MỤC LỤC
A.
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
B.
NỘI DUNG .......................................................................................................... 4
I. Quy luật giá trị .................................................................................................... 4
1. Khái niệm về quy luật giá trị ......................................................................... 4
2. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị...................................................... 4
3. Tác động của quy luật giá trị ........................................................................ 5
II. Tìm hiểu chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam .......................................................................................................................... 9
1. Định nghĩa ....................................................................................................... 9
2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam .................................................................................................................... 10
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường. ..... 10
III. Ảnh hưởng của quy luật giá trị đến nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ................................................................................... 11
1. Trong lĩnh vực sản xuất ............................................................................... 12
2. Trong lĩnh vực lưu thông ............................................................................. 13
IV. Giải pháp để vận dụng quy luật giá trị vào kình tế thị trường ở nước ta
được tốt hơn. ......................................................................................................... 15
C.
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 18
2
A. MỞ ĐẦU
Việc xây dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội là điều rất cần thiết đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới, mỗi nước sẽ có những định hướng riêng cho mình. Đảng
và Nhà nước ta luôn luôn phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng để có một xã hội như vậy
khơng phải tự nhiên mà có. Đứng trước xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
thế giới thì nước Việt Nam ta còn là một trong những nước có nền kinh tế chậm phát
triển, nghèo nàn và lạc hậu, do đó chúng ta cần phải áp dụng những biện pháp phát
triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và làm sao để có hiệu quả nhất. Chính vì
thế, chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm hiểu vai trị và tác động của nó
tới nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để có thể vận dụng nó
khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế và phát triển đất nước. Đối với Việt
Nam, quy luật giá trị ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân thông qua sự điều
tiết đối với nền sản xuất hàng hóa. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn
đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế. Vì vậy em xin được tìm hiểu và nghiên
cứu vấn đề “Quy luật giá trị và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
Dưới đây là những vấn đề mà em sẽ phân tích trong bài tiểu luận của mình,
những nội dung đó ngồi Mở đầu và Kết luận sẽ được đề cập trong bốn phần sau:
Phần I: Quy luật giá trị
Phần II: Tìm hiểu chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Phần III: Ảnh hưởng của quy luật giá trị đến nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Phần IV: Một số giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế
thị trường ở nước ta.
3
B. NỘI DUNG
I. Quy luật giá trị
1. Khái niệm về quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có
sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy
luật giá trị.[1]
2. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau và trong hệ thống
các quan hệ kinh tế của mỗi hình thái. Quy luật đó khơng thuộc về quy luật biểu hiện
bản chất xã hội cơ bản của một hình thái xã hội nào, các biểu hiện cụ thể của nó phụ
thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất nhất định.
Quy luât giá trị là quy luật của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sản xuất và trao đổi
hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần
thiết. Cụ thể:
- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá
biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa khơng phải được quyết định bởi hao phí
lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã hội
cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản
xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức
chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trong lưu thơng, hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết, có nghĩa trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá, phải đảm
bảo bù đắp được chi phí người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên lao động
xã hội cần thiết, chứ khơng phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái
sản xuất mở rộng.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Vì
giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước
4
hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và
ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác
như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này
làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh
trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá
trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của
giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng
hố. Do đó ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố thì ở đó có sự xuất hiện và hoạt
động của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu
thơng hàng hố đều chịu sự tác động và chi phối của quy luật này. Tuân theo yêu cầu
của quy luật giá trị thì mới có lợi nhuận, mới tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ bị
thua lỗ và phá sản.
3. Tác động của quy luật giá trị
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi tồn tại trong tự nhiên đều tuân theo những
quy luật nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quá trình hình thành và phát
triển của mỗi sự vật hiện tượng. Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chung và nền
kinh tế Việt Nam nói riêng cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Theo thời gian, nền
kinh tế khơng ngừng biến đổi. Nó liên tục phân chia và hình thành thêm nhiều thành
phần kinh tế mới có những định hướng khác, có những đặc điểm và quy định riêng
biệt đối với các thành viên tham gia trong nền kinh tế đó. Chúng giống nhau là nhìn
bề ngồi tưởng như sản xuất và trao đổi hàng hóa là việc riêng của mỗi thành viên,
họ độc lập và hình như khơng chịu sự chi phối nào. Trên thực tế, mọi người sản xuất
và trao đổi hàng hóa đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị. Vì vậy, quy luật giá trị
có các tác dụng chủ yếu sau:
a. Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa
Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố như: tư
liệu sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ nơi này
5
sang nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển
mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến động giá cả thị trường.
