Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1992 ĐẾN 2013. SO SÁNH VỚI TỔ CHỨC CHÌNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.84 KB, 20 trang )

lOMoARcPSD|11346942

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

CHỦ ĐỀ 9:

“TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1992 ĐẾN 2013. SO SÁNH VỚI TỔ CHỨC
CHÌNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ĐỀ
XUẤT CẢI CÁCH TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.”
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Chính quyền địa phương
Mã phách:

Hà Nội - 2021

1


lOMoARcPSD|11346942

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐP

Chính quyền địa phương

HĐND

Hội đồng nhân dân



QLNN

Quản lý nhà nước

UBND

Uỷ ban nhân dân

2


lOMoARcPSD|11346942

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ................................................................. 1
3. Kết cấu trong tiểu luận ................................................................................... 1
NỘI DUNG ....................................................................................................... 2
Chương 1: TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 1992-2013 .............................................................................................. 2
1.1 Tình hình Việt Nam giai đoạn 1992-2013..................................................... 2
1.2 Căn cứ pháp lý.............................................................................................. 3
1.3 Cấu trúc bộ máy ........................................................................................... 3
Chương 2: SO SÁNH VỀ TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1992-2013 VÀ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .............. 6
2.1. Thay đổi tên gọi........................................................................................... 6
2.2. Về đơn vị hành chính................................................................................... 6

2.3. Về tổ chức chính quyền địa phương ............................................................ 7
2.4. Về nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương ............................. 8
2.5. Về địa vị pháp lý của chính quyền địa phương ............................................ 9
2.6. Về đại biểu hội đồng nhân dân .................................................................. 10
Chương 3: ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ..................................................................... 12
3.1. Thực hiện tổ chức hợp lý đơn vị hành chính .............................................. 12
3.2. Thực hiện phân cấp, phân quyền rõ ràng, hợp lí hơn ................................. 12
3.3. Xây dựng mơ hình chính quyền phù hợp với mỗi loại hình, chức năng đơ
thị ..................................................................................................................... 13
3.4. Nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu ............................ 14
3.5. Đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, thành phố thông minh .............. 14
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 17
3


lOMoARcPSD|11346942

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Việt Nam, tổ chức chính quyền địa phương đã được quan tâm, chú
trọng rất nhiều. Đặc biệt là đã có những quy định về chính quyền địa phương
ngay trong bản Hiến pháp năm 1946. Theo chiều dài lịch sử mà có những thau
đổi sao cho phù hợp với tình hình đất nước.
Chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn 1992-2013 được quy định
tại Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003. Giai đoạn này, thực hiện thay đổi, cải
cách nhiều vấn đề về chính quyền địa phương quan trọng.
Vì vậy mà tơi đã chọn chủ đề: “Tổ chức chính quyền địa phương Việt

Nam giai đoạn từ 1992 đến 2013. So sánh với tổ chức chính quyền địa
phương Việt Nam hiện nay và đề xuất cải cách tổ chức chính quyền địa
phương Việt Nam hiện nay” để thực hiện nghiên cứu.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Về tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn
1992-2013 và so sánh với tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Nêu ra những điểm khác nhau giữa tổ chức chính
quyền địa phương giai đoạn 1992-2013. Đồng thời đề xuất cải cách chính quyền
địa phương Việt Nam hiện nay.
3. Kết cấu trong tiểu luận
Chương 1: Tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn 1992-2013
Chương 2: Những điểm mới về tổ chức chính quyền địa phương Việt
Nam giai đoạn hiện nay so với giai đoạn 1992-2013
Chương 3: Đề xuất cải cách chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn
hiện nay

1


lOMoARcPSD|11346942

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1992-2013
1.1 Tình hình Việt Nam giai đoạn 1992-2013
Từ khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam kiểu mới - Nhà nước
của dân, do dân và vì dân đã rất chăm lo đến việc xây dựng và phát triển
chính quyền địa phương. Nhưng tuỳ theo điều kiện hồn cảnh của từng thời
gian mà việc tổ chức và hoạt động của chính quyền đại phương đạt được

