MỤC LỤC
1
2
3
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Việt Nam đất nước của 54 dân tộc anh em đều là con cháu của Lạc Long Quân và Âu
Cơ, đều bước ra từ trăm trứng cùng nhau sống yên vui, hạnh phúc. Dân tộc Việt Nam
ta từ xưa đến nay vốn có một truyền thống văn hoá lâu đời, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mỗi miền quê, mỗi vùng đất đều tự nó mang trong mình dấu ấn văn hố riêng biệt, vừa
có những nét đặc thù, lại vừa thống nhất trong tính chỉnh thể của nền văn hoá dân tộc.
Việt Nam là một trong những vùng đất của quê hương - một không gian văn hoá mang
nhiều nét đặc sắc, tiêu biểu.
Và trong Việt Nam thân yêu của chúng ta có vùng đất chịu bao thương đau mang tên
Việt Bắc. Vùng có địa hình chủ yếu là núi và sơng cịn có cả cao ngun và sơn
ngun, có khí hậu ấm và nói đến Việt Bắc, ta lại liên tưởng đến vùng trung du, rừng
núi trùng điệp trong những năm kháng chiến chống Pháp, với những trận đánh hào
hùng đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam, Việt Bắc cũng là địa danh cùng với con
người tạo ra một bề dày lịch sử đáng kể.
Và bài tiểu luận này chúng em muốn giới thiệu về một trong 54 dân tộc anh em sinh
sống chủ yếu ở vùng Việt Bắc. Vùng Việt Bắc là nơi cư ngụ chính của các dân tộc Tày.
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất
trước Công nguyên. Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể
loại thơ, ca, múa nhạc, múa rối và các điệu hát dân ca.
Để thực hiện đề tài này, tác giả thực hiện các hoạt động và phương pháp nghiên cứu
như: nghiên cứu tổng hợp kiến thức lý thuyết về dân tộc Tày; thu thập dữ liệu qua các
nguồn tài liệu, giáo trình, sách, báo, thơng tin trên internet; phân tích, so sánh.
Đề tài được chia thành 3 chương.
Chương 1: Khái quát.
Chương 2: Những nét cơ bản về giá trị vật chất và tinh thần của người dân tộc
Tày ở Việt Nam.
Chương 3: Đánh giá tiềm năng du lịch.
Tác giả rất mong nhận được ý kiến góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT
1.1. Khái quát về dân tộc và tộc người
Tộc người là một phạm trù lịch sử. Nó là kết quả lâu dài của các quá trình lịch sử, xã
hội và tự nhiên. Khi quá trình hình thành loài người kết thúc và con người bước vào xã
hội loài người, những cộng đồng người sớm nhất là những cộng đồng dân tộc (thị tộc)
xuất hiện vào thời đại cộng sản nguyên thủy cách đây khoảng 4 - 5 năm. Trong q
trình lịch sử lồi người, các quốc gia hình thành và phát triển trên các vùng lãnh thổ
khác nhau ở năm châu lục. Nhưng do một số nguyên nhân tự nhiên và xã hội, nhiều
dân tộc đã bị diệt vong. Dưới các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, sự tác động của
các yếu tố kinh tế - xã hội đã hình thành nên các hình thái cộng đồng dân tộc khác
nhau.[2]
Nói chung, mỗi dân tộc luôn sống trên một khu vực địa lý gọi là lãnh thổ tộc người.
Dân tộc này sử dụng ngôn ngữ riêng, khác với ngôn ngữ của các dân tộc khác. Trong
q trình dân tộc hóa, các thế hệ đã tạo nên một bản sắc văn hóa chung ổn định hình
thành bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, các dân tộc có tính bền vững, thống nhất và
quan hệ chặt chẽ trong nội bộ các dân tộc, có bản sắc riêng khác với các dân tộc khác.
[2]
Các chủng tộc luôn có hai nguồn gốc:
- Sinh học - có cùng huyết thống, tổ tiên và nhân chủng học
- Truyền thống lịch sử - có chung ký ức. Truyền thống lịch sử trải qua trong lĩnh
vực đời sống xã hội được phản ánh trong truyện cổ tích, thần thoại và các tư liệu lịch
sử được biên soạn bằng miệng hoặc bằng văn bản.
Mỗi dân tộc ln ý thức một cách có ý thức về sự thống nhất của dân tộc mình và khác
với các dân tộc khác về khu vực sinh sống, ngơn ngữ, nguồn gốc, đặc điểm văn hóa.[2]
Dân tộc (quốc gia dân tộc; ví dụ: dân tộc Việt Nam) là cộng đồng chính trị - xã hội,
được hình thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí thống nhất
bởi một nhà nước. Kết cấu của cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào
điều kiện lịch sử, hồn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một quốc gia dân
tộc có tộc người đa số và các tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến trình độ dân
tộc, song nhiều tộc người ở trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy, quan hệ
giữa các tộc người rất đa dạng và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách dân
tộc để duy trì sự ổn định và phát triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển của
đất nước. Cũng có trường hợp, một quốc gia chỉ gồm một tộc người.[3]
5
1.2. Khái quát về dân tộc Tày
Tên gọi dân tộc Tày là tên gọi chung và phổ biến nhất. Người Tày có tiếng nói riêng
thuộc nhóm ngơn ngữ Tày - Thái (dịng ngơn ngữ Nam Á). Theo nhiều nhà nghiên
cứu, người Tày là dân cư bản địa ở Việt Nam, cư trú trên địa bàn rất rộng và chiếm dân
số đông tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang...[1]
Người Tày sinh sống ở Yên Bái đã từ lâu đời. Một số người Tày ở huyện Văn Yên di
cư từ Lạng Sơn sang Yên Bái từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Một số người
Tày ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên có gốc người Việt di cư từ các tỉnh Nam Định,
Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dần
dần đã Tày hóa. Bộ phận người Tày ở vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hóa độc
đáo riêng biệt so với người Tày ở vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người
Tày ở vùng Đơng Bắc Việt Nam.[1]
Kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, đồng bào làm
ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần
cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông
nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa,
đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển mạnh chăn
ni gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công
nghiệp như: chè, quế, sắn.[1]
Về ngôn ngữ
Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí quan trọng và được sử
dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ. Song để biểu thị các khái
niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học…thì tiếng Tày phải vay mượn từ tiếng Hán
và đặc biệt từ tiếng phổ thơng là tiếng Việt.[16]
Sự vay mượn được hình thành trong thực tiễn đời sống nên phù hợp với quy luật, điều
đó đã làm cho tiếng Tày trở nên phong phú, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ trở thành
cơng cụ giao tiếp trong cộng đồng cư dân người Tày xưa và nay.
