Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tìm hiểu về Đạo Mẫu lịch sử hình thánh và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.58 KB, 33 trang )

MỤC LỤC

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN......................................................................2
1.1. Tín Ngưỡng thờ Mẫu là gì:......................................................................................................2
1.2. Thờ Tam phủ - Tứ phủ............................................................................................................2
1.3. Q trình hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu............................................................................3

II. NHÂN VẬT LỊCH SỬ.........................................................................................................6
2.1. Thờ Mẫu ở Bắc bộ...................................................................................................................7
2.2. Thờ Mẫu ở Trung Bộ...............................................................................................................7
2.3. Thờ Mẫu ở Nam bộ..................................................................................................................7
2.4. Thánh Mẫu Liễu Hạnh............................................................................................................7
2.5. Các vị thần khác của đạo Mẫu................................................................................................8

III. VĂN KHẤN......................................................................................................................13
3.1. Một số bài văn khấn trong đạo Mẫu....................................................................................13
3.2. Thực hành tín ngưỡng thờ mẫu............................................................................................15
3.3. Trang phục trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu...............................................................15
3.4. Các thành phần tham gia của lễ lên đồng :..........................................................................16
3.5. Trình tự một giá hầu :............................................................................................................17
3.6. Ý nghĩ của thực hành tín ngưỡng thờ mẫu :........................................................................21

IV. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT.......................................................................................................22
4.1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ.......................................................................22
4.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung Bộ..........................................................................................25
4.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ............................................................................................25

V. CƠNG TRÌNH TÔN GIÁO GẮN LIỀN............................................................................28
VI. NHỮNG ĐIỀU ĐẶC BIỆT KHÁC..................................................................................29
6.1. Những điều kiêng kị...............................................................................................................29
6.2. Khác biệt................................................................................................................................30


6.3. Lỗi đồng phạm luật:..............................................................................................................33


I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I.1. Tín Ngưỡng thờ Mẫu là gì:
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có lịch sử lâu đời gắn liền với nền
sản xuất nông nghiệp lúa nước Việt Nam và biến chuyển, thích ứng với sự thay đổi
của xã hội.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là việc tôn thờ nữ thần phải do người nữ thực hiện,
tuyệt đối không là người nam, thờ Thánh Mẫu, thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ xuất hiện khá
phổ biến và có nguồn gốc lịch sử và xã hội sâu xa. Tuy tất cả đều là sự tơn sùng thần
linh nữ tính, nhưng giữa thờ nữ thần, Thánh Mẫu, Mẫu tam phủ, tứ phủ không hồn
tồn đồng nhất.Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với
những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tơn thờ Mẫu (Mẹ) làm
thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con người. Tín
ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hố mang khn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó
người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những
thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo phong kiến.Ngồi ra cịn có Thánh Bản
mệnh là vị thần đứng đầu dẫn dắt người tu đạo đi đến với Mẹ (Mẫu) - Đấng Tối cao
trong Đạo Mẫu Việt Nam – Hồng Thiên Tiên Thánh Giáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu
Việt Nam.
Thờ Mẫu chính là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần
gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ; được người đời cho rằng có quyền năng sáng
tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người như: trời, đất, sơng nước, rừng
núi….; thờ những thái hậu, hồng hậu, cơng chúa là những người khi sống tài giỏi, có
cơng với dân, với nước, khi mất hiển linh phù trợ cho người an, vật thịnh.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được hình thành và phát triển từ tín ngưỡng bản địa
thờ Nữ thần và Mẫu thần với các quyền năng sinh sôi, bảo trợ và che chở cho con
người, rồi tiếp thu những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa để đạt đến đỉnh cao là
đạo thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Tới thế kỷ 17-18, khi mẫu Tam phủ, Tứ phủ đã được

hình thành và phát triển thì nó lại Tam phủ, Tứ phủ hóa tục thờ Nữ thần, Mẫu thần.
Về Nữ Thần được thờ có thể là nhiên thần như: Thần sấm, thần Mây, thần Mưa, thần
Chớp (Tứ pháp), Mẹ Đất, Mẹ Nước ...có thể là nhân thần như Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu
Âu Cơ, Ỷ Lan, Bà Trưng, Bà Triệu…
I.2. Thờ Tam phủ - Tứ phủ
Tam phủ là gì
– Tam phủ: Là nơi làm việc của các quan âm, chư vị thần linh của ba Miền: Thiên
Phủ, địa phủ, thoải phủ
Theo lịch sử phát triển của Tín ngưỡng Tam tứ phủ, thì khái niệm Tam phủ có trước,
Tứ phủ có sau.


Tín ngưỡng thờ Tam Phủ (Thiên-Địa-Thủy) giao thoa với tín ngưỡng thờ Sơn Trang
của các dân tộc vùng núi phía Bắc, hình thành nên Tứ Phủ. Tam Tịa Thánh Mẫu khi
đó bao gồm:
 Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên
 Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên (Thánh Mẫu Liễu Hạnh)
 Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ
Mẫu Thượng Ngàn được thờ riêng ở ban Sơn Trang
Tứ phủ là gì
Tứ phủ là nơi làm việc của các quan âm, chư vị thần linh của bốn Miền: Thiên Phủ,
địa phủ, thoải phủ, Nhạc phủ.
 1. Đệ nhất thượng thiên
 2. Đệ nhị thượng ngàn
 3. Đệ tam thoải phủ
 4. Đệ tứ khâm sai ( Đệ tứ địa phủ)
Như vậy tứ phủ vạn linh là chỉ toàn bộ chư thánh của tín ngưỡng thờ mẫu mà đứng
đầu là Thánh Mẫu
Đây chính là mức phát triển cao về nhiều mặt từ thờ Mẫu thần. Ở tín ngưỡng Tam phủ
- Tứ phủ đã có sự “chưng cất” từ tín ngưỡng đa thần về một số vị nữ thần cơ bản và

gọi là Mẹ, Thánh Mẫu.
I.3. Quá trình hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu
* Xuất phát điểm
Người Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên, nhưng cũng phải chống chọi rất
nhiều với thiên nhiên. Do đó, con người ln cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các
“Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc nhiên thần cũng lần lượt ra đời.
Như đã trình bày ở trên, đất là nơi bắt đầu cho sự sống của con người, nên tín
ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc từ thờ thần đất. Do đó, q trình từ sự tín vọng về Mẹ
Đất trở thành Mẫu Địa là một quá trình cơ bản ban đầu trong tâm thức của người Việt
cổ.
Trời là đối tượng được ngưỡng vọng của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Trời
không chỉ chi phối nghề nông mà còn ảnh hưởng đến sự sinh tồn của con người. Do
đó, trời ngự trị thường trực trong tâm thức của con người, cho nên dẫn đến hiện
tượng: cầu trời, nhờ trời, kêu trời, kính trời…


Mẹ Đất là biểu tượng của sự sống, của sự sinh sôi nảy nở và ngay cả khi chết đi
cũng trở về với đất, trở về bên mẹ. Từ sự nhận thức đó, trong tâm thức của người Việt
cổ đã “thần thánh” hóa mẹ, từ người mẹ cụ thể thành người mẹ tâm linh, coi Mẹ Đất
như một vị thần.
Cùng với đất, cây chính là cái đầu tiên đảm bảo cho sự sinh tồn của con người, nên
ý thức về Mẹ Cây của con người cũng dần được hình thành.. Do đó, người Việt thờ
“Mẹ Cây” hay cịn gọi là Mẫu Thượng Ngàn.
Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt khởi đầu gắn với con người từ khi cư
trú ở những vùng rừng núi. Với hình ảnh đầu tiên là Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn,
Mẫu Sơn Lâm. Trong quá trình di cư xuống những vùng thấp hơn, tín ngưỡng thờ mẫu
dần dần lan tỏa xuống những vùng đồng bằng. Vì thế, trong các buổi hầu bóng tái hiện
Mẫu Thượng Ngàn, thường là những bà người Dao, Tày, Nùng… Và không gian
thiêng liêng thờ Mẫu khi ấy chưa phải là “phủ”, mà chỉ là những ngơi miếu có quy mơ
nhỏ.