Từ đó, tạo ra những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của một nền kinh
tế hàng hóa nhất định.
Quy luật thể hiện ở chỗ: Cung và cầu từ trước đến nay chưa hề có sự ăn khớp với
nhau mà đối lập với nhau, cung ln bám sát cầu. Chính vì thế thị trường xảy ra các
trường hợp sau đây:
- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, việc sản xuất là phù hợp với
yêu cầu của xã hội, trường hợp này xảy ra một cách ngẫu nhiên và rất hiếm.
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị. Những người đang sản xuất
những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mơ sản xuất, những người đang sản xuất
hàng hóa khác thu hẹp quy mơ sản xuất của mình để chuyển sang loại hàng hóa bán
chạy này. Khơng những thế, số lượng sinh viên theo học khối ngành này cũng tăng
một cách rõ rệt.
- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, khơng tiêu thụ
được, có thể lỗ vốn. Những người đang sản xuất loại hàng này phải thu hẹp quy mô
sản xuất, chuyển sang sản xuất mặt hàng khác có giá trị trên thị trường.
Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự
phát thông qua giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác
dụng thu hút hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó góp phần làm cho
hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Ví dụ: Theo trào lưu thời trang, những mẫu quần áo thời trang mới nhất sẽ được
nhập về nước, đầu tiên sẽ đến với người dân thành thị – nơi có cuộc sống sung túc,
đầy đủ hơn. Cho đến khi những loại quần áo đó đã trở nên lỗi thời, nó được chuyển
về bán cho người dân nơng thơn.
b. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất làm tăng năng suất lao
động.
6
Các hàng hóa có điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác
nhau. Vì trên thị trường, các hàng hóa đều được trao đổi theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết nên người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí
lao động xã hội của hàng hóa sẽ ở thế có lợi, thu được lãi cao. Cịn ngược lại, người
sản xuất có hao phí lao động các biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa
thì người sản xuất đó ở thế bất lợi, lỗ vốn. Điều đó kích thích những người sản xuất
hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết
kiệm,… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt ngày càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn,
mang tính xã hội. Nếu người sản xuất nào cũng như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến
toàn bộ năng suất lao động xã hội khơng ngững tăng lên, chi phí sản xuất xã hội
khơng ngừng giảm xuống.
Ví dụ: Khi dịch Covid bùng phát làm lượng cầu về mặt hàng khẩu trang tăng. Do
các doanh nghiệp trước đây sản xuất thủ công, các công đoạn rời rạc nên năng xuất
thấp. Nắm bắt được nhu cầu này, doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư máy sản xuất
khẩu trang liên hoàn. Nguyên liệu sản xuất khẩu trang dạng cuộn được đưa thủ công
vào máy sản xuất mặt khẩu trang (Máy gấp mặt khẩu trang) qua băng tải lật mặt,
đưa qua máy hàn quai trong khẩu trang tự động. Do đó năng xuất lao động tăng lên
cao, thu lại lợi nhuận lớn.
c. Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành những người giàu, nghèo.
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất
có thể khơng đồng nhất với lao động xã hội cần thiết. Những người sản xuất hàng
hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần
thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ
thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất
kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản
xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể
7
phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một trong những nguyên
nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời chủ nghĩa tư bản.
