Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Trình bày khái quát lịch sử địa giới đơn vị hành chính của việt nam từ năm 1975 đến nay khái quát về lịch sử đơn vị hành chính mà anh (chị) sinh sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.14 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH HỌC


TÊN ĐỀ TÀI
Trình bày khái quát lịch sử địa giới đơn vị hành chính của Việt Nam từ
năm 1975 đến nay. Khái quát về lịch sử đơn vị hành chính mà Anh (Chị)
sinh sống
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: QUẢN LÝ ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH
Mã phách:………………………………….(Để trống)

Kiên Giang – 2021
MỤC LỤC


2

Nội dung

Trang

Mục lục

02

I-MỞ ĐẦU

03

1. Lý do chọn đề tài



03

2. Mục đích nghiên cứu

03

3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

03

4. Phương pháp nghiên cứu

03

5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu

04

II-NỘI DUNG

04

1-Khái niệm

04

2-Quy định pháp luật về điều chỉnh địa giới hảnh chính

06


2.1-Nguyên tắc và thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính

06

2.2-Một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục

08

điều chỉnh địa giới hành chính
3-Lịch sữ địa giới hành chính ở nước ta thời gian qua

10

3.1-Địa giới hành chính cấp tỉnh

11

3.2-Địa giới hành chính cấp huyện

12

3.3-Địa giới hành chính cấp xã

12

4-Một số nguyên nhân dân đến việc điều chỉnh địa giới hành

13


chính
5-Một số đề xuất, kiến nghị đối với việc quản lý địa giới hành

16

chính

20

6-Lịch sữ địa giới hành chính xã Vĩnh Phước A huyện Gị Quao
tỉnh Kiên Giang.

22

III. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
I-PHẦN MỞ ĐẦU


3

1. Lý do chọn đề tài

Dân tộc Việt Nam đã trãi qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Để
có được những thành quả như hơm nay, Cơng tác quản lý địa giới hành chính
được thực hiện khá tốt. Việc chia tách, sáp nhập các địa phương được Chính
phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện đúng theo quy định, phân cấp quản lý. Trong

công tác quản lý nhà nước về đất đai thì cơng tác quản lý địa giới hành chính
là hết sức quan trọng, đây là lĩnh vực mang tính chất chính trị và chiến lượt
trong phát triển kinh tế - xã hội. Do tầm quan trọng của nó, việc quản lý địa
giới hành chính là rất quan trọng, cần phải phân tích rõ.
Vì vậy bản thân chọn chủ đề: “Trình bày khái quát lịch sử địa giới đơn
vị hành chính của Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Khái quát về lịch sử đơn
vị hành chính mà Anh (Chị) sinh sống” để nghiên cứu và phân tích.
2. Mục đích và nhiệm vụ nhiên cứu

Qua nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận quản lý địa
giới hành chính. Khái quát lịch sử địa giới đơn vị hành chính Việt Nam và xã
Vĩnh Phước A huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động quản lý địa giới hành chính, khái quát
lịch sử đơn vị hành chính của Việt Nam từ năm 1975 đến nay và lịch sữ địa
giới hành chính xã Vĩnh Phước A huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang.


4

4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu thực hiện đề tài là phương pháp
nghiên cứu tài liệu và phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nhằm nâng cao hiệu quả trong cơng tác quản lý địa giới hành chính.
Nhìn nhận tầm quan trọng của việc quản lý địa giới hành chính, tìm ra những
ưu điểm và khuyết điểm trong cơng tác quản lý địa giới hành chính. Kiến nghị

một số giải pháp đóng góp trong quản lý địa giới hành chính. Tạo động lực
phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội được phát triển bền vững và chú
trọng hơn.
II-PHẦN NỘI DUNG
1-Khái niệm
Địa giới hành chính là Đường ranh giới phân chia các đơn vị hành chính
được đánh dấu bằng các mốc địa giới, là cơ sở pháp lý phân định phạm vi
trách nhiệm của bộ máy hành chính nhà nước các cấp trong việc quản lý dân
cư, đất đai, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Mốc địa giới hành chính được cắm ở những nơi dễ thấy trên thực địa và
được biểu thị đầy đủ trên bản đồ địa giới hành chính.
Sự ổn định của địa giới hành chính là một trong những yếu tố cơ bản bảo
đảm sự ổn định của bộ máy nhà nước. Những căn cứ để xác định địa giới
hành chính thường là: diện tích đất đai, dân số, các mối quan hệ chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phòng, dân tộc, lịch sử, truyền thống,
tập quán và tình cảm của dân cư địa phương.
Việc điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc
thẩm quyền của Quốc hội; việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc thẩm quyền của Chính phủ.