những thành cơng và cịn có hạn chế nhất định. Với cơ chế tập trung, chính
quyền địa phương chỉ chủ yếu là cấp tuân thủ, thụ động thực hiện các quyết
định của các cơ quan nhà nước cấp trên. Nhưng ở giai đoạn hiện nay, với sự
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nền kinh tế thị trường có sự
định hướng xã hội chủ nghĩa, các cấp chính quyền địa phương cũng có những
thay đổi nhất định: chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ nhiều hơn trong việc
tổ chức và hoạt động của mình.
Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1992 cho đến 2013, việc tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương được dựa trên Cơ sở của Hiến pháp năm
1992 và Luật tổ chức hiện hành được thông qua năm 1994. Với tinh thần của
sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng cho việc phát
huy quyền lực của chính quyền địa phương nhất là cho Hội đồng nhân dân
các cấp - cơ quan đại diện thực hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương,
bằng việc thành lập các cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân, và nhất
là trong việc có gắng phân biệt thẩm quyền giữa các cấp chính quyền địa
phương với nhau.
Mặc dù có những cố gắng như vậy nhưng việc phân cấp giữa các cấp
chính quyền địa phương với nhau vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để.
Nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân của 3 cấp về
cơ bản vẫn giống nhau, được lặp lại gần như nguyên xi dù chúng được Pháp
lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mỗi
cấp quy định ở các chương khác nhau cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
2


lOMoARcPSD|11346942

dân mỗi cấp. Trong một cấp chính quyền địa phương, pháp luật cũng chưa có
sự phân biệt rõ ràng giữa cơ quan đại diện của nhân dân với cơ quan chấp
hành của cơ quan đại diện.

1.2 Căn cứ pháp lý
- Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), việc phân định chính
quyền địa phương ở nước ta về cơ bản vẫn giữ nguyên như Hiến pháp năm
1980.
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm (1994 và 2003).
1.3 Cấu trúc bộ máy
Theo Điều 4 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND và
UBND được tổ chức ở các đơn vị hành chính sau: (1) Tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); (2) Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (gọi chung là cấp huyện); (3) Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta được Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định tại chương IX là “HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN”, gồm 8 điều (từ Điều 118 đến Điều 125).
Điều 118
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành
chính do luật định.
Điều 119
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.
3



lOMoARcPSD|11346942

Điều 120
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Hội
đồng nhân dân ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng
cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn
nghĩa vụ đối với cả nước.
Điều 121
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân dân ở địa phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử
tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của
Hội đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện
pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động
viên nhân dân tham gia quản lý Nhà nước.
Điều 122
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án
nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và thủ trưởng các cơ quan thuộc
Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân trong
thời hạn do luật định.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan Nhà
nước ở địa phương. Người phụ trách cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu,
xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.
Điều 123
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm

chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
4


lOMoARcPSD|11346942

Điều 124
Uỷ ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy
định, ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân
dân.
Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân
dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và các văn bản
sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới; đình chỉ thi hành nghị quyết sai trái của
Hội đồng nhân dân cấp dưới, đồng thời đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi
bỏ những nghị quyết đó.
Điều 125
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn
thể nhân dân ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và
được mời tham dự hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có
liên quan.
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thơng báo tình
hình mọi mặt của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân động viên nhân dân cùng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, tơi đã thực hiện tìm hiểu về tình hình Việt Nam giai
đoạn 1992-2013, cở sở pháp lý quy định về chính quyền địa phương ở giai đoạn
này. Về cấu trúc bộ máy chính quyền địa phương giai đoạn 1992-2013 được quy
định tại Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001)

5


lOMoARcPSD|11346942

CHƯƠNG 2: SO SÁNH VỀ TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1992-2013 VÀ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thay đổi tên gọi
Hiến pháp năm 2013 đã đổi tên gọi của Chương từ “Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân” thành “Chính quyền địa phương”. Đây khơng thuần túy chỉ là
sự đổi tên, mà là kết quả tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 và 10
năm thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đồng thời là
kết quả của q trình đổi mới nhận thức về chính quyền địa phương bao gồm cả
về mơ hình tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo hướng bảo
đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân;
nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; khẳng
định rõ nét hơn vị trí, vai trị của chính quyền địa phương trong hệ thống hành
chính thống nhất, thơng suốt của một Nhà nước đơn nhất. Mặt khác, nếu Hiến
pháp năm 1992 xác định mỗi đơn vị hành chính các cấp đều có Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân, với một cách thức thành lập thống nhất thì Hiến pháp
năm 2013 đã lựa chọn cách quy định mở, giao cho Luật tổ chức chính quyền địa
phương thực hiện việc xác định lại cấp chính quyền theo hướng giảm cồng kềnh,
phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính, kinh tế
đặc biệt.