Ví dụ: Cùng là cơng ty dệt vải, công ty của anh T ở thị trấn nhỏ, anh thuê công
nhân là những người ở nông thôn nên giá cả rẻ hơn thị trường, anh tìm được mối tơ
tằm tại một số xưởng ươm ở nông thôn nên giá cả rất thấp, là sinh viên ra trường
ngành thiết kế nên anh đã tạo ra rất nhiều tấm lụa đẹp và thu hút khách hàng, vì vậy
mà cơng ty của anh ngày càng làm ăn phát đạt. Mặc khác, công ty của anh H nằm ở
trung tâm thành phố nên giá thành cao, nhân công chủ yếu là con cháu của bà con
họ hàng nên mức lương cũng khá cao, công ty anh chủ yếu làm những loại vải bình
thường mà trên thị trường có sức cạnh tranh rất mạnh, do đó một thời gian cơng ty
anh H đã phá sản do thiếu vốn, anh H phải đi làm thuê cho một công ty khác.
d. Một số tác động khác
Bên cạnh những tác động khá tích cực đến hoạt động sản xuất – trao đổi – lưu
thông hàng hóa thì quy luật giá trị hiện nay cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất
định:
Hầu hết các doanh nghiệp đang thi đua nhau chạy theo lợi nhuận, đồng thời tính
cạnh tranh trên thị trường ngày càng cao mà đã xuất hiện rất nhiều vấn đề gian lận
trong quá trình buôn bán, xuất hiện nhiều loại hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng, gây ảnh hưởng lớn đến người tiêu dùng.
Ví dụ: Ở Việt Nam, sản phẩm may mặc, mỹ phẩm của các thương hiệu danh tiếng
được bày bán tràn lan ở các của hàng bán lẻ, khu chợ, thậm chí ở vỉa hè với một cái
giá rất rẻ.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực.
Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần
có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc
biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
8
II. Tìm hiểu chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
1. Định nghĩa
a. Kinh tế thị trường
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản
xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng
hố không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà
nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã
hội.[2]
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó tồn
bộ các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế
hàng hố và kinh tế thị trường khơng đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình
độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.[2]
Sự hình thành của kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử từ kinh tế tự
nhiên, tự túc, kinh tế hàng hóa rồi từ kinh tế hàng hóa phát triển thành kinh tế thị
trường.
Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là các chủ thể tự do lựa chọn các hình
thức sở hữu, phương thức sản xuất kinh doanh, ngành nghề mà luật pháp không cấm.
Mọi hoạt động kinh tế đều diễn ra theo quy luật của nó, sản xuất và bán hàng hóa
theo yêu cầu của thị trường, bán cái gì mà thị trường cần chứ khơng phải bán cái mà
mình có, tiền tệ hóa các quan hệ kinh tế, các chủ thể được theo đuổi lợi ích chính
đáng của mình.
b. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội
mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. [1]
9
2. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế hỗn
hợp, nghĩa là vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường được tôn trọng, các mạch máu
kinh tế và các ngành trọng yếu (khai mỏ, ngân hàng, quốc phòng...) được nhà nước
quản lý. Các thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được vận dụng một
cách hợp lý. Nền kinh tế chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nó là một nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu, nhưng khu vực kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.
Thứ ba, là nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững và chủ động hội nhập
kinh tế thành công.
Thứ tư, việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động và theo hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo cả mức đóng góp vốn. Chú trọng phân phối lại qua phúc
lợi xã hội. Việc phân bổ các nguồn lực vừa được tiến hành theo hướng nâng cao hiệu
quả, vừa theo hướng giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương. Phát
triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; công bằng xã hội được chú ý trong
từng bước, từng chính sách phát triển.
Thứ năm, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và nhân dân
được khuyến khích tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001), lần đầu tiên mơ hình Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng:
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị
10
trường, có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[3].