Ngôn ngữ của người Tày rất giàu và đẹp, điều đó đã khiến cho lời ăn tiếng nói của
người Tày trở nên hết sức phong phú, uyển chuyển, tinh tế và khái quát. Với số đơn vị
ngữ âm phong phú đã tạo ra các từ ngữ diễn đạt mọi khía cạnh của đời sống vật chất
và tinh thần bên cạnh vốn từ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Việt. Bởi thế, tiếng Tày
đã trở thành phương tiện lưu truyền một kho tàng văn học dân gian phong phú bao
gồm: truyện cổ tích, thần thoại và vốn thi ca cổ truyền gồm: dân ca trữ tình, thơ ca
đám cưới, hát ru, văn cúng bái, văn than... [16]
6
Tóm tắt chương 1
Mỗi dân tộc ln có bản sắc văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập qn khác nhau. Mỗi
dân tộc sẽ có các tộc người khác nhau từ đa số đến thiểu số. Mỗi tộc người sẽ là một
dịng sức mạnh góp phần cho một dân tộc hùng mạnh.
Ở Việt Nam chúng ta có 54 dân tộc, nhưng thực nói đúng là “dân tộc Việt Nam” có 54
tộc người. Bởi vì dân tộc là được Liên hợp Quốc cơng nhận, có thời gian hình thành
dài trong lịch sử, cịn tộc người sẽ có văn hóa, ngơn ngữ, bản sắc riêng, và đặc biệt tất
cả sẽ chỉ có một đặc trưng văn hóa chung, một ngơn ngữ thống nhất chung, một nhà
nước quản lí chung.
Và Tày là một dân tộc ở Việt Nam, có tiếng nói riêng, sống chủ yếu ở Cao Bằng, Lạng
Sơn,…Đặc biệt ở Yên Bái - Việt Bắc người Tày đã sinh sống từ lâu đời. Đồng bào Tày
tiếp thu kiến thức kỹ thuật mới rất nhanh nên nông nghiệp của họ rất phát triển, song
song với văn hóa phát triển họ vẫn bảo lưu được nét đẹp tình thân trong gia đình khi
mỗi gia đình đều sẽ có bếp lửa giữa gian nhà, đây là nơi họ sẽ tập chung sưởi ấm cho
nhau, kể nhau nghe những câu chuyện hàng ngày, ông bà sẽ kể cháu nghe các câu
chuyện từ xa xưa, do sự phát triển của công nghệ điện tử mà đa phần con người sẽ mất
đi nét đẹp san sẻ, nhưng Tày là dân tộc vẫn giữ được nét đẹp này. Đây là điều đáng
học hỏi cho các dân tộc - tộc người khác ở Việt Nam.
7
CHƯƠNG 2: NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ GIÁ TRỊ VẬT CHẤT VÀ TINH
THẦN CỦA NGƯỜI DÂN TỘC TÀY Ở VIỆT NAM
2.1. Văn hóa vật chất
2.1.1. Nhà ở
Nhà ở của người Tày chủ yếu là nhà sàn, dùng vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương,
lợp bằng lá cọ hoặc cỏ giang. Sàn được dát mai, diễn hoặc ván, cửa làm bằng phên nứa
hoặc lịa bằng gỗ. Mỗi ngôi nhà có từ ba đến năm gian, hai trái, có những vùng đời
sống nhân dân khá giả còn làm thêm cả nhà bếp Slườn giảo gồm 2 gian nổi vng góc
với gian trong (gian để phụ nữ ở) kích thước các gian cửa nhà bếp tỷ lệ bằng 2/3 gian
trong nhà chính và gầm sàn dùng để buộc trâu, ngựa, chuồng gà - ngày nay do thực
hiện nếp sống mới ở cơ sở, nhân dân đã bỏ được tục này. Trên sàn nhà chính, gian
trung tâm thường là gian giữa, nếu số gian nhà là lẻ. Nếu nhà số gian chẵn thường
chọn gian trung tâm là gian thứ hai kể từ cầu thang ngoài vào. Cầu thang ngoài được
quy định làm cầu thang chính. Giữa gian đặt bếp, ngọn lửa được duy trì thường xun,
dùng để sưởi về mùa đơng và đun nước uống, ít khi nấu nướng ở đây. Các nghi lễ tôn
giáo khác liên quan đến lửa đều diễn ra ở bếp này. Những đêm đông trời lạnh, quần tụ
xung quanh bếp lửa hồng, cả gia đình người Tày nhiều thế hệ cùng thảo luận việc đồng
áng, trẻ em nghe người già kể chuyện cổ tích, những lời dạy bảo... tạo nên một lối
sống lành mạnh giữ tình thân ái.[1]
2.1.2. Ẩm thực
Cuộc sống của người Tày thường gắn bó với thiên nhiên, do đó, nguồn lương thực,
thực phẩm chính của người Tày là những sản phẩm thu được từ hoạt động sản xuất ở
vùng có rừng, sơng, suối, đồi núi bao quanh. Đó là thóc, gạo, ngơ, khoai, sắn, đậu, đỗ
cùng các loại rau quả do trồng trọt trong vườn hoặc hái lượm trong rừng, các loại thuỷ
sản như cá, tôm, cua do nuôi thả và đánh bắt ở sơng suối, các loại gia súc, gia cầm như
trâu, bị, gà, vịt hoặc chim, thú săn bắt ở trong rừng.