2.2. Về đơn vị hành chính
Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định: Các đơn vị hành chính của nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành
phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện, thị xã
và đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành
phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Như vậy, về cơ bản Hiến pháp
năm 2013 tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành
chính nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cấu trúc hành chính
ở nước ta; đồng thời có bổ sung thêm các quy định sau:
6


lOMoARcPSD|11346942

- Ở thành phố trực thuộc Trung ương, ngoài đơn vị hành chính có tính
truyền thống cịn có “đơn vị hành chính tương đương” với cấp quận, huyện, thị
xã. Đơn vị hành chính tương đương này có thể là thành phố trong thành phố trực
thuộc Trung ương như đề xuất của thành phố Hồ Chí Minh trong Đề án thí điểm
mơ hình chính quyền đơ thị. Quy định mang tính mở này tăng khả năng dự báo
và tính ổn định của Hiến pháp trong việc đáp ứng nhu cầu khách quan của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Bổ sung quy định “đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội
thành lập” nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện kinh
tế thị trường, khai thác tiềm năng kinh tế của một số địa phương nhất định. Thực
chất, vấn đề này cũng đã được quy định tại khoản 8 Điều 84 của Hiến pháp năm
1992 nhưng lại nằm ở Chương quy định về Quốc hội, chứ không phải ở Chương
quy định về chính quyền địa phương. Đây là quy định được bổ sung trên cơ sở ý
kiến đề xuất của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức,

các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm đáp ứng nhu cầu thiết lập các
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đang đặt ra ở một số địa phương như huyện
đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang, huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy,
khi xây dựng Luật tổ chức chính quyền địa phương cần phải tính tốn một cách
khoa học, thực tiễn và có quy định địa vị pháp lý riêng cho đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt này.
- Xuất phát từ quan điểm chủ quyền Nhân dân và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân, sự tham gia của Nhân dân vào việc xây dựng Nhà nước, bảo đảm
quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân đã được ghi nhận tại Điều 6 Hiến pháp
năm 2013 và bảo đảm tính ổn định các đơn vị hành chính, tránh tình trạng “nhập
- tách” có phần dễ dãi, thiếu căn cứ, tiêu chí minh bạch, cơng khai, khoản 2 Điều
110 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo
trình tự, thủ tục do luật định”.
2.3. Về tổ chức chính quyền địa phương

7


lOMoARcPSD|11346942

Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính quyền địa phương được
tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt do luật định”. Với quy định này, Hiến pháp năm 2013
khẳng định chính quyền địa phương được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính,
nhưng khơng phải ở tất cả các đơn vị hành chính, chính quyền địa phương cũng
được tổ chức giống nhau. Đồng thời, khơng phải chính quyền ở bất kỳ một đơn
vị hành chính nào cũng là một cấp chính quyền. Ở đâu được quy định là cấp
chính quyền thì chính quyền ở đó bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân

dân, Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra; còn ở đâu khơng
được quy định là cấp chính quyền thì sẽ có cơ quan hành chính thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính và dịch vụ cơng tại địa bàn; cơ quan hành chính này có
thể được thiết lập bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể do cơ quan hành chính
cấp trên quyết định thành lập, hay do Hội đồng nhân dân cấp dưới bầu, hoặc
theo cách thức khác. Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở
từng đơn vị hành chính cụ thể sẽ được quy định trong Luật tổ chức chính quyền
địa phương trên cơ sở tổng kết việc thực hiện chủ trương của Đảng về thí điểm
một số nội dung về tổ chức chính quyền đơ thị và kết quả tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết số 26 của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu tổ chức chính quyền địa
phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính,
kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương.
2.4. Về nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền địa phương
Hiến pháp năm 1992 khơng có điều khoản riêng quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương mà nội dung này được thể hiện thông
qua các quy định về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một điều mới (Điều 112) quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của chính quyền địa phương với nội dung như sau:

8


lOMoARcPSD|11346942

- Quy định cụ thể chính quyền địa phương có 02 loại nhiệm vụ: tổ chức
và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các
vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà
nước cấp trên. Như vậy, ở những nơi có cấp chính quyền thì những nhiệm vụ,
quyền hạn này do cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thực hiện, còn ở

những nơi khơng được xác định là cấp chính quyền thì nhiệm vụ, quyền hạn này sẽ
do một thiết chế hành chính thực hiện và chính quyền ở bất kỳ một cấp hành chính
nào cũng đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ
sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa
phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Đây là một quy định mang tính
định hướng quan trọng cho việc thực hiện quan điểm tổ chức và thực hiện quyền
lực có ảnh hưởng quyết định đến tổ chức bộ máy nhà nước ta “quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, đồng thời
đòi hỏi phải phân cấp thật rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa trung ương và
địa phương và mỗi cấp chính quyền.
- Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực
hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm
thực hiện nhiệm vụ đó. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng nhiều nhiệm vụ
của trung ương được giao cho địa phương thực hiện nhưng chỉ giao việc mà
không kèm theo các điều kiện (vật chất, nhân lực) để bảo đảm việc thực hiện
việc đó.
2.5. Về địa vị pháp lý của chính quyền địa phương
Về địa vị pháp lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ cụ
thể của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: So với Hiến pháp năm 1992,
địa vị pháp lý của chính quyền địa phương và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quy định trong Hiến pháp năm 2013
khơng có những thay đổi căn bản, nhưng quy định rõ hơn, cụ thể hơn. Theo đó,
Hội đồng nhân dân tiếp tục thực hiện hai loại chức năng: quyết định và giám sát
9


lOMoARcPSD|11346942


(quyết định những vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng
nhân dân). Đối với Ủy ban nhân dân thì Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa
phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Như vậy, ở những
đơn vị hành chính mà chính quyền ở đó khơng được coi là cấp chính quyền thì
việc thành lập cơ quan hành chính sẽ do luật định. Điều này sẽ tạo nên sự năng
động hơn trong việc thành lập cơ quan hành chính ở các đơn vị hành chính khác
nhau, bảo đảm phù hợp với thực tiễn. Về chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân
dân, khoản 2 Điều 114 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: “Ủy ban nhân
dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân” nhưng đồng thời có bổ sung nhiệm vụ:
“thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao”.
2.6. Về đại biểu hội đồng nhân dân
Về đại biểu Hội đồng nhân dân, cơ bản Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế
thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992 về đại biểu Hội đồng nhân dân.
Theo đó, đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chia, nguyện vọng
của Nhân dân địa phương; liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri,
thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội
đồng nhân dân, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận
động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước,
nghị quyết của Hội đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà
nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân,
các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân.
Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân
dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị ở địa phương.


10


lOMoARcPSD|11346942

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem
xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tôi đã thực hiện so sánh tổ chức chính quyền địa phương
giai đoạn 1992 – 2013 và giai đoạn hiện nay. Chính xác hơn là tơi đã đưa ra
những thay đổi về quy định chính quyền địa phương của Hiến pháp năm 1992 so
với Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý hiện nay. Những thay đổi trên là để
quy định rõ ràng hơn về trách nhiệm, quyền hạn và đặc biệt là phân cấp, phân
quyền trong chính quyền địa phương hiện nay.

11


lOMoARcPSD|11346942

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Thực hiện tổ chức hợp lý đơn vị hành chính
Thực hiện sắp xếp thu gọn các đơn vị hành chính trong thời gian tới phù
hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và bảo đảm tính bền vững, bên cạnh tiêu
chuẩn về diện tích, dân số, cần nghiên cứu bổ sung các tiêu chí về điều kiện địa
lý, yếu tố bảo đảm quốc phòng, an ninh,đặc thù lịch sử, truyền thống, văn hóa và
tạo thuận tiện cho người dân. Đồng thời, xem xét sửa đổicơ chế phân bổ nguồn
lực (biên chế cán bộ, công chức và tài chính - ngân sách) của trung ương vàquy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương sau khi sáp nhập, điều chỉnh địa