Mẫu Thoải (mẹ của lực lượng sáng tạo ra sông nước) có rất nhiều dị bản, huyền
tích khác nhau. Nhưng tựu chung đó là “Mẫu” trị vì sơng nước, xuất thân từ dịng dõi
Long Vương (Thần Long).
Hình ảnh Mẫu Địa, Mẫu Thủy dần được hình thành tham dự vào “hàng Ngũ Mẫu”
Các huyền thoại, sự tích về Mẫu Thoải đến nay chưa được rõ ràng vì mỗi nơi hiểu
theo một cách, tuy nhiên, lại có những điểm chung cơ bản. Mẫu Thoải có nguồn gốc
thủy thần, ít nhiều gắn với Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên, là
những nhân vật nửa huyền thoại, nửa lịch sử là thủy tổ tộc người Việt chúng ta. Hiện
nay, tại Tuyên Quang người dân thờ Mẫu Thoải tại đền Dùm, thuộc Yên Sơn, trên hữu
ngạn sơng Lơ.
Tín ngưỡng xuất phát từ thực tế cuộc sống, con người đặt ra những lực lượng thần
bí để tôn vinh, tôn thờ cho phù hợp với cuộc sống của mình. Và thế là Mẹ Cây, Mẹ
Đất, Mẹ Nước, Mẹ Trời, hay gọi theo tiếng Hán là Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu
Thoải, Mẫu Thiên đã ra đời. Đó là hệ thống Mẫu cơ bản đầu tiên của tín ngưỡng thờ
Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển chủ yếu ở khu vực Bắc Bộ.
* Thời kỳ Bắc thuộc
Từ sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đất nước chính thức bước vào thời kỳ
Bắc thuộc với gần một ngàn năm đô hộ. Dưới sự cai trị hết sức hà khắc của các triều
đại phong kiến phương Bắc, ngoài việc phản kháng lại các thế lực bạo tàn, một điều
chắc chắn, người dân Việt không thể không cầu vọng đến các thế lực thần linh, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người mẹ tâm linh – Mẫu.
Đây là thời kỳ có nhiều truyền thuyết liên quan đến mẹ tâm linh, đặc biệt dựa trên
những cội nguồn sẵn có (như đã trình bày ở trên), vai trị của người mẹ trong chế độ
mẫu hệ tiếp tục được phát huy và được đưa vào trong đời sống tinh thần hàng ngày.
Do đó, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều chuyện kể hoặc những truyền thuyết về mẹ.


Nhưng phải khẳng định rằng, thời kỳ này, các truyền thuyết về mẹ tâm linh xuất
hiện mang tính độc lập, chưa có sự liên kết hay các mối quan hệ ràng buộc với nhau.
Có thể do một phần nhận thức xã hội, hay một phần do sự trói buộc của các thế lực cai

trị, các bà mẹ tâm linh xuất hiện chưa thể hiện rõ quyền năng cũng như ý thức phản
kháng rõ rệt. Ở thời kỳ này, người dân dựa vào mẹ tâm linh chủ yếu là an ủi về mặt
tinh thần cũng như đáp ứng các yêu cầu của từng làng, xã riêng lẻ.
. Những người mẹ mang yếu tố nhân thần đã bắt đầu xuất hiện, như: Mẹ Âu Cơ (sau
này tôn vinh là Quốc Mẫu), Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân, Tứ vị Hồng Nương, Mẫu Man
Nương
* Thời kỳ độc lập tự chủ
Sau thời kỳ Bắc thuộc kéo dài gần một ngàn năm, đến năm 938, khi Ngô Quyền
đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi của đất nước, nước ta chính thức bước vào
thời kỳ độc lập tự chủ. Ngoài việc xác lập lại nền độc lập của đất nước, đây cũng là
thời kỳ người Việt phục hưng các giá trị văn hóa của dân tộc, trong đó có các tín
ngưỡng dân gian, điển hình là niềm tin về mẹ tâm linh. Ngồi những đối tượng đã
được thờ phụng trước đó, thời kỳ này cịn phát triển nhiều truyền thuyết liên quan,
thậm chí xuất hiện nhiều truyền thuyết mới và nhiều nhân vật mới.
Những nhân vật mẫu tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến: Nguyên phi Ỷ Lan (sau
này được phong là Thánh Mẫu Ỷ Lan), Thánh Mẫu Liễu Hạnh (một nhân vật được
người dân xếp vào hàng “Tứ bất tử” trong tâm thức của người Việt),… Những nhân
vật lịch sử này được nhân dân thờ phụng, tôn làm Thánh Mẫu, giữ một vị trí trang
trọng trong đời sống tâm linh nói riêng và đời sống tinh thần nói chung của người
Việt. Tín ngưỡng này trở nên phổ biến trong đời sống của người dân Bắc Bộ, và có lễ
hội thường niên hàng năm tổ chức rất quy mơ và linh đình.
Khi tín ngưỡng thờ Mẫu vào miền Trung, tiếp thu thêm việc thờ nữ thần xứ sở Pô
Inư Nagar của người Chăm, tín ngưỡng thờ Mẫu này có pha chút Đạo giáo thần tiên,
biến thành thờ Thiên Yana, bà mẹ y theo mệnh trời. Riêng ở Huế, ngày xưa cũng có
điện thờ Mẹ xứ sở Pô Inư Nagar của người Chăm, sau này được người Việt tiếp thu
thành nữ thần Thiên Yana, nơi thờ được đổi thành điện Hòn Chén, hoặc Huệ Nam
điện, Thiên Yana được gọi là Bà Chúa Ngọc. Ở Nam Bộ, Mẫu kết hợp với nữ thần Đất
của người Khmer Nam Bộ thành Bà Chúa Xứ được thờ ở khắp các làng ấp Nam Bộ,
điển hình là miếu thờ Bà chúa Xứ ở Châu Đốc An Giang và điện Bà Đen ở núi Bà
Đen tỉnh Tây Ninh.

Mẫu Liễu Hạnh giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống của cư dân đồng bằng Bắc
Bộ. Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ
đạo của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa
rộng và bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy ra đời sau nhưng
Mẫu Liễu Hạnh lại thường được đặt vào vị trí trang trọng nhất trên ban thờ Mẫu Tứ
phủ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể
vừa là thiên thần (tiên) vừa là nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng


con, chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc… Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên,
có lúc lại đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Nhưng trên thực tế, trong đời sống của lớp người Việt bình dân thì người phụ nữ
vẫn giữ một vị trí đặc biệt. Trong tâm thức của người dân, người mẹ (Mẫu) vẫn được
coi là có quyền lực bất khả kháng. Mẹ trở thành biểu tượng thường trực trong mọi thế
ứng xử của người Việt. Vì vậy, ở Việt Nam người mẹ được tơn vinh thành riêng một
tín ngưỡng – thờ mẹ (Mẫu).