Thường ngày, người Tày ăn hai bữa: bữa trưa và bữa tối. Cơm hàng ngày là cơm gạo
tẻ. Trong mỗi bữa ăn, phổ biến nhất là rau. Cơm để trong nồi, thức ăn bày ra mâm gỗ
hay mâm đan, mâm mây. Khi ăn, các thành viên trong gia đình ngồi quanh mâm, trong
đó mẹ hay chị em gái thường ngồi ở đầu nồi xới cơm cho cả nhà. Khi có khách thì chủ
nhà ăn cơm với khách cịn cả nhà ăn cơm riêng.
Sinh hoạt ẩm thực của người Tày thường ngày giản đơn, được chế biến từ gạo, sắn,
khoai, măng, rau, cá, rau rừng, rong suối. Những ngày Tết được chế biến cầu kỳ hơn.
Những món cơm lam, măng nhồi nhân thịt, canh khâm kì, măng chua, riêu báng (nhiên
8
liệu từ bột cây báng rừng) là đặc sản của vùng người Tày n Bái. Các món ăn xơi,
đồ, nướng, lam… cũng là các món ăn khá phổ biến trong cách chế biến thức ăn hàng
ngày của người Tày. [4]
2.1.2.1. Món ăn của người Tày
Cơm tẻ: Cơm là món ăn chính hàng ngày của người Tày. Đổ gạo tẻ vào nồi nấu cùng
với nước. Khi nước cạn đem vần nồi cạnh bếp cho đến khi chín.
Xơi: Là món ăn đặc trưng của người Tày. Gạo nếp đồ trong chõ thành xơi. Người Tày
thường ăn xơi trắng. Ngồi ra, người Tày cịn một số loại xơi khác như: xơi màu, xơi
rau ngót rừng, xơi trứng kiến…
Xơi màu: Gạo nếp được nhuộm thành các màu xanh, đỏ, tím, đen rồi trộn các lọai
với nhau thành gạo nhiều màu. Gạo được nhuộm từ nhiều loại lá cây khác nhau như
màu tím nhuộm từ lá “cẩm", màu vàng từ hoa “phón” .
Xơi rau ngót rừng: Đồ xơi, bỏ rau ngót thái nhỏ lên miệng khi chín, đổ xơi và rau
ngót ra trộn đều, cho thêm gia vị, hành và mỡ.
Xôi trứng kiến: Đồ xôi lẫn với trứng kiến đen lấy từ tổ kiến.
Cơm lam: Là món ăn đặc trưng của người Tày. Trước tiên, người ta ngâm gạo nếp rồi
cho vào ống tre non cùng một ít nước, đậy nút kín rồi đem nướng trên lửa hoặc đồ lên
cho chín. Để ống tre nguội, bóc vỏ ống để lại lượt áo mỏng bao quanh cơm. Khi ăn,
dùng dao xắt thành từng khúc nhỏ.[14]
Bánh Gio: Bánh gio là món ăn khơng thể thiếu trong bộ sưu tập ẩm thực dân tộc Tày.
Người Tày chế biến loại bánh này bằng cách đốt một số loại thân cây như: cây sấu, cây
tầm gửi,… rồi lấy gio để chắt lấy nước gio. Sau đó họ dùng loại gạo nếp có hạt to trịn
ngâm một đêm trong nước gio, sáng hôm sau đổ ra hong cho ráo nước rồi gói bằng lá
dong (có nhiều nơi gói bằng lá chuối). Bánh được đun lên xong phơi khơ cho ráo nước
thì có thể sử dụng ngay. Bánh gio có vị thanh mát, dịu ngọt của gạo nếp hòa quyện với
hương lá dong. Đây là món ăn mà từ người già đến trẻ nhỏ đều khó lịng mà cưỡng
nổi.[15]
Bánh chuối: Mặc dù bánh chuối là món ăn phổ biến mà chúng ta có thể bắt gặp ở
nhiều nơi. Tuy nhiên, bánh chuối của người Tày ở Cao Bằng lại có một hương vị rất
đặc biệt xứng đáng trở thành món ăn đặc sản trong danh sách ẩm thực dân tộc Tày.
Nhân bánh chuối có đỗ, lạc, đường cịn lại các phụ gia đều làm từ chuối. Đây là món
ăn có vị chua chua lại ngọt ngọt, phù hợp với khẩu vị của mọi lứa tuổi. Bánh chuối là
món ăn được ưa chuộng trong các dịp rằm hay tết nhất là rằm tháng giêng và rằm
tháng 7.[15]
9
Thịt trâu khô: Thịt trâu sau khi đã được mổ, người ta đem từng tảng thịt to đi chế biến
cho chín rồi tẩm gia vị để ăn, món ăn này có thể để lâu ăn dần. Trong những lần ăn
sau, người ta thường chế biến thịt trâu với lá cải hoặc tỏi tây để làm món canh rau cải
và món thịt trâu khơ xào tỏi. Món ăn này có một vị rất đặc trưng đó là vị cay, thơm từ
các loại rau quả hòa quyện với bùi ngậy của thịt trâu. Có thể nói đây là một trong
những đặc trưng khơng thể thiếu khi nói đến ẩm thực dân tộc Tày. Các món ăn này
khơng chỉ ẩn chứa giá trị về mặt dinh dưỡng mà hàm chứa trong đó là cả một giá trị
văn hóa lớn lao.[15]
2.1.2.2. Đồ uống của người Tày
Thường ngày, người Tày uống nước đun sôi với lá hoặc vỏ cây rừng. Nhưng khi đi
rừng, lên nương, người dân thường uống nước khe, nước suối.
Rượu cũng là đồ uống phổ biến của dân tộc Tày, nhưng khác với người Thái và người
Mường, người Tày không làm cần mà nấu rượu bằng gạo, sắn, ngơ, mật mía. Rượu
nếp ủ trong hũ dùng trong dịp 14 tháng 7 âm lịch. Trong các dịp hội, hè lễ tết hoặc tiếp
khách, người Tày đều phải mời rượu, có khi chỉ là rượu suông.[14]
2.1.3. Trang Phục
Trang phục của người Tày chủ yếu bằng vải bông nhuộm chàm đen cho cả nam, nữ và
trẻ em, ít hoặc khơng trang trí hoa văn. Phụ nữ Tày mặc áo năm thân có thắt lưng bằng
vải chàm gấp lại buộc phía sau, đi đơi với váy trong dịp cưới, ngày lễ và tết. Ngày
thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu giống áo bà ba.
Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn, khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa, y phục này người
lớn tuổi thường dùng, thanh thiếu niên hiện nay mặc như người Kinh. Phụ nữ thường
đội khăn nhuộm chàm, khăn vng gấp xéo, có hai dải vải đỏ nhỏ buộc về phía trước
trán, đi khăn lật về phía sau. Đàn ơng chỉ đội khăn xếp dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón
dâu, hoặc đi ở rể. Đồ trang sức chủ yếu dùng chất liệu bằng bạc, như vòng cổ của trẻ
con, vòng tay của phụ nữ, dây xà tích… [5]
Bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc có kiểu dáng, màu sắc và cách trang trí
hoa văn khác nhau. Tuy dân số đơng, địa bàn phân tán nhưng dân tộc Tày lại là một
cộng đồng thuần nhất với một ý thức rõ rệt điều đó thể hiện qua bộ trang phục truyền
thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm.
Cái độc đáo đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối tạo dáng mà là lối
dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo
lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng
cịn gia cơng trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ
sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.[17]
10
Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như
không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và
áo dài ở bên ngồi. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu
nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ
hình mái nhà cịn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hồ Bình).[17]
Y phục của nam giới Tày gồm loại áo cách 4 thân (slửa cỏm), áo dài 5 thân, khăn đội
đầu, quần và giày vải. Áo cánh 4 thân là loại xẻ ngực, cổ trịn cao, khơng cầu vai, xẻ
tà, cài cúc vải (7 cái) và hai túi nhỏ phía dưới 2 thân trước. Trong dịp tết, lễ, hội nam
giới mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa)
cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ
choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng khơng luồn rút, khi mặc có dây
buộc ngồi. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x 200cm) quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
[17]
Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội
đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ trịn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt
trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng. Khi đi hội thường được mặt lót
phía trong áo dài. Vì vậy người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để
phân biệt với người Nùng chỉ dùng màu chàm. Áo dài cũng là loại 5 thân, xẻ nách phải
cài cúc vải hoặc đồng, cổ tròn ống tay và thân hẹp có eo.[17]
Bộ quần áo của dân tộc Tày bao gồm: khăn, áo, quần, dây lưng, tạp dề, guốc hoặc dép.
Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội khăn. Khăn là loại khăn vuông gấp chéo kiểu “mỏ
quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau gáy, tương tự như kiểu đội khăn mỏ quạ của phụ nữ Kinh.
Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có mái nón bằng và rộng.
Đồ trang sức được cả nam và nữ thích sử dụng đó là vịng cổ, chân, tay..., trẻ em đeo
đồ trang sức bằng bạc để trừ tà ma và tránh gió. Nét đặc sắc trên trang phục người Tày
lại được thể hiện ở những mẫu hoa văn trên vải. Sự pha trộn phối màu một cách tinh tế
và hợp lí tạo đồ họa trên mặt vải khiến cho trang phục của người Tày trở nên sinh
động và ấn tượng.[17]
2.1.4. Hoạt động sản xuất
Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất sớm, nghề nuôi
tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hố của người Tày nơi đây từ
lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai mươi
bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục tình người
sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá phát triển
11
khá cao. Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất sớm,
nghề nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày
nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm
hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục
tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá
phát triển khá cao.[6]
Người Tày là cư dân nơng nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết
thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp
phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập qn đập lúa ở ngồi đồng trên những
máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngồi lúa nước người
Tày cịn trồng lúa khơ, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia
súc, gia cầm nhưng cách ni thả rơng cho đến nay vẫn cịn khá phổ biến. Các nghề
thủ cơng gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa
văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.[18]
2.2. Văn hóa tinh thần
2.2.1. Lễ hội
2.2.1.1. Lễ hội Lồng Tồng
Lễ hội Lồng Tồng hay còn gọi là hội xuống đồng, là một lễ hội truyền thống của dân
tộc Tày. Lễ hội được tổ chức hàng năm vào những ngày đầu tháng giêng, kéo dài đến
đầu tháng hai âm lịch. Đây là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hịa,
cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no.[7]
Trước ngày diễn ra lễ hội, các gia đình trong bản đều phải quét dọn nhà cửa, đường sá
đi lại sạch sẽ, chuẩn bị lương thực, đồ ăn để tiếp đón khách. Vào ngày lễ Lồng Tồng,
mỗi gia đình đều chuẩn bị một mâm cỗ trưng bày ở ngoài đồng của bản, lễ vật trên
mâm tùy theo khả năng của mỗi nhà.
Đặc biệt, trên mỗi mâm cỗ cịn có thêm hai đơi quả còn được làm bằng vải màu, bên
trong nhồi cát và bơng, có tua rua nhiều màu sắc sặc sỡ.
Địa điểm tổ chức lễ hội Lồng Tồng là những ô ruộng to nhất, tốt nhất của người dân
trong bản, ở giữa người ta dựng một cây mai cao từ 20–30 cm làm cột.
Trên đỉnh cột có uốn một vịng trịn đường kính 50 – 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ
Nhật Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời để phục vụ cho hội tung còn. Nếu
ở lễ hội nào khơng có ai tung cịn trúng vịng trịn thì dân bản khơng vui, vì theo quan
niệm của họ, phải có người tung cịn trúng vịng trịn làm rách giấy thì năm đó làm ăn
12
mới thuận lợi, mưa thuận gió hịa. Trong trị chơi này, nam nữ thanh niên còn thi tung
còn cho nhau.[7]
Sau phần lễ là phần hội, mở đầu là những tiết mục văn nghệ đặc sắc như hát Then, hát
Cọi...Trong phần hội cịn có nhiều hoạt động thể thao dân tộc và trò chơi dân gian khác
như: Ném còn, leo cột, bịt mắt đánh trống, kéo co, đẩy gậy, thi cày ruộng... tất cả đều
tạo cho người xem vui vẻ, háo hức chuẩn bị cho một năm mới với những vụ mùa mới
năng suất, hiệu quả cao.