Sự khẳng định mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xác định
rõ tính chất thị trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước khơng những
thực thi vai trị chính trị mang bản chất của xã hội chủ nghĩa mà còn là một thành
phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế độ kinh tế mới.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hệ thống kinh tế xã hội chủ
nghĩa thế giới lớn mạnh, sự phân công quốc tế xã hội chủ nghĩa là điều kiện kinh tế
quan trọng để phát triển kinh tế mỗi nước, chúng ta cần biết và có đầy đủ khả năng
tham gia vào sự phân cơng quốc tế đó. Với nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ yếu, khi
tham gia vào sự phân công quốc tế này những mâu thuẫn của sản xuất hàng hóa thêm
gay gắt. Vấn đề cần giải quyết để phát triển sản xuất hàng hóa nước ta nhằm đáp ứng
quan hệ phân công hợp tác quốc tế này là phải quy hoạch lại, sản xuất kế hoạch hóa
chặt chẽ, tập trung những trọng điểm để tạo nguồn hàng tham gia vào sự phân công
và giải quyết nhu cầu trong nước. Sự hợp tác về mặt kế hoạch do vậy có tầm quan
trọng đặc biệt trong sự phát triển kinh tế ở nước ta: “Phát huy tác dụng của quy luật
giá trị trong kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế tác động của các quy luật giá trị trong
kinh tế không xã hội chủ nghĩa là yêu cầu của chính sách giá cả và quản lí thị trường
ở nước ta trong thời kì quá độ”.[3]
III. Ảnh hưởng của quy luật giá trị đến nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị,
nên khơng khai thác được các nguồn lực, nền kinh tế kém phát triển, rơi vào khủng
hoảng.
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị
hoạt động, tạo nên sự cạnh tranh, phát triển kinh tế… Bên cạnh đó, cũng nảy sinh
những mặt trái như: phân hóa giàu - nghèo, buôn bán gian lận…
11
Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với chính sách mở cửa
hợp tác với các nước. Đảng ta đã đưa ra quan điểm "Một nền kinh tế phát triển theo
mơ hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và dưới sự
quản lý của nhà nước". Trong quá trình phát triển nền kinh tế, nước ta chịu tác động
của nhiều nhân tố khách quan, một trong những nhân tố khách quan chủ yếu là quy
luật giá trị.
1. Trong lĩnh vực sản xuất
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu
sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có
kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, quy luật giá trị không phải
không ảnh hưởng đến sản xuất. Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức
lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình
thức hàng hóa và chịu sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành phần kinh
tế khác nhau, ảnh hưởng của quy luật giá trị có những điểm không giống nhau.
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện
sự trao đổi hàng hóa thơng qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất giá trị cá biệt của từng xí
nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã hội, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ
sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Các cấp
quản lí kinh tế cũng như các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở, khi đặt kế
hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu
để định khối lượng, kết cấu hàng hóa….
a. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế:
Cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao
dịch chứng khốn, thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Để đứng
vững trên thị trường trong quá trình hội nhập, mỗi cá nhân, doanh nghiệp phải nâng
cao sức cạnh tranh của mình bằng (giữa các doanh nghiệp trong nước, giữa doanh
12
nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước, giữa
cá nhân trong nước với cá nhân nước ngoài).
Sự đào thải của quy luật giá trị làm cho sản phẩm hồn thiện hơn, mang lại lợi
ích cho người tiêu dùng.
b. Hội nhập kinh tế:
Sự đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển góp phần thúc
đẩy q trình hội nhập quốc tế của nước ta. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm
của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ
phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu. Do sự
phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện sản xuất cái này, nước kia
có điều kiện sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh trên thương trường. Điều
này thúc đẩy sự chun mơn hóa, hợp tác hóa sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và
tuân theo sự điều tiết của quy luật giá trị, chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả
thấp.
Ngồi ra, khi quy luật giá trị có ảnh hưởng như vậy, sẽ có tác động đến việc giáo
dục những cán bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất một cách hợp lí, và khiến họ
tơn trọng kỉ luật. Nhờ đó mà học hỏi tính tốn tiềm lực của sản xuất, tính tốn một
cách chính xác đến tình hình thực hiện của sản xuất, biết tìm ra những lực lượng dự
trữ tiềm tàng giấu kín trong sản xuất. Tuy nhiên, còn những các cán bộ lãnh đạo, các
nhà chuyên môn về công tác kế hoạch, hiểu không thấu đáo tác dụng của quy luật giá
trị, không nghiên cứu và khơng biết chú ý đến tác dụng của nó trong khi tính tốn.
Đó cũng chính là ngun nhân vì sao chính sách nước ta cịn hay mơ hồ.