II. NHÂN VẬT LỊCH SỬ
Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa cùng với những ảnh hưởng
ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tơn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các
quyền năng sinh sôi, bảo trữ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được
giới tính hố mang khn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam
đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của
xã hội Nho giáo phong kiến.
Điều đáng quan tâm là, tín ngưỡng này tuy phát triển có phần rộng khắp, nhưng chưa
bao giờ trong các chế độ cũ có có đủ điều kiện để trở thành một hệ tơn giáo chính
thống, vì:
- Không hề được sáng lập bởi một vị giáo chủ cụ thể nào;
- Khơng hề có hệ thống giáo lý gắn với nhân sinh quan và vũ trụ quan một cách

mạnh mẽ. Nó vì nhu cầu thiếu hụt tâm linh của quần chúng ở các thời kỳ khác nhau,
rồi tự điều chỉnh để tồn tại. Vì thế, nó thâm nhập vào mọi nơi, mọi chốn, thậm chí vào
cả các tơn giáo lớn, để cho tơn giáo ngoại lai thích hợp có thể phổ cập và tồn tại trong
quần chúng (khi tơn giáo đó biết dung hội với tín ngưỡng này, các tượng Phật giáo
phần nhiều mang dạng nữ, nhất là Quan Âm Bồ Tát).
- Tín ngưỡng thờ Mẫu sở dĩ tồn tại lâu dài hơn mọi tôn giáo khác và giữ được nhiều
yếu tố về đạo và đức đậm đà bản sắc dân tộc, theo chúng tơi, vì xưa nay nó khơng có
một tổ chức áp đặt từ trên xuống để chi phối mọi việc liên quan. Thực tế lịch sử đã
cho thấy, mọi chính quyền quân chủ thời Trung cổ khơng biết dựa vào khâu nào để
cho phối nó, nhất là khi ảnh hưởng của nó qúa rộng, lại dễ tập hợp được quần chúng.
Đó là một điều đáng lo ngại cho mọi chế độ xã hội chứa đầy mâu thuẫn giai tầng/cấp.
Vì thế, trước đây, nhiều khi tầng lớp thống trị và nho sĩ thường chê bai và gán cho tín
ngưỡng thờ Mẫu nhiều yếu tố tiêu cực, thậm chí đả kích vào cả các thánh Mẫu. Họ bài
bác và gán cho tín ngưỡng này đậm yếu tố mê tín dị đoan, đặt nó ra ngồi khơng gian
tư tưởng chính thống, đồng thời ln tìm cách khống chế nó
II.1. Thờ Mẫu ở Bắc bộ
Bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử, tới thời phong kiến
một số Nữ thần đã được cung đình hố và lịch sử hố để thành các Mẫu thần tương
ứng thời kỷ từ thế kỷ 15 trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến,
hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu
như hiện tượng thờ Ỷ Lan nguyên phi, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương


Từ khoảng thế kỷ 15 trở đi, hình thức thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và
phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện Thánh Mẫu Liễu Hạnh với các nghi
thức ảnh hưởng từ Đạo giáo
II.2. Thờ Mẫu ở Trung Bộ.
Dạng thức thờ Mẫu này chủ yếu ở khu vực nam Trung bộ, đặc trưng cơ bản của dạng
thức thờ Mẫu ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu khơng có sự hiện diện của mẫu Tam phủ,
Tứ phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ thần như thờ

Tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Thánh Mẫu như thờ Thiên Y A
Na, Po Nagar
II.3. Thờ Mẫu ở Nam bộ.
So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định với biểu hiện
rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ sự phân biệt giữa
hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn, hiện tượng này được giải thích với
nguyên nhân Nam Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây họ vừa mang
các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư
dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hố mà cịn cả
trong tín ngưỡng
Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương,
Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,...và những Mẫu thần được thờ phụng như
Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Hậu
Đạo Mẫu có hơn 100 các thần thánh được thờ cúng, nhưng chúng ta chú ý những khái
niệm các vị cơ bản sau:
II.4. Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là cơng chúa của Ngọc Hồng Thượng đế, do lỡ tay
làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc
tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và
sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc
Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng
ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu,
giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà
còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền
Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan
trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Cho dù cuộc đời của bà được giải nghĩa theo cách nào, Liễu Hạnh đã trở thành biểu
tượng cho sức mạnh của phụ nữ. Bà tách mình ra khỏi Khổng giáo với quan niệm
trọng nam khinh nữ. Bà nhấn mạnh vào hạnh phúc, quyền tự do đi lại và độc lập tư
tưởng. Vừa được kính sợ vừa được yêu mến, các nguyên tắc của bà về trừng phạt kẻ

xấu và ban thưởng người tốt cũng đã gửi một thông điệp về sự bảo vệ và hy vọng vào
công bằng xã hội cho nhân dân trong thời loạn lạc của các thế kỷ 17-19. Vừa là thần
tiên vừa là người (con gái, vợ, mẹ), Liễu Hạnh chia sẻ vui buồn với những người trần
tục. Bà được coi là vị thần cảm thông và độ lượng nhất. Bà trở thành một trong các vị


thần của Đạo Mẫu và nhanh chóng được nâng lên vị trí quan trọng nhất, cai trị các vị
thần ở dưới và thế giới con người
II.5. Các vị thần khác của đạo Mẫu
Trong các đền thờ của Đạo Mẫu có nhiều vị thần được sắp xếp theo các thứ bậc. Đầu
tiên là Ngọc Hoàng. Đây là vị thần tối cao và được đặt ở vị trí danh dự, nhưng lại ít
được thờ cúng. Vị thần cao nhất của Đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Các vị khác
được đặt tại các ban thờ tam phủ hoặc tứ phủ. Các Chư Linh của ban Tứ Phủ được
phân chia như dưới đây:
1. Bảo Dân Hộ Quốc Thánh Mẫu
Mẫu Âu Cơ (Thiên Phủ & Nhạc Phủ)
 Mẫu Đệ Nhất (Thiên Phủ). Danh hiệu: Mẫu Liễu Hạnh
 Mẫu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thượng Ngàn
 Mẫu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Mẫu Thoải
 Mẫu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Lê Mại Đại Vương
2. Phụ Vương Đại Thánh
 Lạc Long Quân (Thoải Phủ)
 Bát Hải Long Vương (Thoải Phủ). Danh hiệu: Vua Cha
3. Trần Triều Hiển Thánh
 Đức Thánh Trần. Danh hiệu: Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo - Tiết chế quốc
cơng Hưng Đạo Đại vương)
 Đệ Tam Ơng Cửa Suốt - Con trai thứ ba của Hưng Đạo Vương
 Đệ Nhất Vuong Cô - Con gái thứ nhất của Hưng Đạo Vương
 Đệ Nhị Vương Cô - Con gái thứ hai của Hưng Đạo Vương
 Đức Thánh Phạm Danh hiệu: Phạm Ngũ Lão - Con rể của Hưng Đạo

Vương
 Cô Bé Cửa Suốt -cháu gái của Hưng Đạo Vương
 Cậu Bé Cửa Đông-cháu trai của Hưng Đạo Vương
4. Các Vị Chúa Mường
là các vị Chúa Bà chuyên về đáp giải bói bốc. Nếu chỉ tính ba vị Chúa Bói thì gọi là
"Tam Tồ Chúa Bói."
 Chúa Đệ Nhất Tây Thiên(Thiên Phủ)&(Nhạc Phủ)
 Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ(Nhạc Phủ)


 Chúa Đệ Tam Lâm Thao (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
 Chúa Cà Phê (Địa Phủ)&(Nhạc Phủ)
 Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương(Nhạc Phủ)
 Chúa Long Giao(Nhạc Phủ)
 Chúa Thác Bờ (Thoải Phủ)&(Nhạc Phủ)
 Chúa Mọi(Nhạc Phủ)
5. Ngũ Vị Tôn Quan
Trách nhiệm của ngũ vị này là giáng vào thanh đồng để bắt đầu "mở phủ" cho các giá
đồng sau được theo vào người đồng.
Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió,
và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba
tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về
Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước
để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn
phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao
vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông
pha quỉ thế tà giới.
Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ơng quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ơng có

trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu
vàng.
Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng
đi tuần ở Sơng Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh
long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.
6. Lục Phủ Tơn Ơng
 Đệ Nhất Vương Quan. Danh hiệu: Quan Điều Thất
 Đệ Nhị Vương Quan. Danh hiệu: Quan Hoàng Triệu
7. Tứ Phủ Chầu Bà
Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là
Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ


Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình Cốc Thượng là nơi tơn thờ Chiêu Dung cơng chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có cơng
với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm
lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau
Công nguyên (năm 40)
Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Cơng Chúa
Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa
Ngũ Hành Ngũ Phương
Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng
Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ
xinh đẹp và giỏi võ nghệ.

Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
Chầu Mười Một
Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
8. Chầu Bà Ngũ Hành
 Đệ Nhất Chầu Bà Kim Tinh Thần Nữ
 Đệ Nhị Chầu Bà Mộc Tinh Thần Nữ
 Đệ Tam Chầu Bà Thuỷ Tinh Thần Nữ
 Đệ Tứ Chầu Bà Hoả Phong Thần Nữ
 Đệ Ngũ Chầu Bà Thổ Đức Thần Nữ
9. Thập Vị Thủy Tế
Ơng Hồng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ơng Hồng Quận/ Lê Lợi
Ong Hồng Đơi (Nhạc Phủ)
Ơng Hồng Bơ (Thoải Phủ)
Ơng Hồng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
Ông Hoàng Năm
Ông Hoàng Sáu


Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
Ông Hồng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ơng Bát Quốc, là một ơng quan gốc người
Hán đóng qn ở Lào Cai
Ơng Hồng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ơng Cờn Mơn
Ơng Chín Thượng(Nhạc Phủ)
Ơng Hồng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ơng Nghệ An, có cơng chống giặc
Minh từ bên Trung Quốc. Hiện nay đang có 3 hình tượng: Nguyễn Duy Lạc, Nguyễn
Xí, Lê Khơi được đồng nhất là Cụ Hồng Mười.
10. Tứ Phủ Tiên Cô
 Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
 Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)

 Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)
 Cô Đơi Cam Đường(Nhạc Phủ) q cơ ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô
Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
 Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
 Cô Tư (Địa Phủ)
 Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
 Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
 Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)
 Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
 Cơ Chín Sịng Sơn(Thiên Phủ)
 Cơ Chín Thượng(Nhạc Phủ)
 Cơ Chín Thoải (Thoải Phủ)
 Cơ Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
 Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)
 Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
 Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
 Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)
 Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc
11. Thập Vị Triều Cậu


 Cậu Hồng Cả (Thiên Phủ)
 Cậu Hồng Đơi (Nhạc Phủ)
 Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
 Cậu Hoàng Bé (Nhạc Phủ)
12. Quan Ngũ Hổ
 Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan
 NamPhuong Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan
 Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (
 Tay Phuong Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần quan.

 Bắc Phuong Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần quan.
12. Ông Lốt
 Thanh Xà Đại Tướng Qn
 Bạch Xà Đại Tướng Qn
Giải thích về sự có mặt của cả nam thần lẫn nữ thần trong các vị thần của Đạo Mẫu,
các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng: Do xã hội Việt Nam cổ xưa theo chế độ
mẫu hệ, nên phụ nữ có vị thế quan trọng trong xã hội. Tuy nhiên, người phụ nữ chỉ có
được quyền lực khi họ đã kết hơn. Do đó, nam giới cũng được xem là có vai trò quan
trọng trong cuộc sống, và họ cũng được thờ cúng.
Hệ thống thần linh theo ban thờ từ cấp trên xuống.
1. Hội đồng các Mẫu
2. Đức thánh Trần Triều
3. Hệ thống hàng quan
4. Hệ thống hàng chầu.
5. Các ơng Hồng
6. Hội đồng cô/cậu

III. VĂN KHẤN
III.1. Một số bài văn khấn trong đạo Mẫu
Video về văn khấn
Các bài văn khấn thường được đọc trước ban thờ hoặc có thể in viết ra giấy rồi tiến
dâng như sớ văn. Các bản văn khấn thường được làm theo các thể thơ lục bát, song
thất lục bát, đồng dao, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ.... với những lời lẽ giọng
điệu trau chuốt kính cẩn. Các bản văn khấn thường dùng là các bản khấn nôm gần gũi,


vần điệu, dễ hiểu dễ đọc , bên cạnh đó là các bản văn khấn hán tự mang sắc thái trang
nghiêm đĩnh đạc hơn.
Thông thường các bài văn khấn thường có các nội dung:
- Khấn danh hiệu chư vị Phật Thánh

- Khấn ngày tháng địa chỉ nơi cư ngụ, tên tuổi... của hương chủ và gia quyến - Khấn
sám hối các lầm lỗi và kêu cầu các ước nguyện
Sau đây là mẫu bài văn khấn thường dùng
Bản 1:
Nam mô đức Phật Di Đà
Nam mơ đức Phật Thích Ca giáng trần
Nam mô Bồ Tát Quan Âm
Công đồng tam phủ lai lâm độ trì
Kim niên kim nguyệt nhật thì
Hương hoa lễ vật thầm thì ngâm nga
Lời kêu như phượng như hoa
Lời kêu thấu đến mọi tòa chứng minh
Trước thời tâu tới thiên đình
Sau thời thoải quốc động đình vua cha
Tấu lên quốc mẫu bơ tòa
Hội đồng quan lớn chầu bà sơn trang
Tâu lên tứ phủ thánh hồng
Tiên cơ thánh cậu tịa vàng châu cung
Lịng thành sửa lễ kính dâng
Nguyện xin Phật Thánh công đồng gia ân
Nhất nguyện xá lỗi xá lầm
Nhị nguyện Phật Thánh chứng tâm lòng thành
Tam nguyện phú quý khang ninh
Tứ nguyện quốc phú thái bình dân an
Lịng thành con thắp tuần nhang
Kính trình Phật Thánh đáo đàn chứng minh


Đệ tử con tên là..........................................
Ngụ tại.......................................................

Ngày hôm nay là ngày................................
Đệ tử con cùng đồng gia quyến đẳng một dạ nhất tâm
thiết lễ kính ngưỡng, cúi xin Tam Bảo Chư Phật Chư Bồ Tát Hiền Thánh Tăng
Tam phủ công đồng - tứ phủ vạn linh
chứng minh công đức -cho đệ tử con:
Cầu được ước nên - hữu duyên hữu phúc - hữu lộc hữu tài
Cầu một được mười - cầu người được của
Cho rồng bay phượng múa - muôn thủa hưng long
Cho chốn gia trung- thuận hòa gia nội
Xá lầm xá lỗi -mn tội tiêu trừ
Rộng mở lịng từ - tả phù hữu bật

Nay con :
Tâm thành như nhất- lễ vật tiếng dâng
Phật Thánh chứng tâm- chư thần bảo hộ
Kính xin Chư Phật Thánh chứng giám lịng thành . Nam mơ A di đà Phật. 3 lần
III.2. Thực hành tín ngưỡng thờ mẫu
- Khái niệm : • Từ thế kỷ XVI, tín ngưỡng thờ Mẫu trở thành một sinh hoạt văn hóa
tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân,
đáp ứng nhu cầu và khát vọng của đời sống con người. Đó là hình thức diễn
sướng hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, là sự giao lưu của con người với Mẫu
thông qua thanh đồng, cậu đồng


Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt trở thành Di sản
văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ngày 01 tháng 12 năm 2016, tại Phiên
họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của
UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, nước Cộng hòa dân chủ Liên bang
Ethiopia, di sản Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã
chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại

diện của nhân loại.




Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu tam phủ của người Việt phân bố ở nhiều
địa phương: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, thành phố Hồ Chí Minh,
lan tỏa và được thực hành ở nhiều địa phương trong cả nước. Tỉnh Nam Định
được coi là một trong những địa phương có các trung tâm thờ thánh Mẫu Liễu
Hạnh tiêu biểu với những nơi lưu giữ sự tích về sự giáng thế của Mẫu như Phủ
Dầy, Phủ Nấp và gần 400 nơi thờ cúng thánh Mẫu. Chủ thể di sản là thủ nhang,
thầy cúng, thanh đồng, hầu dâng, cung văn, con nhang đệ tử cùng với cộng đồng
cư dân có chung một niềm tin vào quyền năng, sức mạnh tối linh, sự bảo trợ của
các Mẫu, đứng đầu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, gắn bó với nhau thành bản hội,
cùng nhau thực hành nghi lễ thờ cúng, tham gia lễ hội, lên đồng tại các phủ, điện
Thờ Mẫu.



Tại các điện thờ Thánh Mẫu, nghi thức thờ cúng hàng ngày do các thủ nhang
thực hiện. Thực hành cơ bản của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ là nghi lễ lên
đồng và lễ hội. Tiêu biểu là Lễ hội Phủ Dầy ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định
Nơi thực hành tôn thờ. Ở đây là những nơi thờ các vị thánh là đền, phủ, miếu
III.3. Trang phục trong thực hành tín ngưỡng thờ mẫu
- Trang phục rất đa dạng bao gồm rất nhiều màu sắc nổi bật nhưng nổi bật nhất
với các màu chủ đạo như đỏ, trắng, xanh lá và vàng. Đây là những màu đại diện
cho 4 vị trong tứ phủ là thiên phủ( áo màu đỏ), nhạc phủ (áo màu xanh), thoải phủ
(áo màu trắng) và địa phủ (áo màu vàng). Ngồi ra cịn có các màu như
hồng, xanh lắm, tím,...