2.2.1.2. Lễ hội rước đất rước nước
Lễ hội rước Đất rước Nước là một lễ hội truyền thống của người Tày diễn ra vào ngày
rằm tháng giêng hằng năm để cầu xin Mẹ Đất, Mẹ Nước phù hộ cho đất luôn màu mỡ,
cầu cho nguồn nước khơng bao giờ cạn, giúp dân bản có cuộc sống no đủ quanh năm.
Ngay từ sáng sớm, dân làng đã cử một đoàn người gồm: thầy cúng, đội trống, chiêng,
kèn và những người phụ nữ chăm chỉ làm ăn, có cuộc sống gia đình n bình khỏe
mạnh đi lên ngọn núi – nơi có nguồn nước trong nhất bản – rước hồn Đất, hồn Nước
về dự hội.
Đi đầu đoàn rước là thầy cúng. Thầy là người giữ vai trò làm sứ giả để giao tiếp với
các vị thần linh. Trong tay thầy cầm cây nêu - biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở rước
đến địa điểm diễn ra lễ hội. Tiếp theo là kiệu rước Nước và các mâm lễ. Nước được
đựng trong hai ống bương to, tượng trưng cho ống bố, ống mẹ. Tiếp đến là kiệu rước
Đất - hồn mẹ Đất được lấy từ trên đỉnh núi cao thiêng liêng. Sau đó là đến các mâm lễ
để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn, bên trong các quả còn đựng
các loại hạt giống do các cô, các chị kỳ công làm ra, các mâm xôi ngũ sắc, gà luộc, hoa
quả… đều là những sản vật tinh tuý của mùa màng – thành quả sản xuất của dân bản
trong năm. Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy giao linh
với các vị thần.[8]
Khi thực hiện lễ cúng, thầy cúng phun nước làm phép để xua đuổi điều xấu, xua đuổi
ma quỷ không cho về quấy phá dân bản.
Cúng xong, thầy tung lộc (thường là ngô, lúa) của thần linh cho dân bản. Những người
tham dự ai cũng cố gắng nhận cho được vài hạt thóc, hạt ngơ đem về nhà để lấy may
mắn, mong mùa vụ sau ngô sai hạt, lúa sai bông.
Kết thúc các nghi lễ là phần hội. Các chàng trai cô gái bắt đầu nhảy những điệu xòe
truyền thống, hát giao duyên và chơi những trò chơi dân gian như đẩy gậy, kéo co,
ném còn,…
13
2.2.1.3 Lễ hội nàng hai
Lễ hội Nàng Hai là một lễ hội của người đồng bào dân tộc Tày, Việt Bắc, là một nét
sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo. Theo đúng tên gọi là: "Mời Nàng Hai (mời Nàng
Trăng) xuống hạ giới để giao lưu cùng với con người.
14
Với nhiều hình thức khác nhau, đó là: Lễ mời "Nàng Hai" được gắn với các lễ Then
như: Lẩu Then, Cống Sử, Kỳ Em... và tổ chức vào các đêm trăng mùa thu với các trò
chơi phong phú như: Hát lượn Hai, bói việc sản xuất, tình dun... Lễ thường do một
nhóm trai gái tụ tập trên nhà sàn, thắp hương mời Nàng Hai về nhập vào một cô gái
nào đó để hát đối đáp, hoặc là dân bản đứng ở một sân bãi, trong đó có một người chủ
chốt làm lễ mời Nàng Hai về. Một hình thức nữa được tổ chức vào tháng 3 âm lịch
diễn ra trong nhiều ngày, theo quy mô bản và xã. Trong các ngày lễ hội sẽ diễn ra các
bài tung lên mường trời cầu mùa, kèm theo các nghi lễ múa quạt. Đặc biệt là hình thức
trình diễn trên sân khấu. Lễ diễn ra có một bà Then làm chủ, dâng lễ lên trời mời Nàng
Hai nhập vào hai cô gái để hát đối đáp chúc phúc cho dân bản có một mùa màng bội
thu và chia sẻ với những người không gặp may mắn. Cho dù không cố định, không
đúng thời gian, nhưng nhìn chung lễ hội Nàng Hai đều được tổ chức theo các trình tự
khá bài bản.[9]
15
Sau khi cầu hết các cửa, xin các mẹ được đầy đủ các giống cây, con, các điều kiện mưa
gió thuận hịa thì dân bản tổ chức đưa tiễn các nàng Trăng về trời. Lễ này được tổ chức
chu đáo và là ngày hội chính thức.
16
Để tiễn đưa các nàng Trăng về trời, dân làng dựng một lều Trăng thứ hai ở ngoài đồng.
Mẹ Trăng và các nàng Trăng phải làm lễ chia tay, hát các bài hát chia tay vừa đi vừa
múa quạt và dùng tay du mạnh những cột lều cho lều đổ, sau đó Mẹ Trăng và các nàng
Trăng ra cầu thần trông coi đầu bản và cuối bản mở cửa cho Mẹ Trăng và các nàng
Trăng về trời.
2.2.1.4 Lễ cưới
Nhà trai xem ngày tốt để tiến hành lễ cưới. Tục thách cưới, nhà trai phải lo toàn bộ đồ
ăn cho khách mời của nhà gái trong ngày cưới như: gà, lợn, xôi, bánh, gạo, rượu....
Trước đây, thách cưới bằng bạc trắng, nay thách cưới bằng tiền để sắm đồ cưới.
Theo phong tục, những gia đình có con gái từ 10 tuổi trở lên phải trồng bông dệt vải.