giới hành chính theo hướng khuyến khích nhập các đơn vị hành chính cùng cấp.
Về ngun tắc, một đơn vị hành chính có dân số đơng, diện tích lớn, kinh tế - xã
hội phát triển phải có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý phù hợp và được bố trí
nhiều biên chế cán bộ, công chức, viên chức hơn. Mặt khác, để khắc phục tình
trạng các tỉnh đều đề xuất xây dựng hoặc nâng cấp sân bay, tỉnh ven biển xây
dựng cảng biển, cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể quốc gia bảo đảm để lập quy
hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch
ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, quy hoạch đơ thị, quy hoạch nơng thơn trên cả nước; khuyến
khích liên kết và kết nối giữa các đơn vị hành chính cùng cấp để phát huy mọi
nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước; thí điểm sắp
xếp thu gọn đơn vị hành chính cấp tỉnh đối với những địa phương diện tích nhỏ,
có điều kiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tương đồng.
3.2. Thực hiện phân cấp, phân quyền rõ ràng, hợp lí hơn
Thiết lập cơ cấu tổ chức thích hợp với đầy đủ thẩm quyền và khả năng
quản lý, điều hành nhằm giúp trung ương các phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm luật pháp, kỷ cương nhà nước trên địa bàn. Đối với cấp huyện, với vị trí là
cầu nối giữa chính quyền cấp tỉnh và cấp cơ sở nên chức năng, nhiệm vụ cũng
như mơ hình tổ chức của cấp huyện không nhất thiết phải giống mô hình chính
quyền cấp tỉnh hay cấp xã. Chính quyền cấp xã chủ yếu là cấp chấp hành và tổ
12


lOMoARcPSD|11346942

chức thực hiện, có vai trị quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức tốt cuộc sống dân cư, do đó cần
tăng cường tính tự quản cho chính quyền xã để phát huy khả năng sáng tạo,
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền và nhân dân ở xã, đồng thời
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tự quản cộng đồng dân cư.

3.3. Xây dựng mơ hình chính quyền phù hợp với mỗi loại hình,
chức năng đơ thị
Đơ thị nói chung có những yếu tố đặc thù so với nông thôn như hạ tầng kỹ
thuật công cộng, hạ tầng xã hội phúc lợi công cộng và các vấn đề xã hội đặt ra
địi hỏi chính quyền đơ thị phải quản lý thống nhất, đồng bộ và liên thông quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và đời sống dân cư trên địa bàn đô thị, do vậy tổ
chức bộ máy, cơ chế, phương thức quản lý, thẩm quyền, trách nhiệm và chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền đơ thị phải có những đặc thù
nhất định so với chính quyền ở nơng thơn. Theo đó, cần nghiên cứu giảm cấp
trung gian trong hệ thống chính quyền đơ thị, nhất là đối với các thành phố trực
thuộc trung ương để bảo đảm mơ hình chính quyền đô thị thống nhất, liên thông,
hoạt động hiệu quả hơn, hướng đến mục tiêu gần dân, phục vụ nhân dân tốt hơn.
Theo đó, đối với các thị xã, thành phố thuộc tỉnh, không tổ chức HĐND phường,
xã, thị trấn, chỉ tổ chức các cơ quan hành chính thực hiện các nhiệm vụ theo cơ
chế tản quyền của chính quyền thị xã, thành phố.
Tăng cường phân quyền, phân cấp cho chính quyền đơ thị, bảo đảm cho
chính quyền đơ thị quyền tự chủ trong các lĩnh vực từ ngân sách, tài chính, tổ
chức bộ máy đến quản lý dân cư, bảo vệ mơi trường. Bên cạnh đó, với mỗi loại
đơ thị cần có mơ hình tổ chức chính quyền phù hợp, đảm bảo yêu cầu phát triển
của đô thị. Đối với các đô thị lớn hoặc khu vực lõi đã được phát triển hồn thiện
thì tổ chức bộ máy và sự trao quyền rộng rãi hơn để đơ thị có khả năng tự quyết
nhiều vấn đề phát triển và phức tạp như quy hoạch, hạ tầng và đất đai; các đô thị
quy mô nhỏ, tổ chức bộ máy tinh gọn và được giao tự chủ các vấn đề thấp hơn.

