TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP
BÀI THU HOẠCH
THI, KIỂM TRA HẾT PHẦN HỌC
Tên phần học: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Nội dung: Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam
Họ và tên học viên:
Ngày sinh:
Cơ quan công tác:
Số báo danh: 45
Số phách: (Học viên không ghi phần này)
1
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2021
SỐ PHÁCH: (Học viên không ghi phần này)
Tên phần học: : Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Nội dung: Đảng Cộng sản Việt Nam - Nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Tổng số tờ:
Câu hỏi : Với cương vị (vị trí) cơng tác hiện nay của đồng chí, sau khi học
xong phần học, đồng chí thấy bài học nào tâm đắc nhất ? Vì sao? Liên hệ với
cơng việc của đồng chí và địa phương (cơ quan, đơn vị) hiện nay?
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt
được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan
điểm sai trái, thù địch cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trị lịch
sử, khơng cịn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”.
Chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên
suốt của các thế lực thù địch. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác
động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm
phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật
hiển nhiên về niềm tin của toàn dân ta đối với Đảng trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa
nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.
Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập và lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, xuất phát từ tinh thần yêu nước, căm thù ách áp bức, thống trị
của thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện với mục tiêu chung
là bảo vệ, khơi phục nền độc lập dân tộc, tồn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc
gia, chấn hưng đất nước. Các phong trào đấu tranh hoặc theo ý thức hệ phong
kiến diễn ra khắp từ Bắc chí Nam; hoặc theo đường lối cải cách, canh tân đưa
đất nước phát triển thành một quốc gia phú cường hay theo ý thức hệ dân chủ
2
tư sản của các sĩ phu yêu nước đều lần lượt bị đàn áp, khơng đạt được mục
đích. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước,
trong đó, có nguyên nhân là thiếu lý luận cách mạng –khoa học dẫn đường, có
thể giải quyết được những vấn đề cơ bản, cấp bách của cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam vừa là kết quả của sự phát triển
lý luận, vừa đưa lại những thành tựu lý luận về con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam. Những thành tựu lý luận đó chứa đựng trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua, thể hiện tập trung nhất trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng.
Cương lĩnh thể hiện súc tích những vấn đề cơ bản, mang tính quy luật
của cách mạng Việt Nam.
Xác định đường hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam; Xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp
bách của cách mạng Việt Nam; Xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn
bộ những người Việt Nam yêu nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đó là cơng
nhân, nơng dân, tiểu tư sản, trí thức, trung nơng….Xác định cách mạng Việt
Nam là bộ phận cách mạng thế giới; phương pháp thực hiện độc lập dân tộc,
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành bằng con đường cách mạng,
sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực, không đi vào con đường cải lương,
thỏa hiệp; Xác định lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản
Việt Nam “ đội tiên phong của vô sản giai cấp” – Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê
nin làm nền tảng tư tưởng.
Cương lĩnh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi
trong cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; giữa
phản đế và phản phong, kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng
3
nhân dân với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp mục tiêu trước mắt với định hướng lâu
dài.
Những sáng tạo lý luận của Đảng thể hiện trong cương lĩnh chính trị
đầu tiên là cơ sở để xác lập đường lối cách mạng qua các giai đoạn lịch sử.
Trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, trước sự khủng
hoảng trầm trọng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng cộng sản Việt Nam
vẫn kiên định con đường cách mạng đã được xác lập “ đối với nước ta, khơng
cịn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do hạnh phúc cho
nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã
dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng.”
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều bước ngoặt trong sự phát
triển, những bước ngoặt này là đặc biệt nhất, chấm dứt khủng hoảng đường lối
cứu nước, chấm dứt khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình phát triển của cách mạng – độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là nhân tố quyết định trực tiếp đến sự
phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng trên các chặng đường lịch sử.
Đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng Đảng, củng cố truyền thống đồn
kết, trí tuệ, kỷ cương trong quá trình hoạt động về sau của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã
có bước phát triển mới, thể hiện rõ nhất trong phong trào cách mạng 19301931. Từ năm 1931, đế quốc Pháp tiến hành chiến dịch khủng bố dữ dội nhằm
đàn áp phong trào cách mạng và do những chính sách đó mà lực lượng cách
mạng bị tổn thất nặng nề. Chỉ trong quý I/1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đều bị bắt và bị cầm tù. Từ tháng 4-1931, Tổng Bí thư Trần Phú bị
bắt; đến tháng 6-1931, nhà cầm quyền Anh bắt giam trái phép Nguyễn Ái
Quốc tại Hồng Kông. Giai đoạn 1930-1931 hơn 15.000 chiến sĩ cách mạng bị
4
tù đày. Trong thời gian 6 tháng cuối năm 1931 và cả năm 1932, trong các nhà
tù ở Đông Dương với khoảng 16.000 tù chính trị. Trong 3 năm 1931-1933, 164
bản án tử hình, trong đó 88 bản án đã được thi hành, những người bị kết án chủ
yếu là các chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Cùng với đó, là các Xứ ủy, Tỉnh ủy
đều bị đế quốc tiến công và tan rã. Tổ chức cơ sở đảng cũng bị tổn thất ở nhiều
nơi. Có thể nói, đây là thời gian đầy khó khăn, nguy hiểm lớn đối với cách
mạng Việt Nam. Tuy nhiên, với chủ nghĩa yêu nước và cách mạng, trong hồn
cảnh hết sức khó khăn do khủng bố tràn lan, các chiến sĩ cách mạng đã len lỏi
hoạt động, gây nhân, bắt mối, chắp nối lại cơ sở quần chúng và cơ sở của
Đảng. Đến tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng được triệu tập
tại Ma Cao, đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào
cách mạng Việt Nam sau một thời gian dài phải đấu tranh chống khủng bố
trắng để khôi phục lực lượng và hệ thống tổ chức cách mạng. Đó chính là điều
kiện đưa cách mạng tiến lên.
Sau khi khôi phục lực lượng, Đảng từng bước khắc phục hạn chế trong
đường lối cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1931-1935, tăng cường lực
lượng cách mạng và mở rộng trận địa cách mạng. Trong phong trào dân chủ
1936-1939, Đảng lãnh đạo quần chúng và các đoàn thể vào những tổ chức
khác nhau với nhiều hoạt động đa dạng, xây dựng một đội quân chính trị hùng
hậu. Đội ngũ cán bộ, Đảng viên có sự phát triển nhanh chóng về số lượng,
được rèn luyện và trưởng thành. Trong giai đoạn 1939-1945, Đảng lãnh đạo
nhân dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa, đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, lật đổ ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Với thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt
Nam bước từ địa vị nô lệ lên vị thế làm chủ đất nước, có quyền quyết định vận
mệnh của mình; Đảng Cộng sản Đơng Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật,
5
bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền và ra hoạt động công khai. Việt Nam
từ một nước thuộc địa mất độc lập tự do trở thành một quốc gia độc lập có chủ
quyền. Cách mạng tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự do hướng tới chủ nghĩa xã hội, kỷ nguyên
nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất nước.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, Đảng lãnh đạo nhân dân đương đầu
với cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp. Trong những năm
1945-1946, Đảng sử dụng sách lược “vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo” nhằm cứu
vãn một nền hịa bình mong manh, vừa tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
có thể xảy ra. Trong những năm 1946-1954, với đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, Đảng đã lãnh đạo và đưa cuộc
kháng chiến dần đi đến thắng lợi: Từ chỗ phòng ngự chiến lược, đã chuyển
sang thế chủ động và liên tiếp giữ vững, mở rộng thế tiến công chiến lược; Từ
chỗ bị cô lập, đã thiết lập quan hệ với quốc tế; Từ chỗ lực lượng quân dân du
kích đã tiến lên xây dựng lực lượng ba thứ quân, kết hợp chiến tranh chính quy
và chiến tranh du kích; Từ chỗ đánh vào nơi địch yếu, nhưng lại có tầm quan
trọng về mặt chiến lược chuyển sang đánh vào nơi địch mạnh nhất, chấp nhận
trận quyết chiến chiến lược, làm nên trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu”, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh ngoại giao giành thắng
lợi. Thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ về Đông
Dương 1954 báo hiệu cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi.