Khi cô dâu về nhà chồng phải chuẩn bị cho ông bà nội, ngoại, bố mẹ chồng, cơ, dì, chú
bác bên chồng mỗi gia đình một đơi gối, một cái chăn bơng. Nếu anh em chưa có gia
đình thì mỗi người sẽ được cơ dâu tặng một cái chăn và một cái gối. Đồng thời, cơ dâu
cịn phải chuẩn bị đầy đủ mọi dụng cụ, phục vụ sinh hoạt và lao động sản xuất để
mang theo về nhà chồng. Cô dâu trong ngày cưới mặc áo dài đen, váy đen, vấn tóc
trong vành khăn.[10]
Trước khi nhà trai đi đón dâu phải làm lễ cúng tổ tiên. Khi đi đón dâu, nhà trai gồm có
hai người cao tuổi đại diện, chú rể, phù rể, bà gia hặp (bà đưa cơi trầu). Đi đến chân
cầu thang nhà gái, ông bác đại diện nhà trai xin phép rửa chân để lên nhà nói chuyện
xin dâu. Trước khi ăn cơm ở nhà gái, 2 người lớn tuổi đại diện nhà trai cùng chú rể,
phù rể phải đi mời cơm lần lượt quan khách của họ nhà gái. Trước khi đồn trở về nhà
trai, cơ dâu, chú rể lạy ông bà, bố mẹ,... nhà gái mỗi người 3 lạy.[10]
Đoàn rước dâu khi đi ra khỏi nhà gái thì bố trí 2 người cao tuổi đại diện nhà trai đi
trước, cô dâu, chú rể đi sau, tay cô dâu cầm nón, thẻ hương. Khi xuống cầu thang, cơ
dâu đội nón lên đầu, đến chân cầu thang cắm một thẻ hương. Ra đến cổng nhà lại cắm
một thẻ hương ở cổng. Đoàn đưa dâu đại diện cho họ nhà gái gồm có 1 ơng, 1 bà cao
tuổi (ơng ta thống, bà tai thống) phù dâu, anh em, bạn bè...
Buổi tối hôm đón dâu, bà tai thống, ơng ta thống và phù dâu ngủ lại ở nhà trai. Bà tai
thống và phù dâu sẽ ngủ cùng cô dâu. Sáng hôm sau, cô dâu, phù dâu dậy sớm lấy
nước, lấy khăn bê đến cho mọi người trong nhà rửa mặt.
17
2.2.2. Tín Ngưỡng
Người Tày chủ yếu theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trong ngôi nhà của họ bàn thờ
luôn được đặt ở nơi trang trọng nhất của ngôi nhà. Đồng bào quan niệm: “Vạn vật hữu
linh” nên họ coi mọi thứ đều có linh hồn, người chết đi về thế giới bên kia và vẫn theo
dõi mọi hoạt động của người trần.
Người dân tộc Tày rất coi trọng việc thờ cúng Tổ tiên, đây là việc thờ chính trong nhà,
nhằm giáo dục, nhắc nhở con, cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền
thống gia tộc, dịng họ. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian chính giữa nhà là nơi trang
trọng nhất, cao ngang xà, được trang hoàng đẹp. Ngày mồng một, ngày rằm âm lịch
hàng tháng, gia đình thắp hương kèm theo hoa quả, rượu. [11]
Do tính chất thiêng liêng, trang trọng như vậy, nên người Tày thường nghiêm cấm phụ
nữ nhất là con dâu, cháu dâu, những người lạ không được tới gần bàn thờ. Mỗi khi gia
đình có việc đại sự như: Làm nhà mới, cưới vợ, sinh con, tang lễ đều phải cúng bái
mời tổ tiên về chứng giám, ở gia đình người Tày, mỗi người con dâu đều có một buồng
riêng, đều có một bà mụ riêng cho con của mình. Có bao nhiêu con dâu có trẻ con thì
có bấy nhiêu bàn thờ mụ.
Người Tày có quan niệm về ơng Công, ông Táo rất gần với người Kinh, họ coi ông
Táo không chỉ là thần Bếp mà còn là vị thần bảo vệ người và gia súc trong gia đình.
Nơi thờ Táo quân rất đơn giản, chỉ là một ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương.
Nếu gia đình có việc đại sự, hoặc xảy ra những vụ việc như có người đau, ốm, gia súc
bị bệnh dịch, mất trộm thì cúng thần bếp để xin phù hộ. Hàng năm cứ đến ngày 30
tháng chạp âm lịch là làm lễ tiễn đưa Táo quân về trời. Do đặc điểm cư trú ở vùng
rừng núi, khí hậu lạnh, sẵn củi rừng nên bếp của người Tày quanh năm không bao giờ
tắt lửa. Người Tày quan niệm bếp khơng có lửa thì khơng gặp được điều lành…[11]
2.2.3. Hơn nhân và gia đình
Về hơn nhân và gia đình, trong gia đình người Tày thường quý trọng người con trai
hơn và các quy định rõ ràng giữa các thành viên trong gia đình. Vợ chồng người Tày
u thương nhau, ít li hơn, đã từ lâu khơng cịn tục ở rể. Nam nữ được tự do u đương
tìm hiểu nhưng có thành vợ chồng hay không lại tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và “số
mệnh” của họ hợp hay khơng. Vì thế trong gia đình đi tới hơn nhân phải có bước nhà
trai xin lá số của cơ gái có hợp với lá số của con mình. Sau khi cưới, cơ dâu ở nhà bố
mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng. Về việc
sinh đẻ, khi có mang cũng như trong suốt thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải
kiêng cử nhiều thứ khác với ước muốn được mẹ tròn, con vng, đứa bé chóng lớn,
18
khỏe mạnh và tránh được những vía độc hại. Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và
lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.[12]
Gia đình người Tày là gia đình phụ quyền. Trong gia đình, người bố có quyền hành
lớn giải quyết mọi công việc liên quan đến sản xuất, cưới xin; Trong xử lý quan hệ
cộng đồng, quan hệ xóm giềng. Sau ơng bố, người con trai cả cũng có quyền hành
tương tự. Giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ cơ bản là bình đẳng, cùng lao
động, cùng hưởng thụ thành quả lao động làm ra. Con gái lớn, trước tuổi lấy chồng,
thường được bố mẹ cho một số vốn riêng từ việc trồng bông, dệt vải. Quan hệ tiếp xúc
bố chồng, anh chồng và con dâu, em dâu không cách biệt như người Nùng. Việc phân
chia tài sản được thực hiện theo nguyên tắc chia cho tất cả con trai và bố mẹ, trong đó
phần chia cho con trai cả và cho bố mẹ thường nhiều hơn các phần kia một chút.