- Các trang phục là các bộ trang phục của các vị thánh như các chầu bà, các quan ,
các cô bé, cậu bé,...mỗi trang phục là gắn liền với 1 giá hầu (36 giá) và là 1 vị
riêng hoàn toàn.



Lên đồng là một nghi lễ quan trọng bậc nhất của Đạo Mẫu. Nghi lễ chính,
trung tâm của Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ là nghi lễ Lên đồng –
được hiểu là một hình thức diễn xướng dân gian, thể hiện đức tin về sự
giáng/nhập của các vị thần trong điện thần của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ.
Các giá đồng bao gồm hát văn, trang phục, múa thiêng được kế hợp một cách hài
hòa, thể hiện sự giáng đồng của các vị thánh mang tính tâm linh và biểu tượng.
Những người thực hành tin rằng, bằng hình thức diễn xướng này, họ có thể giao


tiếp được với các đấng thần linh để gửi gắm, biểu đạt những mong muốn, khát
vọng của mình thơng qua các thầy đồng - người đóng vai trị trung gian giữa con
người và thần linh. Đây là hình thức shaman giáo - diễn xướng xuất nhập thần
tương đối phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới (Hàn Quốc, Mông Cổ,
Uzbekistan, Braxin, Zimbabwe…).
III.4. Các thành phần tham gia của lễ lên đồng :
- Khi nhắc đến 1 buổi thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ, tứ phủ hay cịn gọi
là hầu đồng sẽ bao gồm nhiều người tham gia.
- Thanh đồng (người được chọn và là nhân vật chính diễn xướng lại tồn bộ)
Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "cậu", nữ giới được gọi là "cô hoặc bà
đồng"
- hầu dâng (hay còn gọi là tay Quỳnh tay quế) có

nhiệm vụ phị tá, trợ


giúp cho thành đồng như lên hương, thay trang phục, chuẩn bị đồ,.. Thường có
hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo Thanh
Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt...
- Cung văn. Là người thực hiện việc hát các bài chầu văn miêu tả, kể lại, tôn vinh
vị thánh đang được thành đồng diễn xướng
- Đồng thầy là người thầy phủ khăn cho thanh đồng
- Thầy cúng
- Ngoài ra, các thành phần ngồi xem buổi hầu là các cử tọa. Những người này
thường là con nhang đệ tử, thường thể hiện lịng tơn kính các vị thánh mỗi khi
giáng ngự, hòa theo điệu múa hát và được Thánh ban lộc.


III.5. Trình tự một giá hầu :
Lên khăn áo :
+ Đầu tiên, sau khi hát thờ xong, cung văn bắt đầu hát hầu. Ông bà đồng lúc này
bắt đầu lảo đảo, ra dấu bằng tay, phủ vải đỏ lên mặt. Tùy vào các giá, cung văn sẽ
hát các điệu thỉnh mời khác nhau. Tới khi Thánh đã nhập, Thanh đồng hất khăn
khỏi mặt, coi như bắt đầu q trình ngự về của vị thánh này. Cịn khơng, nếu
thánh chỉ giáng qua thì ơng bà đồng lại ra dấu khác và cung văn lại chuyển sang
hát mời vị khác theo thứ tự
+ Sau khi hất khăn phủ, Ông bà Đồng đang ở một "giá" mới và phải thay bộ trang
phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng... sao cho tương xứng với "giá"


này. Với các giá Quan, Hồng thì thường ăn mặc áo của quan lại thời xưa, có
điểm đồ trang sức như trâm, thẻ ngà, bội giắt,... Các giá Chầu bà thì ăn mặc chỉnh
tề theo lối phụ nữ nhà giàu, sặc sỡ và nhiều trang sức, vấn khăn củ ấu hoặc khăn
xếp. Các giá cơ thì ăn mặc trẻ trung rực rỡ hơn. Giá Cậu thì ăn mặc theo lối thanh
niên trẻ, có khăn quấn.



Múa Lễ:
+ Sau khi Quần áo đã mặc chỉnh tề, vị thánh bắt đầu đứng dậy làm lễ. Đầu tiên là
vị ấy phải cầm hương qua một lớp bọc vải đỏ để dâng lên bàn thờ Thánh Mẫu,
quỳ làm lễ. Sau đó quay ra cử tọa, vị ấy sẽ làm các nghi thức khác, chủ yếu là
múa các điệu múa của giá mình.
+ Các điệu múa của các hàng là:
Hàng Quan: Múa Cờ, múa kiếm, long đao, khai quang...
Hàng Chầu: Múa mồi, múa cờ, múa kiếm, múa quạt, tay khơng,..
Hàng Hồng: Múa Hèo, múa cờ, múa kiếm,
Hàng Cơ: Múa chèo đị. múa đi chợ, múa dệt gấm thêu hoa... và các điệu như của
giá Chầu
Hàng Cậu: Múa kiếm, múa Lân
+ Các điệu múa này nhằm ra oai, hay thể hiện sự vui vẻ làm việc thánh và cũng là
cùng vui với cử tọa. Có thể nói Hầu đồng là một bảo tàng sống bảo tồn các loại
múa cổ truyền của người Việt, trong thực tế rằng múa cổ truyền của Việt Nam
không thực sự phát triển. Mỗi loại múa lại thể hiện một loại hoạt động của người
Việt, như theo PGS Phan Ngọc, các điệu múa chèo đò, tung hoa, múa kiếm đã thể
hiện rất rõ tính cách người phụ nữ Việt.
+ Trong lúc Thanh Đồng đang hố thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới
cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát. Những
nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung
quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy,
cất giữ để lấy may.



Phán truyền và thăng:
+ Sau giai đoạn "thăng hoa" đó rồi, vị thánh trong xác ông bà đồng ngồi xuống,
nghe hát văn, kính và uống rượu, trong khi các phụ đồng phải lấy quạt che xung

quanh mặt lúc vị ấy uống rượu, như một sự cách ngăn giữa trần tục và thánh thần.


Rồi trong lúc nghe văn, vị thánh làm các thủ tục còn lại như khai quang, phán
bảo, thưởng tiền và lộc cho cung văn hát hay cũng như cử tọa xung quanh. Sau
đó, vị ấy ra dấu, khăn đỏ lại phủ lên và là lúc Thánh "thăng". Một giá kết thúc


Âm nhạc:
+ Nhạc hát thơng thường là chầu văn có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần
thánh và vẻ đẹp tiên giới.
+ Hát văn, còn gọi là chầu văn, hát hầu đồng, hát bóng, là một loại hình nghệ
thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi
thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh
Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm
trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có
xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và hát cung đình ở Huế.
+ Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Vào thời
gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954,
hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu
những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là
Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ
thuật chầu văn đang được quan tâm bảo tồn và đã được UNESCO cơng nhận là di
sản văn hóa phi vật thể. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Nam Định và cả
Việt nam đã được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt
1) và được công nhận là Di sản thế giới. Ở Huế cũng có hình thức chầu văn,
nhưng giai điệu rất khác biệt so với các tỉnh Bắc Bộ.
- Hát văn có nhiều hình thức biểu diễn bao gồm là hát thờ, hát thi, hát hầu (hát
phục vụ hầu đồng, lên đồng), và hát văn nơi cửa đền, cửa đình:

+Hát thờ: được hát vào các ngày lễ tiết, những ngày tiệc thánh (ngày thánh đản
sinh, ngày thánh hóa...) và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.
+ Hát hầu, trong hát hầu theo tín ngưỡng tứ phủ thì ba giá tam tịa Thánh Mẫu là
bắt buộc và hầu tráng bóng chứ không tung khăn. Các giá tung khăn bắt đầu từ
hàng Quan Lớn trở xuống. Trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, người ta có thể
kết hợp hầu tứ phủ hoặc hầu riêng, nếu hầu kết hợp với tứ phủ thì thường thỉnh
tam tịa Thánh Mẫu đầu tiên, cịn nếu hầu riêng thì mới thỉnh đức Thánh Vương