Sau khi Pháp thất bại, đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược miền Nam với âm
mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành một quốc gia độc
lập thân Mỹ. Thời kỳ 1954-1975, Mỹ thực hiện chính sách can thiệp và xâm
lược Việt Nam với 5 đời Tổng thống thông qua các chiến lược chiến tranh khác
nhau. Trong bối cảnh này, Đảng vừa lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, vừa lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân hai miền đã giành được thắng lợi to lớn,
tạo ra nhiều chuyển biến quan trọng: Miền Bắc bước đầu tạo ra cơ sở vật chất
6
– kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trở nên vững mạnh; làm căn cứ địa chung của
cách mạng cả nước; là hậu phương lớn của hậu phương lớn miền Nam; Miền
Nam lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh thực dân kiểu mới của đế
quốc Mỹ; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
và trong cả nước. Nhờ đó, Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền đánh bại sự xâm
lược của đế quốc Mỹ, đưa cả nước tiến lên hịa bình, thống nhất và đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Sau khi hai miền Nam – Bắc thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân thống
nhất đất nước về mặt nhà nước và đề ra chủ trương đối nội và đối ngoại của đất
nước. Về đối nội, do “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,
chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện” của Đảng,
Việt Nam đã “kéo dài ưu điểm” (V.I.Lênin) của “thời chiến”, thực hiện cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp, không tuân theo quy luật khách quan của xã hội…
dẫn đến tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội. Về đối ngoại,
do nặng về tư duy “ý thức hệ” trong quan hệ quốc tế và “không căn cứ vào
thực tế khách quan của tình hình trong nước và thế giới, vào mục tiêu chiến
lược, lợi ích cao nhất của chúng ta sau thắng lợi 1975” và “lấy tình cảm làm
điểm xuất phát chiến lược và sách lược đối ngoại” trước sự chuyển biến phức
tạp của tình hình thế giới đương đại.
Trước những yêu cầu của tình hình thế giới và trong nước, Đại hội VI
của Đảng (12-1986) “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật” về những thành tựu và khuyết điểm, sai lầm trong đường lối cách mạng
và tập trung đổi mới ba vấn đề chính sau: nhận thức về con đường quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội; hai là, chủ trương đổi mới đất nước toàn diện: Từ đổi mới
kinh tế và chính trị (đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị) đến văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh và đối ngoại; Từ đổi
mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn, đổi mới tổ
chức cán bộ và phong cách công tác. Nhận thức về những vấn đề thời đại và
thế giới đương đại. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
7
Đảng từng bước bổ sung, chỉnh sửa đường lối đổi mới đất nước.“Đổi mới
nhưng khổng đổi màu”. Đường lối đổi mới đất nước của Đảng từng bước được
bổ sung, chỉnh sửa và phát triển qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng, đặc biệt thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, được bổ sung, phát triển năm 2011.
Dưới đường lối đúng đắn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa đất nước đạt
được nhiều thắng lợi to lớn. Về đối nội, từ chỗ khủng hoảng đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng (1996), vươn lên nước phát triển khá và tăng trưởng liên tục,
lạm phát, phi mã được đẩy lùi. Từ chỗ thiếu ăn, thiếu mặc, Việt Nam đã tự túc
được lương thực. Từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu lương thực lớn trên thế giới. Từ chỗ có hai thành phần kinh tế,
nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nhiều hình thức kinh
tế mới hình thành và phát triển dần theo hướng bền vững. Trật tự an toàn xã
hội ổn định. Lực lượng an ninh nhân dân triệt phá nhiều tổ chức, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch ở Việt Nam. Đời sống nhân dân được đảm
bảo và ngày càng củng cố. Khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường và phát
huy cao độ. Quốc phòng được bảo vệ vững chắc và chuyển dần tư duy phòng
thủ theo tuyến sang phòng thủ theo khu vực. Về đối ngoại, Việt Nam đã từng
bước tái thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Với phương châm ngoại giao độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế, Đảng đã lãnh đạo đất nước thực hiện hiệu quả ngoại giao
đa phương và ngoại giao song phương, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng
và ngoại giao nhân dân, ngoại giao trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa,… đưa
uy tín Việt Nam tăng cao trên trường quốc tế. Từ chỗ là quốc gia đàm phán hịa
bình, Việt Nam trở thành quốc gia giữ gìn hịa bình và an ninh thế giới. Đặc
biệt trong nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “đất nước tiếp
tục phát triển nhanh và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu
ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; sức
cạnh tranh, tiềm lực và quy mô của nền kinh tế được nâng lên. Công tác xây
8
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm, đạt nhiều
kết quả rõ rệt. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí
chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi
vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Sự thống nhất, phối
hợp đồng bộ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị –
xã hội được tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh khơng
ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao. Đặc biệt, trong năm 2020, đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến Việt
Nam, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế – xã hội và sự phát triển của đất nước.