2. Trong lĩnh vực lưu thông
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự ảnh hưởng khách quan của
quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật trong lưu thông, phân phối được thể hiện ở
những mặt:
13
a. Tạo lập giá cả:
Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá cả. Giá
cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả phải đảm
bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về
vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí,
tức là bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời phải bảo đảm một mức lãi thích đáng để
tái sản xuất mở rộng.
Giá cả là một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất
yếu khách quan của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật
giá trị vào những mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính
trị trước mắt và lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa.
b. Nguồn hàng trong lưu thông
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường được
thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế
dân sinh, nếu cung cầu khơng cân đối thì Nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản
xuất, tăng cường thu mua, cung cấp theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà khơng thay
đổi giá cả. Chính thơng qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc
lưu thơng của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán
thấp sẽ hạ đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó, Nhà nước ta đã vận dụng vào
việc định giá cả xoay quay giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật, tăng cường quản lí.
Khơng những thế mà Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng
loại hàng hóa trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá
trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối.
Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của
xã hội. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này ở nước ta nhiều khi lại làm cho giá cả bất ổn,
tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngồi tràn vào nước ta do giá cả hợp lí hơn.
14
Kinh tế thị trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hóa, theo đuổi
hiệu quả phân phối tối ưu của các nguồn. Thước đo giá trị chú trọng hiệu quả kinh tế
hình thành trong điều kiện kinh tế thị trường, một khi được mở rộng, vận dụng vào
lĩnh vực đời sống xã hội và quan hệ con người, không tránh khỏi sản sinh những
quan niệm khác nhau gắn bó với đạo đức con người đó là chuẩn mực giá trị “coi
trọng tình nghĩa, xem thường lợi ích” hay “coi trọng lợi ích, xem thường tình nghĩa”.
Do vậy, ở nước ta, phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải chú ý đến
sự chuyển đổi quan niệm giá trị xã hội sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền
thống và hiện đại.
IV. Giải pháp để vận dụng quy luật giá trị vào kình tế thị trường ở nước ta
được tốt hơn.
Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường cần nâng cao vai trị quản lí của Nhà nước thơng qua quy hoạch, kế hoạch,
cơng cụ tài chính, qua các phương thức kích thích, giáo dục, thuyết phục và cả cưỡng
chế nữa. Đảng và Nhà nước ta cần:
- Phát triển kinh tế, lấy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa làm trung tâm: Tạo đà để
thực hiện những nhiệm vụ khác, đưa nước ta nhanh chóng phát triển, tiến theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
- Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học công nghệ.
- Tập trung phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần: Tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm vận
động tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Thực
hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ
cấu đào tạo hợp lý.
15
- Tiếp tục chủ đồng hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trị quản lí
kinh tế của Nhà nước: Đây là một yêu cầu cấp thiết, là điều kiện cơ bản để xây dựng
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay và trong
thời gian tiếp theo.
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước.
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
- Nhà nước cần chú ý hướng tới đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta: Vì nước
ta có một số loại thị trường phát triển nhanh chóng, phát huy được hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường nhưng lại có một số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình
thành một cách đầy đủ và bị biến dạng.
16
C. KẾT ḶN
Sau khi tìm hiểu và phân tích, chúng ta có thể thấy rằng quy luật giá trị là một
quy luật kinh tế rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật giá trị gắn liền nền
sản xuất hàng hóa đó cịn hoạt động trên phạm vi khá rộng và trong một thời gian
dài. Vai trò và phạm vi hoạt động của nó biến đổi qua từng thời kì cùng với sự
chuyển biến của quan hệ sản xuất, của lực lượng sản xuất với sự phát triển của phân
công lao động xã hội. Sự tác động của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, mặt khác cũng gây ra một số hệ quả tiêu cực nhất định.
Đối với nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn cịn nặng tính nơng
nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật còn phụ thuộc các nước khác. Tuy nhiên,
Đảng và Nhà nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi mới xã
hội, hiểu tác động cũng như sự ảnh hưởng của quy luật giá trị vào nền kinh tế thị
trường, mà từ đó thực hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế, cùng với việc hội nhập vào
nền kinh tế thế giới.
17