Trần Triều đầu tiên. Một số bài hát văn hầu phổ biến như “Cô Đôi Thượng Ngàn”,
“Văn khấn Thiên Y A Na”,...
“Ngọc điện chốn kim môn
Cô ra vào ngọc điện chốn kim mơn
Danh thơm ngồi cõi íi
Tiếng đồn trong íi trong cung.
Xinh thay một thú cô đôi ngàn,
Bầu trời cảnh phật í i i ì i í
Phong quan bốn mùa trên bát ngát
Trăm hoa đua nở dưới cảnh bầy cầm thú đua chơi
Í i ì í a ới a a à ới a à.
Chim bay phấp phới mọi nơi
Cá theo ngược nước í i i ì i í
Lượn bơi vẫy vùng trên ngàn trùng gió rung
Xao xác đỉnh sườn non đá vách cheo leo
Kìa dịng sơng thương nước chảy trong veo
Í i ì í a ới a a à ới a à.
Sông thương nước chảy trong veo
Thuyền xuôi người ngược í i i ì i í
Có tiếng hị reo vang lừng
Nhìn đá núi mây tầng cao thấp

Kìa ngàn cỏ hoa tăm tắp màu xanh
I í i ì í a ới a a à ới a à.
Cơ chơi bốn mùa gió mát trăng thanh I
Hoa thơm cỏ lạ í i i ì í i
Mây màu ấm êm nhìn cảnh vật rừng sim
Ao cá chứ đọt măng giang măng nứa măng tre
Các bạn tiên đủng đỉnh ra về i i ì ì i.
Bài sai đố triệu lục cung,
Nàng ân nàng ái vốn dịng sơn trang
Tính cơ hay măng trúc măng giang á a a á à à a
Thiều quan sáng tỏ lưng trời
Một màu son sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn xanh lắm quả nhiều hoa á a a á à à a.
Đêm đêm đêm đêm ánh đuốc lập loè
Tai nghe tiếng hú thú rừng gọi nhau
Đuốc ai sáng tỏ đêm thâu một màu son sắc tốt tươi rườm rà
Trên ngàn xanh lắm quả nhiều hoa á a a á à à a.
Ngàn xanh lắm quả nhiều
Hoa cơ đơi dạo gót vào ra sớm chiều
Chiếc gùi mây nặng trĩu lưng đeo
Áaaáààaáaaáààaáaaáààa
Xa loan thánh giá hồi cung.””
+Hát văn nơi cửa đền, đình: thường gặp tại các đền phủ trong những ngày đầu
xuân, ngày lễ hội. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ.
Thường thì cung văn sẽ hát văn về vị thánh thờ tại đền, đình và hát theo yêu cầu


của khách hành hương. Nhiều khi lời ca tiếng hát được coi như một bài văn khấn
nguyện cầu các mong ước của khách hành hương. Một đoạn văn thường hát thí dụ
như: “Con đi cầu lộc cầu tài. Cầu con cầu của gái trai đẹp lòng. Gia trung nước

thuận một dịng. Thuyền xi một bến vợ chồng ấm êm. Độ cho cầu được ước
nên. Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà. Lộc gần cho chí lộc xa. Lộc tài lộc thọ lộc đà
yên vui.”
+ Hát chầu văn cửa đình được xem là thịnh hành nhất nơi xứ Huế, các cung văn
hát những bài thơ ca ngợi thành hoàng làng và cầu phúc cho dân chúng. Nhạc
Cung đình, nhạc Nghi lễ áp dụng trong nghi thức hầu đồng hình thành một thể
loại mới gọi là nhạc Chầu văn, gắn liền với tính ngưỡng thờ Mẫu mà dường như
tách khỏi âm nhạc xứ Huế



III.6. Ý nghĩ của thực hành tín ngưỡng thờ mẫu :
Thực hành và tham dự vào nghi lễ lên đồng và các hoạt động lễ hội để cầu
sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, thể hiện khát vọng trong cuộc sống thường ngày,
hướng con người đến lòng từ bi bác ái như là nền tảng của những nguyên tắc ứng
xử giữa con người với con người. Thờ cúng Thánh Mẫu, biểu tượng người mẹ tối
linh góp phần đề cao giá trị, vai trò của người phụ nữ trong đời sống gia đình và
xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, thực hành lễ hội, lên đồng, hát văn với những yếu
tố văn hóa dân gian như trang phục, âm nhạc, múa… được thể hiện một cách
nghệ thuật gắn với Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ, đó cũng là một phương thức
nhằm lưu giữ lịch sử, di sản và bản sắc văn hóa của người Việt.



Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt thể hiện truyền
thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn. Điều này được biểu hiện cụ thể qua hệ
thống các vị thần trong điện thần Tam phủ (khoảng 70 vị thần), trong đó có nhiều
vị vốn là những nhân vật lịch sử, được thần linh hóa như Trần Hưng Đạo, Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Xí…). Khi sống họ là những người có tài, có đức, góp phần
vào sự nghiệp dựng nước, bảo vệ người dân, khi mất hiển linh, là chỗ dựa tinh

thần, thể hiện ý thức về cội nguồn dân tộc, giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần yêu
nước.



Với những nghi lễ, diễn xướng dân gian, xếp chữ, lễ rước thỉnh kinh. Thông
qua các yếu tố văn hóa dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn


xướng dân gian trong lên đồng và lễ hội, người Việt thể hiện quan niệm của mình
về lịch sử, di sản văn hóa, vai trị của giới và bản sắc tộc người. Sức mạnh và ý
nghĩa của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ chính là đáp ứng nhu cầu và khát vọng
của đời sống thường nhật của con người như cầu sức khỏe, cầu bình an, cầu làm
ăn phát đạt…


Đạo Mẫu ẩn chứa những giá trị văn hoá nghệ thuật rất phong phú. Đó là kho
tàng truyền thuyết, thần tích, huyền thoại về các thần linh nó cịn có các hình thức
diễn xướng với âm nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí, kiến trúc…
Nhiều người đã nói tới diễn xướng Đạo Mẫu như là một hình thức sân khấu tâm
linh hay một văn hố. Ở hình thức diễn xướng này chúng ta có thể thấy được lối
nghĩ, nếp sống, các quan niệm nhân sinh, thấy được nếp ăn, cách mặc hay nghi lễ
của cha ông xưa được chiêm ngưỡng. Có thể thấy sự hiện thân của các thần linh
đã được lịch sử hóa với cơng trạng, tính cách, điệu bộ rất sinh động. Quả thực đó
là một bộ sưu tập lịch sử và văn hóa vơ cùng phong phú và sinh động. Chỉ riêng
nghi lễ Hầu bóng – Lên đồng của Đạo Mẫu đã sản sinh ra loại hình âm nhạc hát
Văn mà theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu đó là một trong những loại hình
dân ca tiêu biểu nhất của người Việt đóng góp vào kho tàng âm nhạc thế giới.

IV. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT

Đất nước ta là một quốc gia trải dài, có rất nhiều vùng miền, vốn đặc điểm khác nhau
về lịch sử, địa lý. Tình hình kinh tế- xã hội – văn hóa – tư tưởng, lối sống của con
người cũng khác nhau nên cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến lối sống, tình hình tín
ngưỡng cũng mang sắc thái khơng giống nhau.
Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ, vốn xuất phát từ hiện tượng
thờ nữ thần có nguồn gốc từ rất lâu đời của người Việt. Tuy nhiên, không phải tất cả
nữ thần đều là Mẫu.
IV.1. Đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ
- Đặc điểm thứ nhất: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ mang tính tiểu
nơng, dân dã và quần chúng.
Bắt nguồn từ cư dân trồng lúa nước vùng nhiệt đới gió mùa nên từ quan niệm
cho tới lối nghĩ, nếp sông của người Việt về cơ bản thể hiện những nét đặc
trưng của người nông dân. Cụ thể là trong tiềm thức của người ta quan niệm
việc tôn thờ thần Đất, thần Lúa,… đều đồng nhất với Âm và nhân hóa thành nữ
tính – Mẹ
Có thể nói rằng tín ngưỡng Tứ phủ: “Là tín ngưỡng dân dã của người Việt, lọc
bỏ những dòng chảy bên lề làm méo mó ý nghĩa khởi ngun, thì đạo Mẫu biểu
hiện một phần tư duy nông dân được kết tụ lại qua quá trình lịch sử.”


