u cầu.
H: Tại sao khơng trình báo lên cơ quan cơng an mà lại tự mình xử lí?
Đ: Khơng cần trình báo vì nghĩ tự mình xử lí được.
H: Bị cáo có biết ý định của Nghĩa và Hiếu khi đi cùng mình?
Đ: Thưa, khơng.
H: Bị cáo có ý định giết người khơng?
Đ: Thưa, khơng.
H: Tại sao bị cáo lại rút kiếm ra đâm anh Tâm thay bị đánh lại?
Đ: Bị cáo nóng giận và mọi việc diễn ra rất nhanh.
* Đại diện VKS hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Vũ Văn
Hoàng
H: Anh giao kiếm trước hay sau khi gặp bạn gái?
Đ: Tôi say nên không nhớ rõ.
* Đại diện VKS hỏi bị cáo Nghĩa
H: Miêu tả cảnh hội xung quanh?
Đ: Trời vừa tạnh mưa.
H: Lí do gì khiến bị cáo khơng đuổi theo anh Tâm nữa? Bị cáo có thấy
dáng vẻ anh Tâm lúc đó?
Đ: Bị cáo nghĩ anh Tâm đã sợ. Bị cáo thấy anh Tâm vẫn chạy được.
H: Sau khi quay về, bị cáo thấy tâm trạng của anh Đạt thế nào?
Đ: Anh Đạt có vẻ đã hết tức giận.
* Đại diện VKS hỏi bị cáo Đạt
H: Tại sao bị cáo lại mang kiếm đi hội? Bị cáo có biết kiếm có thể gây
nguy hiểm cho người khác?
Đ: Kiếm được Hoàng đưa cho chỉ để phịng thân.
H: Bị cáo có phải là người dễ nóng giận?
Đ: Bị cáo nghĩ ai trong trường hợp đó cũng sẽ nóng giận.
H: Bị cáo ln có xu hướng dùng vũ khí khi có sẵn bên mình?
Đ: Lần đầu tiên bị cáo hành động như vậy.
H: Tại sao bị cáo đuổi theo anh Tâm?
Đ: Do bị cáo tức giận. Bị cáo đuổi theo anh Tâm khoảng 10m rồi bỏ về.
* Đại diện VKS hỏi người làm chứng Vũ Thị Hậu
H: Mối quan hệ với hai bị cáo Đạt và Nghĩa?
Đ: Là em họ của anh Đạt và anh Nghĩa.
H: Thời gian hai bị cáo Đạt và Nghĩa đến nhà?
Đ: Chiều ngày 02/02/2019 khoảng 17h, hai anh đến chơi, bố cháu nói với
các anh là “Chúng mày lại đi đánh nhau ở đâu về à?”
H: Tại sao lại nói là “Chúng mày lại đi đánh nhau ở đâu về à”?
Đ: Thưa, không biết.
H: Trạng thái của hai bị cáo Đạt và Nghĩa khi đến nhà?
Đ: Cả hai anh Đạt và Nghĩa đều ở trong trạng thái bình thường.
H: Ngày hơm đó Đạt và Nghĩa có để lại gì ở nhà cháu khơng?
Đ: Một ống sắt màu xám dài khoảng 40cm, đường kính 3cm, có một chiếc
chi dao thị ra ngồi chiếc tp sắt đó.
* Đại diện VKS hỏi người làm chứng Hoàng Thị Hạnh
H: Mối quan hệ giữa người làm chứng với bị hại?
Đ: Tơi khơng có mối quan hệ thân thích gì với anh Tâm, chỉ là người cùng
thơn, là hàng xóm với nhau.
H: Miêu tả sự việc chứng kiến, hành động, tình trạng?
Đ: Lúc đó khoảng 15h, tơi đang ở đằng sau nhà gần bờ ruộng bổ củi, thì
thấy Tâm trèo vào tường nhà tôi. Khoảng cách từ bờ ruộng đến nhà tôi tầm 30m,
thường tôi đi chỉ hết ba phút thôi. Tôi thấy anh chảy rất nhiều máu ở đùi, bê bết
máu. Khi ấy tôi sang gọi ông Lưu.