Do phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự tham gia đồng bộ,
quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự
đồng lòng ủng hộ của nhân dân, chúng ta đã từng bước kiểm sốt thành cơng
đại dịch Covid-19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời sống,
góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã
hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta,
dân tộc ta”. Bên cạnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
(2021) đã đề ra nhiều chủ trương đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và hiệu quả
công cuộc đổi mới đất nước. Nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát là: “Nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng
bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
9
Kế thừa và phát huy những thành tựu to lớn của Đảng cộng sản Việt
Nam, Đảng bộ huyện ĐP đã lãnh đạo, chỉ đạo huyện ĐP thực hiện đồng bộ
nhiệm vụ chính trị trọng tâm đạt kết quả trong điều kiện gặp nhiều khó khăn ,
thách thức, nhất là ảnh hưởng do đại dịch covid-19. Tình hình kinh tế chính trị
của huyện tiếp tục ổn định, và phát triển toàn diện, các chỉ tiêu kinh tế xã hội
cơ bản đều hồn thành và vượt mức, trong đó có nhiều chỉ tiêu đạt kết quả cao.
Kinh tế tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá (10,53%), tổng giá trị sản xuất
ước thực hiện trên 14 tỷ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng tỷ
trọng thương mại dịch vụ, công nghiệp xây dựng; giảm tỷ trọng nông nghiệp,
tăng cường quản lý cụm cơng nghiệp hiện có, mở rộng cụm công nghiệp xã
LH, LT, ĐP, triển khai xây dựng cụm cơng nghiệp mới tại xã SP, HH. Văn hóa,
thể dục thể thao có nhiều tiến bộ, hàng tháng thực hiện cuộc thi “Giữ gìn thơn
tổ dân phố, sáng, xanh, sạch đẹp, an toàn”. Giáo dục, y tế được quan tâm đầu
tư nâng cấp, xây dựng được 3 trường học đạt chuẩn quốc gia, giữ vững 100%
xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế, tiếp tục nâng cao chất lượng trạm y tế
theo nguyên lý y học gia đình. An sinh xã hội được đảm bảo. Các cơng tác về
xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đồn thể được quan tâm.
Ln đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đặc biệt trong cuộc chiến với đại dịch Covid-19, dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng bộ huyện đến nay huyện đã không xuất hiện ca F0 cộng đồng;
tiêm vắc xin bao phủ 97,2% cho toàn bộ người dân từ đủ 18 tuổi đủ điều kiện
tiêm vắc xin phòng Covid-19. Thực hiện nhanh, kịp thời việc chi trả chế độ
cho người bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 theo Nghị quyết 16 của Chính phủ
và Nghị quyết 15 của HĐND thành phố Hà Nội đảm bảo đúng quy định, đối
tượng. MTTQ cùng các tổ chức chính trị – xã hội tích cực hỗ trợ người dân
gặp khó khăn do ảnh hưởng đại dịch Covid-19. Khẩn trương khôi phục và tập
trung thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm khác
của năm 2021.
10
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng, với những định hướng, kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội 5 năm (2021-2025), 10 năm (2021-2030) và tầm nhìn đến năm 2045.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (2021), Việt Nam nói chung, huyện nói riêng sẽ tiếp tục duy trì và nâng
cao vị thế đất nước trong khu vực và trên thế giới.
11