-

-

-

Tín ngưỡng thờ Mẫu có chứa đựng yếu tố “ma thuật” thu hút mọi người bằng
nhiều hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa, bài trí điện thờ rực rỡ không
theo một quy định nào. Nhiều người đi lễ và đến những nơi thờ Mẫu mà khơng
hiểu nơi đó thờ ai và có những quyền phép gì nhưng vẫn tới để cầu xin làm ăn

bn bán cho có lời có lãi, cầu cho con cháu của họ được bình an, tai qua nạn
khỏi, có sức khỏe dồi dào,… Họ cho rằng Mẫu có thể cứu hộ độ trì cho muôn
vàn chúng sinh, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,.. với nhiều mong muốn
và nỗi niềm khác nhau. Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nơng nghiệp ở
trình độ thấp.
Ngồi ra, nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu có thể rất khiêm tốn, có thể chỉ là
một gian thờ bên cạnh ngôi đền hay ngôi chùa nhỏ nào đó, thậm chí chỉ là một
bàn thờ khiêm tốn tại một góc chùa theo kiểu “Tiền Phật, hậu Thánh”
Tuy nhiên, sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt Văn hóa
mang đậm tính dân dã, bình dân. Một tác giả đã viết ràng “Tín ngưỡng thờ Mẫu
có thể phản ánh đậm nét tâm hồn người Việt, nó có một sức sống mãnh liệt,
uyển chuyển, tự điều chỉnh để phù hợp với mọi hoàn cảnh lịch sử
Tính dan dã, quần chúng của tón ngưỡng thờ Mẫu cịn biểu hiện ở chỗ, khơng
phải học thuộc những điều răn, cầm kỵ, không lễ nghi cầu kỳ, phức tạp, khơng
có những giáo lý… nên nó có thể đi vào quần chúng nhân dân một cách dễ
dàng và dễ được chấp nhận.
Đặc điểm thứ 2: Nơi thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ có tính hỗn dung với các
tín ngưỡng, tơn giáo khác.
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ là tín ngưỡng thờ đa thần. Hầu hết
các làng, xã ở đồng bằng Bắc bộ đều có đền miếu, đình, chùa….. giữa tam
giáo(phật, nho,lão) và tín ngưỡng dân gian trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu có
mối quan hệ chặt chẽ. Chúng đan xen, thâm nhập vào nhau, cùng tồn tại trong
quá khứ và duy trì tới heiejn tại.
Trong các nơi thờ cúng như đền, phủ, miếu, điện thờ các mẫu cịn có cả một hệ
thống thần linh vốn xuất thân từ những tơn giáo, tín ngưỡng khác như Đạo
giáo, Phật giáo, Nho giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên…. Trong đó các Thánh
Mẫu ln được khẳng định ở một vị trí trang trọng nhất.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng khơng đóng khung trong một khn
hình mà “Bung ra nhiều cung cách dáng vẻ, nhiều khi còn mở toang cửa cho
các thần thánh của tơn giáo, tín ngưỡng khác ùa vào như một liên kết vui vẻ”

Đặc điểm thứ 3: Tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là loại hình tín ngưỡng dân gian. Vì vậy mà nó có một vị
trí, vai trị quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong đời sống thường nhật của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước ta,
từ Bắc vào Nam, từ miền xi lên miền núi, có cả ở đô thị lẫn nông thôn và ở
nhiều tộc người.
Hiện nay, các Mẫu được thờ dưới nhiều hình thức tơn giáo, tín ngưỡng khác
nhau đó là: Mẫu được thờ ở trong chùa, phủ, đền, điện, miếu
Đặc điểm thứ 4: Niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa tức nó
được gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái phi lý
và đây cũng là đặc điểm của văn hóa dân gian VN. Vì thế vật được tin cũng


-

chấp nhận yếu tố Phi lý và chuyển hóa thành nhân vật được thờ. Lúc này xuất
hiện quá trình Thiêng hóa. Q trình này được thể hiện
+ Thứ nhất, huyền thoại hóa các Mẫu, là q trình gán hay biến các
nhân vật “Mẫu” một hoặc nhiều huyền thoại
Ví dụ: Mẫu Thoải có truyền thuyết cho rằng bà là con gái của Động
Đình Quân tên là Thần Long là vợ của Vua Kinh Dương Vương sau đó
sinh ra Sùng Lãm. Sùng LÃm tự xưng là Lạc Long Quân
Truyền thuyết khác lại cho rằng Mẫu Thoải là vợ của hoàng tử Kinh
Xuyên, là con gái của Long Vương ở Động Đình Hồ (TQ). Bà rất yêu
chồng nhưng bị vợ lẽ của chồng là Thảo Mai ghen ghét và vu cáo nên bị
chồng nhốt vào rừng sâu, thú dữ không làm hại bà mà cịn ni bà sống.
Bà đã gặp và nhờ một nho sĩ chuyển thư tới cho cha mình, nhờ thế mà
bà được cứu thốt. Người đời tơn bà là Mẫu Thoải, lập đền thờ ở Tuyên
Quang.
+ Thứ hai, lịch sử hóa các Mẫu, là biến các Mẫu và các thần linh

của tín ngưỡng thờ Mẫu thành các nhân vật lịch sử gắn với quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Chẳng hạn như thời Hùng Vương khơng có vua(một số nhà khoa học lại
cho rằng đó là thời kỳ cơng xã ngun thủy nên khơng thể có vua, Vua
là từ mượn của thười Phong kiến), nhưng do ý thức về lịch sử nên đã xât
dựng nên những huyền thoại có vua Hùng. Từ “Hùng” xuất phát từ Hán
chỉ những người đứng đầu, thủ lĩnh bộ lạc và bắt đầu là chữ “Khun” hay
“Cun” của người Việt Mường
+ Thứ ba, địa phương hóa là biến các nhân vật “Mẫu” được thờ là
người địa phương.
Ví dụ ở Thuận Thành Bắc Ninh có truyền thuyết Mẫu Âu Cơ sinh ra 100
quả trứng và nở thành 100 con và đã lập đền thờ bà ở ngay đó. Hay ở Từ
Sơn có truyền thuyết và đền thờ Thánh Mẫu Phạm Thị - là mẹ của vị
vua khởi nghiệp triều Lý là Lý Công Uẩn, bà vợ ba Đề Thám (n Thế),
Cơ Chín Đồng Mỏ (Lạng Sơn) đều được nhân dân lập đền thờ và gọi đó
là nơi thờ Mẫu.
+ Thứ tư, trần gian hóa.
Các nhân vật Mẫu được thờ không chỉ được xây dựng với những truyền
thuyết, huyền thoại mà cịn có cả ý lịch, nguồn gốc là nhân vật có trong
dân gian, có công trạng cụ thể, và được Nhà nước phong kiến phong sắc,
biên soạn thần tích…..Chẳng hạn Mẫu Liễu Hạnh là con gái của vợ
chồng Lê Thái Công ở xã Vân Cát huyện Thiên Bản thuộc trấn Sơn
Nam…Mẫu Thượng Ngàn là con cháu Vua Hùng…
Các “Mẫu” này đã có nguồn gốc xuất thân, với những kỳ tích, cơng lao
gắn với lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta.
Đặc điểm thứ năm: Tín ngưỡng thờ Mẫu đan xen giữa nhiều tư duy
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu (nhất là thờ Tam phủ - tứ phủ), các Mẫu ln có sự
kết hợp đan xen giữa tư duy mang tính vũ trụ luận(Trời, đất, nước), tư duy
huyền thoại (thiên thần, sơn thần, thủy thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân,
Âu Cơ, Hùng Vương).