Ngoài việc, các con trai nhận phần tải sản (chủ yếu nói về ruộng đất) của mình, ai ni
bố mẹ khi cịn sống và làm các thủ tục cho bố mẹ khi bố mẹ ra đi thì được hưởng phần
ruộng của bố mẹ, thông thường con trai nhận phần ruộng của bố mẹ.
2.2.4. Lễ mừng thọ
Người Tày từ rất lâu đời đã hình thành một nền văn hóa riêng với những bản sắc đặc
trưng. Trải qua nhiều biến đổi của lịch sử, xã hội, thời gian…nhưng những bản sắc văn
hoá của người dân tộc Tày đến nay vẫn còn lưu giữ và bảo tồn.
Theo phong tục của người Tày, khi bố mẹ ở độ tuổi 70 trở lên, con cái sẽ làm lễ mừng
thọ (còn gọi là lễ thêm lương) cho bố mẹ nhằm thể hiện tấm lịng hiếu thảo, sự kính
trọng và cầu cho ông bà, bố mẹ khỏe mạnh, thêm nhiều thời gian ở bên con cháu. Lễ
mừng thọ của người Tày thường diễn ra từ đêm hôm trước tới sáng hôm sau với nhiều
nghi lễ. Để chuẩn bị cho buổi lễ, người trong gia đình phải chuẩn bị ba mâm cúng dưới
chân bàn thờ; trong đó có một mâm chay dành cho bà mụ sinh, một mâm mặn cúng tổ
tiên và một mâm dành cho hành binh, hành kiến. Cùng với đó, một bàn thờ thánh sẽ
được đặt ngay cạnh nơi bà then làm lễ cúng.[13]
Ngồi những mâm cúng chính, nghi lễ mừng thọ của người Tày không thể thiếu một
chiếc lẩu váng tượng trưng cho kho lương của người được mừng thọ, hay còn gọi là
lẩu bổ lương. Đây là một khối hình lăng trụ bên ngồi được dán giấy hồng, một chiếc
thang nhỏ được cắt từ miếng bìa cứng bằng giấy có 7 bậc thang nếu là đàn ông, 9 bậc
thang nếu là đàn bà tượng trưng cho cây cầu mệnh, một cây chuối còn cả gốc rễ được
treo tiền vàng tượng trưng cho cây mệnh của người được mừng thọ, một chiếc ô để
che mưa nắng và nhiều hình nhân.
19
Trong nghi lễ này cịn có thêm một chiếc áo của người được mừng thọ, đây được gọi
là chiếc áo đón vía, bởi qua mỗi chặng đường bà Then đều phải cúng then xin vía con
cháu và người được mừng thọ.
Ngoài ra, vào ngày này người Tày thường làm rất nhiều món bánh màu để cúng. Đây
là một loại bánh truyền thống của dân tộc Tày, được làm bằng gạo nếp có phẩm màu
hoặc những loại cây lọc lấy nước có màu đỏ hoặc hồng.
Trong nghi lễ mừng thọ của người Tày, nhân vật chính giữ vai trị quan trọng nhất điều
hành buổi lễ là bà Then. Thường thì mỗi gia đình khi làm lễ chỉ mời tới một bà Then
nhưng nếu gia đình nào đã có người đi làm Then thì trong ngày này phải mời thêm
một hoặc hai bà Then nữa. Ngoài những lời then quen thuộc được coi là vốn liếng
không thể thiếu trong lễ mừng thọ, bà Then cịn có những vật dụng đi kèm là một cây
đàn tính, một chiếc quạt, hai thẻ âm dương, một bộ nhạc ngựa. Bên cạnh bà Then có
thêm một người giúp việc thắp hương, đốt tiền vàng, rót rượu, họ làm công việc này
song song với việc cúng của bà then.[13]
Ngoài bà Then ra, trong các nghi lễ cúng mừng thọ của người Tày, người con rể đóng
một vai trò khá quan trọng. Con rể sẽ tự tay quay một con lợn mang xuống làm lễ
mừng thọ bố, mẹ vợ; sau khi lễ cúng xong, người con rể sẽ mang cây chuối đi trồng
vào góc vườn của gia đình, từ đó việc chăm sóc cây chuối là nhiệm vụ của người con
trai cả. Điều này có nghĩa con gái con rể chỉ đến thăm bố mẹ, còn người con trai mới
là người trực tiếp chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ.
Con cháu, họ hàng trong gia đình đến dự lễ mừng thọ đều phải chuẩn bị những túm
gạo nhỏ. Sau khi hành lễ xong những túm gạo đó sẽ được đổ vào một chiếc thúng. Từ
thúng gạo này trải một tấm vải đen tượng trưng là cầu nối từ hạ giới lên thiên đình,
trên mặt vải đặt những chiếc đũa hình chữ chi cùng vàng mã, tượng trưng cho những
thanh cầu và tiền hành lộ. Khi hành lễ xong, lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ, người
con rể sẽ đến giật tấm vải đen xuống, tượng trưng cho tín sứ trên thiên đình xuống
nhận lễ.[13]
Lễ mừng thọ của người Tày là một trong những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống,
thể hiện chữ hiếu của con cháu đối với các bậc sinh thành, là giá trị văn hóa đặc sắc
cần được bảo tồn, gìn giữ.
20
Tóm tắt chương 2
Với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cùng nền ẩm thực đa dạng, hấp dẫn,
chinh phục được thực khách trong lần thưởng thức đầu tiên. Và là dân tộc có dân số
đơng thứ hai cả nước sau người Kinh nên nền văn hoá đặc trưng, đậm nét bản sắc thì
ngồi ra sự đa dạng và tương đồng văn hoá cả hai tộc người khá rõ nét. Khi nhắc đến
những nét đặc sắc và ấn tượng của văn hóa dân tộc Tày thì khơng thể nào bỏ qua yếu
tố về trang phục. Nếu như những bộ trang phục của người Mường được thiết kế cầu kỳ
với nhiều họa tiết được thêu dệt tỉ mỉ thì trang phục của người Tày lại có vẻ giản đơn
hơn.