3. Tranh luận tại phiên tịa:
* Đại diện VKS trình bày lời luận tội:
Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự tại khoản 1 điều 123 BLHS, Điều 91
BLHS, Điều 17 BLHS về đồng phạm, Điều 38 về hình phạt tù có thời hạn, Điều
58 BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm.
Xem xét tính chất, mức độ, hậu quả nghiêm trọng của hành vi phạm tội
mà hai bị cáo đã thực hiện, tình tiết tăng nặng theo điểm d, khoản 1, điều 52
BLHS, tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Vũ Văn Đạt và Vũ Văn Nghĩa phạm
tội Giết người. Đề nghị xử phạt các bị cáo:
- Bị cáo Vũ Văn Đạt: Truy tố bị cáo tội Giết người với khung hình phạt từ
12 đến 20 năm tù. Xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Bị cáo Vũ Văn Nghĩa: Truy tố bị cáo tội Giết người với khung hình phạt
từ 12 đến 20 năm tù. Xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thuộc
trường hợp là người chưa thành niên.
* Luật sư Đoàn Đức Lộc – người bào chữa cho Vũ Văn Đạt trình bày
lời bào chữa:
Khi đi chơi hội, hành vi mang kiếm của bị cáo Đạt là việc trơng giữ tài
sản hộ anh Hồng. Khi đâm vào anh Tâm, Đạt chỉ đâm vào đùi để cảnh cáo. Bị
cáo chỉ theo phản xạ nên sau khi tinh thần đã ổn định đã không đuổi theo anh
Tâm nữa. Bị cáo Đạt đã tránh đâm vào thân trên và không thể biết rằng đâm vào
đùi có thể gây chết người. Bị cáo không muốn giết anh Tâm. Khi biết anh Tâm
chết, bị cáo rất sợ, muốn đến nhà anh Tâm xin lỗi và bồi thường. Bị cáo cịn trẻ
và trình độ học vấn 8/12 nên với tâm lí nóng giận đã giết anh Tâm. Mục đích
hình phạt khơng chỉ để răn đe mà còn để giáo dục. Đề nghị hội đồng xét xử ra
quyết định phù hợp.
* Luật sư Nguyễn Hữu Hồng – người bào chữa cho Vũ Văn Nghĩa
trình bày lời bào chữa:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và dựa vào kết quả xét hỏi công khai tại
phiên tịa ngày hơm nay tơi cho rằng việc vị đại diện Viện Kiểm sát truy tố thân
chủ tôi về tội Giết người theo quy định tại điểm n khoản 1 điều 123 và điểm e
khoản 1 điều 52 về Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng là khơng hợp lí. Vũ Văn
Nghĩa khơng hề có ý muốn giết chết bị hại vì khơng có ý định đuổi theo hay cố
gắng truy giết đến cùng. Bị cáo Nghĩa ngoan ngoãn, lại rất thương anh trai.
Nghĩa là người dưới 18 tuổi. Đề nghị giảm nhẹ đối với bị cáo Vũ Văn Nghĩa từ
Giết người theo điểm n khoản 1 điều 123 xuống cịn Cố ý gây thương tích khoản
1 điều 134.
* Luật sư bị hại Cao Hoàng Mai:
Các bị cáo sẵn sàng ra tay khi mang theo vũ khí khi đi lễ hội. Sau khi bị
Tâm đập nhẹ vào đầu, bị cáo Đạt đã khẳng định điều này không thể bỏ qua. Bị
hại Tâm cũng trong tâm lí tức giận nên mới đánh bị cáo Đạt. Bị hại tâm là lao
động chính trong gia đình, nên cần được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với
mức 205 800 000 đồng.
4. Lời nói sau cùng của bị cáo:
Bị cáo Vũ Văn Đạt: Đã nhận thức được hậu quả của hành vi. Mong hội
đồng xét xử sớm được làm lại cuộc đời.
Bị cáo Vũ Văn Nghĩa: Mong hội đồng xét xử cho bị cáo sớm được tái hoà
nhập cộng đồng.
Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án;
Hội đồng xét xử vào phòng xử án và tuyên án.
Phiên tòa kết thúc vào hồi 09 giờ 30 phút cùng ngày./.
THƯ KÝ GHI BIÊN BẢN
THẨM PHÁN –
PHIÊN TÒA
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lý Vương Khanh
Trịnh Quốc Đạt
(Ký tên, ghi rõ họ tên)
(Ký tên, ghi rõ họ tên, đóng dấu)