5

Hiện nay nước ta được chia thành 4 cấp hành chính là: cấp trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Giữa các đơn vị hành chính các cấp này đều có
ranh giới được thực hiện bằng các mốc địa giới có tọa độ của vị trí các mốc
đó.
Việc xác định địa giới hành chính được quy định tại Điều 16, Luật Đất
đai 2003 như sau: Chính phủ chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, lập và
quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp trong phạm vi cả nước. Bộ Nội vụ

quy định về trình tự, thủ tục xác định địa giới hành chính, quản lý mốc địa
giới và hồ sơ địa giới hành chính. Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về
kỹ thuật và đinh mức kinh tế trong việc cắm mốc địa giới hành chính, lập hồ
sơ địa giới hành chính các cấp. Uỷ ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện
việc xác định địa giới hành chính trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính
trong phạm vi địa phương.
Như vậy, chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, quản lý mốc địa giới
hành chính và hồ sơ địa giới hành chính trong tồn quốc (khơng phân biệt ở
cấp nào) là nhiệm vụ của Chính phủ.
Chính phủ trực tiếp tổ chức thực hiện việc xác định các mốc địa giới
hành chính trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính của các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trực tiếp tổ chức thực hiện việc xác định các mốc địa giới hành chính
trên thực địa, lập hồ sơ địa giới hành chính của các huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh trong địa bàn mình quản lý.
Uỷ ban nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trực tiếp
tổ chức thực hiện việc xác định các mốc địa giới hành chính trên thực địa, lập
hồ sơ địa giới hành chính của các xã, phường, thị trấn trong địa bàn mình
quản lý.


6

Tuy nhiên, số mốc, trình tự, thủ tục để xác định các mốc địa giới hành
chính trong hồ sơ là do Bộ Nội vụ quy định. Đồng thời, Bộ Nội vụ còn quy
định về quản lý các mốc địa giới hành chính và hồ sơ địa giới hành chính. Bởi
lẽ một mốc địa giới hành chính bao giờ cũng giáp ít nhất 2 đơn vị hành chính
nên phải có quy định cụ thể để một mốc địa giới hành chính chỉ giao cho một
đơn vị hành chính trực tiếp quản lý. Có như vậy mới tránh được tình trạng
"cha chung khơng ai khóc" tức là một mốc địa giới hành chính do nhiều đơn

vị hành chính cùng quản lý có thể sẽ trở thành không ai quản lý. Theo quy
định của Bộ Nội vụ về số mốc địa giới hành chính, Bộ Tài ngun và Mơi
trường quy định về kỹ thuật để xác định toạ độ các mốc địa giới hành chính
và quy định về định mức kinh tế khi thực hiện xác định các mốc đó và lập hồ
sơ địa giới hành chính.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, ngoài các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng, vấn đề ổn định lâu
dài hệ thống đơn vị hành chính các cấp được đặt ra là một nhiệm vụ tương đối
cấp bách và có ý nghĩa quan trọng.
2.Quy định pháp luật về điều chỉnh địa giới hành chính
Điều chỉnh địa giới hành chính là cụm từ thường được dùng chung cho
việc thành lập, giải thể, sáp nhập, chia tách, điều chỉnh địa giới, đổi tên đơn vị
hành chính của cấp có thẩm quyền. Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã ban
hành một số văn bản pháp luật quy định về việc điều chỉnh địa giới hành
chính. Tuy nhiên cho đến nay, có những văn bản quy định về tiêu chuẩn, điều
kiện, trình tự, thủ tục điều chỉnh địa giới hành chính ban hành đã nhiều năm,


7

do vậy nhiều nội dung, quy định đã khơng cịn phù hợp, không đáp ứng yêu
cầu quản lý trong thực tiễn.
2.1- Nguyên tắc và thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính
Từ năm 2013 trở về trước, việc điều chỉnh địa giới hành chính ở nước ta
tuân thủ theo Hiến pháp 1992 và các luật, văn bản dưới luật có liên quan.
Theo Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
các đơn vị hành chính được phân định như sau:

“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện và thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc
tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường”.
Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt”.
Chính phủ có thẩm quyền: “Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn
vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thơng qua bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013, theo
đó các đơn vị hành chính được phân định như sau:
“Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành
huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia
thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương; Huyện chia
thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã;
quận chia thành phường. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội
thành lập”.