Ngồi yếu tố tâm linh làm chỗ dựa cho tinh thần thì việc vui chơi, ca múa cũng góp
nên một văn hoá tinh thần mà mỗi tộc người nào cũng cần phải có. Văn hố đó được
biểu hiện qua các diệp như lễ hội lồng tồng, đám cưới, mừng nhà mới hay có khách
đến bản. Những lúc này là khi các làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác,
phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới....được
thể hiện bởi các thôn dân trong bản. Khơng những vậy văn hố tinh thần cịn xuất hiện
ở các trò chơi dân gian như ném còn, múa sư, kéo co, đánh cờ tướng...những nét ấy
góp phần xây nên đời sống tinh thần của người Tày về lâu dần tạo nên một nền văn
hoá tinh thần đậm chất riêng biệt của một tộc người.
Cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội của đất nước, cộng đồng
người Tày cũng có những bước tiến đáng kể về nhận thức, trình độ học vấn hay cách
thức làm ăn kinh tế. Tuy rằng một số nét đặc trưng của người Tày đã bị mai một theo
thời gian, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những vẻ đẹp văn hóa của dân tộc thiểu số này
tại các bản làng miền núi thấp phía Bắc. Hơn nữa, với những nỗ lực của mình, các nhà
nghiên cứu về dân tộc học và các nhà chức trách cũng đã sưu tầm được hầu hết những
vật dụng, trang phục, nhạc cụ thậm chí mơ phỏng các dạng nhà ở của người Tày tại
bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
21
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG DU LỊCH
Điểm mạnh (S = Strengths)
Điểm yếu (W = Weaknesses)
- Nơi có núi sơng hùng vĩ, nhiều danh lam
thắng cảnh nổi tiếng và với nền văn hóa
bản địa phong phú, đa dạng đậm đà bản
sắc dân tộc.
- Cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật còn
rất yếu kém, hệ thống cơ sở lưu trú, sản
phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu.
- Thiếu sự liên kết làm du lịch giữa các
- Tày, Nùng, Mông, Dao… được thể hiện vùng với nhau.
qua các lễ hội, văn hóa dân gian, ẩm thực, - Chưa có sự đầu tư thỏa đáng cho du lịch.
nghề thủ công truyền thống, kiến trúc, chợ
phiên… và các di tích lịch sử văn hóa
khác trong lịch sử hình thành và phát
triển.
- Giữ được những nét văn hóa truyền
thống riêng có của mình; tạo nên bản sắc
độc đáo có sức thu hút với khách du lịch.
- Nét ẩm thực phong phú, đa dạng như
các món ăn chế biến từ thịt lợn, từ gia
cầm, cơn trùng, các loại xơi màu, bánh
cc mị, bánh ngải...
- Làn điệu dân ca Tày qua đàn tính, hát
then (gồm nghi lễ then, lượn then và hát
then đàn tính), cọi, lượn vừa mộc mạc,
bình dị mà thiết tha do các hướng dẫn
viên, các gia đình gửi tới du khách.
- Các trị chơi dân gian có đẩy gậy, đánh
quay, ném cịn, bắn nỏ, thi gói bánh...
22
Cơ hội (O = Opportunities)
Thách thức (T = Threats)
- Nguồn tài nguyên văn hóa lịch sử phong - Chưa có sự đầu tư hợp lý
phú, cảnh quan thiên nhiên đẹp, hệ sinh - Cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn
thái đa dạng...
nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng
- Những phong tục, tập quán đặc sắc trong dịch vụ tại địa phương
đời sống, tín ngưỡng.
- Cần làm mới những sản phẩm du lịch
- Những sản phẩm thủ công truyền thống
của đồng bào là những yếu tố có sức hấp
dẫn cao đối với khách du lịch, nhất là
khách du lịch quốc tế.
sẵn có, tạo ra những sản phẩm du lịch
mới, đặc trưng của vùng
- Cần thu hút được các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp du lịch.
- Cần phát triển thêm nhiều tour du lịch
hơn nữa.
23
KẾT LUẬN
24
Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt trong đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai,bệnh dịch và xây dựng đất nước. Các dân
tộc trên đất nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú phân tán và đan
xen nhau trên mọi vùng miền của từng dân tộc góp phần tạo nên sự đa dạng, phong
phú của nền văn hoá của đất nước với cơ cấu dân số và trình độ phát triển khơng đồng
đều. Bản sắc Việt Nam. Đồn kết các dân tộc ln là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài
của sự nghiệp cách mạng nước ta. Dân tộc Tày là một dân tộc ít người trong tổng số 54
dân tộc anh em của Việt Nam. Có nền văn hóa đặc sắc cả về tinh thần. Người Tày mến
khách và cởi mở. Nghiên cứu về dân tộc Tày, cũng giúp tôi hiểu thêm hơn về con
người cũng như cuộc sống của họ.Và đây cũng là tài liệu nhỏ để giúp tơi có thể nghiên
cứu những cơng trình lớn hơn về người Tày. Dân tộc tày có rất nhiều đóng góp cho
nền văn hóa Việt Nam như là chữ Nơm Tày một di sản văn hóa quý giá của nước ta,
cùng với các loại văn tự giữ nước khác. Cùng với các dân tộc khác, người Tày, Nùng
đã sáng tạo và hồn thiện dần chữ Nơm Tày hàng nghìn năm nay để làm văn tự dùng
trong giao lưu và lưu trữ tư liệu. Đó là một thành tựu lớn của giới trí thức Tày, Nùng
và cộng đồng trí sĩ Việt Nam góp phần làm giàu cho kho tàng văn hóa nước nhà.Hay là
Hát Then là một di sản văn hóa – nghệ thuật truyền thống tộc Tày, Nùng, Thái ở các
tỉnh miền núi phía bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Lạng Sơn...Hát then được
lưu giữ, phát triển thành một khơng gian văn hóa hát then – đàn tính hết sức đồ sộ về
khối lượng, phong phủ về thể loại, đa dạng về hình thức biểu diễn.
25