-

Ngồi ra, các “Mẫu” cịn được nhân dân tạo cho một lý lịch, một quyền năng
đối với con người. Thông thường các “Mẫu” được người dân gắn cho những
đặc tính siêu nhiên, huyền bí. Ví dụ như Bà Chúa Thượng Ngàn với tư cách là
Đức Thánh Mẫu trong hệ thống Thánh Mẫu, là cốt lõi tinh hoa, là cơ sở triết lý
của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Mẫu Liễu Hạnh, bà có thể che chở, giúp
đỡ, trừng phạt… đối với người khi tin và đi theo tín ngưỡng Mẫu này.
Đặc điểm thứ 6: Tín ngưỡng thờ Mẫu mang bản chất thuần Việt
Dù văn hóa Việt Nam ảnh hưởng nhiều bởi nền văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ
nhưng tín ngưỡng thờ Mẫu lại là một loại hình mang bản chất thuần Việt mà
văn hóa Hán (TQ) và văn hóa Ấn Độ rát mờ nhạt. Tín ngưỡng thờ Mẫu tam
phủ - Tứ phủ là hình thức điển hình nhất. Có thể nói, khơng ở đâu lại có thể thờ
Mẫu 4 miền như thờ Mẫu của người Việt, trong đó Mẫu Liễu Hạnh lại là một
nữ thần nhưng lại được xếp teong tứ bất tử của dân gian và nhờ có sự xuất hiện
của Mẫu Liễu Hạnh thì tín ngưỡng thờ Mẫu mới đạt đến trình độ hồn chỉnh về
triết lý tơn thờ Mẫu

IV.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung Bộ
Đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung bộ là khơng có sự hiện diện của
Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ mà chỉ có hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ
Nữ thần như Tứ vị Thánh Nương, Bà ngũ Hành và hình thức thờ Mẫu thần như thờ
Thiên Y A Na ( bà Chúa ngọc – Po Ino Nugar)
Từ khu vực Huế trở vào ( KHánh Hịa, Bình Thuận, Ninh Thuận, Phú n..) tiếp
nhận văn hóa của người Chăm thì tín ngưỡng đã thích nghi, hịa nhập và một phần
Việt hóa văn hóa Chăm để cùng nhau phát triển, chính vì thể mà tại khu vực này thì
tín ngưỡng thờ Mẫu mang một đăng trưng riêng của người Chăm thờ Bà Ponagar và
tôn nữ thần Thiên Y Na Ga thành thượng đẳng thần. Sự giao lưu này làm đổi mới một

phần tín ngưỡng phổ thơng, tạo ra sự đa dang về văn hóa vùng miền. Và tín ngưỡng
thờ Mẫu mang tính bản địa cao vì vậy mà đến đâu thì nó sẽ thay đổi và trở thành văn
hóa bản địa của khu vực đó
Ở đây thì chúng ta sẽ khơng quy định cái nào là chuẩn là đúng mà sẽ tạm thời lấy tín
ngưỡng thờ Mẫu ở miền bắc làm hình tượng để so sánh . So với miền Bắc thì ở miền
Trung đã có sự giản lược hơn về phân cấp thần, họ thờ chung
Nghệ An: Đền Hoàng Mười, đền Hồng Sơn, đền Cửa, đền Ngọc Điền, đền Pu Nhạ
Thầu.
Hà Tĩnh: Đền Hoàng Mười, đền Nước Lạt, Miếu Chai (Thạch Đài), đền Văn Sơn
(Thạch Đỉnh).
Thừa Thiên Huế: Điện Hịn Chén.
Ninh Thuận – Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên: Đền thờ và tháp Ponagar, Tháp Po
sa inu…
IV.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ
- Thứ nhất, Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện tính nhân văn của con người vùng
Nam Bộ. đây là một đặc tính chung của văn hóa Việt Nam chứ khơng riêng gì


-

-

của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ. Xét trong phạm vi tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Nam Bộ, điều này còn thể hiện rõ nét hơn. Ai trong chúng ta cũng đều biết, con
người ta tìm đến tơn giáo tín ngưỡng như tìm kiếm sự chở che khi chúng ta
đang bất lực trước những hiện tượng của tự nhiên. Marx đã từng nói: “Tơn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có
trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự khơng có tinh thần.
Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Nếu đem định nghĩa của Marx gắn vào
tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, ta thấy vơ cùng chính xác. Buổi đầu khai

hoang ở vùng đất mới, đầy rẫy những hiểm họa, thiên tai không lường trước
được, con người ở vùng đất mới này đã tìm đến những giá trị tinh thần đủ
mạnh để giúp họ có thêm niềm tin, sức mạnh, che chắn cho họ để họ có thể
vượt qua những khó khăn, hiểm trở khi khai hoang vùng đất mới. Nhiều hình
thức tín ngưỡng đã đồng thời được những lưu dân Việt đem theo từ vùng ngồi
vào bên cạnh tín ngưỡng thờ Mẫu. Hình ảnh, vai trị và giá trị của người phụ nữ
truyền thống trong văn hóa Việt đã được những lưu dân tiếp thu và củng cố khi
đến vùng đất mới. Những vị Linh Sơn Thánh Mẫu, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Thiên
Hậu Thánh Mẫu đều thể hiện những khát khao sống hòa hợp với thiên nhiên,
đề cao những giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Việt
Nam trong lịch sử dân tộc, … Ngồi ra, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ đều
hướng con người đến những giá trị mang tính hướng thiện: Trong cuộc sống
phải biết ăn ở, biết đối nhân xử thế, thành tâm thờ phụng ơng bà tổ tiên…
Những giá trị đầy tính nhân văn đó đã được lưu truyền lại thơng qua những
truyền thuyết về nguồn gốc xuất xứ của các Mẫu[2]. Để rồi ngày nay, khi mà
cuộc sống con người đã ấm no, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ vẫn cịn là một
nét văn hóa rất Nam Bộ, trở thành một phần trong văn hóa Nam Bộ nói chung.
Hằng năm, những lễ hội vía các Bà đều được tổ chưc trọng thể, thu hút được
nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, qua đó thể hiện thêm một truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam – truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Thứ hai, tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện tính dung hợp. Trong điều kiện đấu
tranh chống lại điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ở vùng đất mới, tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Nam Bộ nói riêng đã tích hợp và dung hợp rất nhiều tơn giáo, tín
ngưỡng khác nhau, thu hút đông đảo công chúng tham gia, không phân biệt lứa
tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Điều này được thể hiện thơng qua qui mô của các
lễ hội các Mẫu đã thu hút rất nhiều người tham gia hằng năm. Những lễ hội này
thực sự đã vượt qua phạm vi không gian của một tỉnh thành và đã trở thành một
phần của văn hóa vùng Nam Bộ. Trong những lễ hội cổ truyền chính trong năm
của người Việt ở Nam Bộ, lễ hội của Bà Chúa Xứ và Bà Đen là hai trong số
những lễ hội đó, có quy mơ rất lớn.

Thứ ba, tính đa nguyên trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ. Đây có thể
được xem là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Nam Bộ. Nguyễn Thừa Hỷ đã xem cộng đồng văn hóa Việt Nam như
một “phức thể văn hóa đa nguyên” vì lý do: Cộng đồng văn hóa Việt Nam là
một cấu trúc văn hóa đa tầng, văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa bao gồm
nhiều các văn hóa sắc tộc và các vùng văn hóa địa phương, xét về mặt giai tầng
xã hội thì văn hóa Việt Nam truyền thống là một nền văn hóa “lưỡng nguyên
đối trọng” . Quay trở lại với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, đây là một phần
của văn hóa Việt Nam nói chung, và văn hóa Nam Bộ nói riêng, do vậy mà tính
lưỡng nguyên cũng được thể hiện rõ nét trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Yếu tố lịch


×