8

Quốc hội có thẩm quyền: “thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt”.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thẩm quyền: “Quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương”.
Chính phủ có nhiệm vụ: “Trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội

quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Hiến pháp 2013 cũng quy định rõ việc thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và
theo trình tự, thủ tục do luật định.
Như vậy, thẩm quyền về điều chỉnh địa giới hành chính đối với cấp tỉnh
vẫn do Quốc hội quyết định nhưng thẩm quyền điều chỉnh địa giới hành chính
cấp huyện, cấp xã đã được nâng lên, do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết
định chứ khơng phải do Chính phủ quyết định như trước đây nữa. Quy định
này giúp cho việc điều chỉnh địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã được tiến
hành chặt chẽ hơn, chính xác hơn, dân chủ hơn và đặc biệt sẽ giảm thiểu việc
điều chỉnh địa giới hành chính như thời gian qua.
2.2- Một số văn bản quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục điều
chỉnh địa giới hành chính
Ngày 31/01/1979, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng ban hành Thông tư số 19BT về việc điều chỉnh địa giới các huyện, xã và các đơn vị tương đương thuộc
các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Thông tư đã quy định các
nguyên tắc, tiêu chuẩn về chia lại địa giới huyện, xã và kế hoạch tiến hành.


9

Theo đó, việc điều chỉnh địa giới hành chính phải bảo đảm sự đồn kết và tơn
trọng truyền thống của nhân dân các dân tộc, bảo đảm sự chỉ đạo của cơ quan
chính quyền được sát dân, sát cơ sở, nhạy bén, kịp thời và thuận tiện cho việc
xây dựng lực lượng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự
xã hội; bảo đảm điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa,
phát triển phúc lợi tập thể và tổ chức đời sống của nhân dân một cách văn
minh. Việc chia lại huyện, xã và các đơn vị tương đương phải nắm vững tiêu
chuẩn về diện tích và số dân, bảo đảm sự phù hợp với cơ sở vật chất, kỹ thuật
và trình độ quản lý của cán bộ. Khi cần sáp nhập huyện, xã phải nhập cả đơn

vị, không xé lẻ các xã, thơn, xóm ấp. Đồng thời, Thơng tư đã quy định cụ thể
quy mơ diện tích tự nhiên và dân số theo loại hình đơn vị hành chính: huyện,
quận, thị xã, thành phố, xã, thị trấn, phường, tiểu khu và theo các vùng, miền
trên cả nước.
Ngày 12/9/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
số 64b/HĐBT về điều chỉnh địa giới hành chính đối với những huyện, xã có
địa giới chưa hợp lý. Quyết định số 64b/HĐBT đã có những quy định cụ thể
hơn về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục điều chỉnh địa giới hành chính cấp
huyện, cấp xã và cho đến nay (hơn 30 năm), vẫn đóng vai trị là văn bản tham
chiếu, vận dụng chủ yếu khi các địa phương đề nghị điều chỉnh địa giới hành
chính cấp huyện, cấp xã.
Ngày 26/9/1981, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số
94/HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy chính quyền cấp
phường đã quy định phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ
chức theo khu vực dân cư ở đường phố, có khoảng 7.000 đến 12.000 dân.
Ngày 06/11/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số
364-CT về giải quyết những tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành
chính tỉnh, huyện, xã. Theo đó, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong công tác