13


lOMoARcPSD|11346942

Để nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền đơ thị, nên thí

điểm cơ chế người dân bầu trực tiếp, trên cơ sở đó thiết lập mối quan hệ chặt chẽ
giữa người dân với người đứng đầu đô thị (thị trưởng) do chính người dân bầu
ra. Thẩm quyền và trách nhiệm của thị trưởng được quy định rõ ràng, cụ thể,
đồng thời tăng cường sự giám sát của HĐND và cơ quan có thẩm quyền cấp
trên, các tổ chức xã hội và cá nhân công dân đối với hoạt động của thị trưởng;
trong những trường hợp nhất định có thể thực hiện phương thức bỏ phiếu bất tín
nhiệm đối với thị trưởng. Giúp việc cho thị trưởng có các phó thị trưởng; trên cơ
sở quy mơ, loại hình đơ thị để quy định số lượng phó thị trưởng; phó thị trưởng
có thể nhân danh thị trưởng giải quyết công việc.
3.4. Nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
Cùng với việc hoàn thiện cơ chế chịu trách nhiệm tập thể của UBND
trong điều kiện người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
huyện, cấp tỉnh cũng là thành viên UBND, tức là số lượng thành viên UBND
tăng lên, cần xác định chế độ làm việc của UBND là chế độ thủ trưởng, UBND
được đặt dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của cá nhân.
Trong thực hiện thi quyền lực cũng như quản lý nhà nước ở địa phương,
do đặc thù của hoạt động quản lý, người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà
nước đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động của cơ
quan, tổ chức.
3.5. Đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, thành phố thơng minh
Cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng công nghệ
thông minh, kết nối và vận hành thông suốt các phần mềm quản lý tác nghiệp để
từng bước mở rộng việc cung cấp các loại hình dịch vụ cơng. Các bộ, ngành liên
quan và chính quyền cấp tỉnh chủ động rà soát, bổ sung ban hành kịp thời các
quy định để hoàn thiện cơ sở pháp lý và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tintrong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công như quy định về
quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu; định danh và xác thực điện tử cho cá nhân, tổ
chức; thực hiện thủ tục hành chính trên mơi trường điện tử, làm cơ sở để chính
quyền các cấp chuyển từ hình thức làm việc giấy tờ sang điều hành, xử lý công
14



lOMoARcPSD|11346942

việc trên môi trường điện tử; nâng cao tỷ lệ tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính
dịch vụ cơng mức độ 3, mức độ 4 của, góp phần tích cực đẩy mạnh cải cách
hành chính, cơng khai, minh bạch, chống nhũng nhiễu, phiền hà, phục vụ người
dân, doanh nghiệp ngày càng tốt hơn.Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn người
dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến và giao tiếp với cơ quan nhà
nước tại địa phương thông qua hệ thống chính quyền điện tử. Đầu tư phát triển
hạ tầng kỹ thuật, các nền tảng dùng chung, cơ sở dữ liệu của các ngành để xây
dựng chính quyền điện tử. Bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho các
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đáp ứng yêu cầu triển khai chính quyền điện tử
tại địa phương.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, tôi đã thực hiện đề xuất một số giải pháp nhằm cải cách
chính quyền địa phương Việt Nam hiện nay. Những giải pháp, đề xuất trên
nhằm phân cấp, phân quyền được quy định rõ ràng hơn. Đồng thời đẩy mạnh
xây dựng chính quyền điện tử, thành phố thông minh.

15


lOMoARcPSD|11346942

KẾT LUẬN
Tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn 1992-2013 có
những thay đổi vơ cùng tích cực. Đây là thời kỳ Việt Nam có những bước tiến
lớn về hội nhập và những quy định về phân cấp, phân quyền, quy định rõ ràng
hơn về thẩm quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân. Dựa trên căn cứ pháp lý

là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân (năm 1994 và 2003).
Thực hiện so sánh chính quyền địa phương Việt Nam giai đoạn 19922013 với giai đoạn hiện nay đã có những sự thay đổi rõ rệt về căn cứ pháp lý và
cấu trúc bộ máy. Giai đoạn hiện nay nước ta đang có những chuyển biến về kinh
tế, công nghệ để sánh vai với các nước. Hiện nay chính quyền đơ thị đang tích
cực được xây dựng và ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong hoạt động quản lý
đang được áp dụng phổ biến.
Ở chương 3, tôi thực hiện đề xuất để cải cách chính quyền địa phương
Việt Nam giai đoạn hiện nay.

16


lOMoARcPSD|11346942

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Đăng Dung (2001), Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa

phương, Hà Nội.
2.

/>
cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-Viet-nam-38238.aspx
3.

/>
song.aspx?ItemID=49928&CateID=0


17



×