10

giải quyết tranh chấp là hiệp thương thỏa thuận giữa cấp ủy, chính quyền các
địa phương có liên quan; cấp có thẩm quyền chỉ xem xét, ban hành các quyết
định giải quyết trong trường hợp cấp ủy, chính quyền các địa phương liên
quan hiệp thương, thỏa thuận khơng có kết quả.
Thông tư số 832/TCCP-ĐP ngày 25/10/1993 của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất đai có liên
quan đến địa giới hành chính các cấp trong tổ chức thực hiện Chỉ thị số 364CT ngày 06/11/1991.
Quyết định số 12/2008/QĐ-BTNMT ngày 18/12/2008 của Bộ trưởng Bộ

Tài nguyên và Môi trường ban hành "Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân
định địa giới hành chính và lập hồ sơ địa giới hành chính các cấp".
Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ về thành
lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn. Nghị định đã quy định
cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, trình tự lập, thẩm định hồ sơ thành lập thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, quận, phường, thị trấn.
Ngày 15/6/2012, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 02/2012/TT-BNV
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 62/2011/NĐ-CP ngày
26/7/2011 của Chính phủ về thành lập thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận,
phường, thị trấn.
3.Lịch sữ địa giới hành chính ở nước ta thời gian qua:
Nhìn lại lịch sử, việc tổ chức các đơn vị hành chính - lãnh thổ dưới các
triều đại phong kiến ở Việt Nam có nhiều biến động cả về quy mơ và tên gọi
các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính dưới cấp trung ương có tên gọi
và vị trí khác nhau trong hệ thống hành chính các cấp như châu, quận, đạo, lộ,
phủ, thừa tuyên, dinh, tỉnh, huyện, giáp, hương, trấn, tổng, lý, xã,..) tùy theo
từng giai đoạn. Cho đến năm 1832, vua Minh Mạng triều Nguyễn đã chia lại
đất nước thành 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Sau khi Việt Nam giành được


11

độc lập tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, theo
Hiến pháp năm 1946, đất nước được chia làm ba Bộ: Bắc Bộ, Trung Bộ, và
Nam Bộ. Giai đoạn 1945 - 1946, nước ta có 65 tỉnh. Năm 1975, Miền Nam
được giải phóng, đất nước thống nhất và đến năm 1976, nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 35 tỉnh và 3
thành phố trực thuộc Trung ương. Cho đến tháng 6/2013, Việt Nam có 58
tỉnh, 5 thành phố trực thuộc Trung ương; 60 thành phố thuộc tỉnh, 46 thị xã,
47 quận, 550 huyện; 634 thị trấn, 1.461 phường, 9.052 xã. (Nguồn: Vụ Chính

quyền địa phương).
3.1. Địa giới hành chính cấp tỉnh
Năm 1989 có thể được xem như khởi đầu của việc các tỉnh được chia
tách, tái lập như: tỉnh Nghĩa Bình tách thành 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định;
tỉnh Phú Khánh tách thành 2 tỉnh Phú n, Khánh Hịa; tỉnh Bình Trị Thiên
tách ra làm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế.
Tiếp theo, đến năm 1991: tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hà Tây,
Hồ Bình; tỉnh Hà Nam Ninh tách ra thành 2 tỉnh Nam Hà, Ninh Bình; tỉnh
Hà Tuyên tách ra thành 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang; tỉnh Hoàng Liên Sơn
tách ra thành 2 tỉnh Lào Cai, Yên Bái; tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra thành 2 tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh; tỉnh Gia Lai-Kon Tum tách ra thành 2 tỉnh Gia Lai, Kon
Tum; tỉnh Thuận Hải tách ra thành 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận; tỉnh Cửu
Long tách ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh. Thành lập tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, đồng thời giải thể Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo.
Năm 1996, các tỉnh lại được tiếp tục chia tách: tỉnh Bắc Thái tách ra
thành 2 tỉnh Bắc Cạn, Thái Nguyên; tỉnh Hà Bắc tách ra thành 2 tỉnh Bắc
Giang, Bắc Ninh; tỉnh Nam Hà tách ra thành 2 tỉnh Hà Nam, Nam Định; tỉnh
Hải Hưng tách ra thành 2 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên; tỉnh Vĩnh Phú tách ra
thành 2 tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc.


12

Năm 1997: tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách ra thành thành phố Đà Nẵng
và tỉnh Quảng Nam; tỉnh Sông Bé tách ra thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình
Phước; tỉnh Hậu Giang tách ra thành 2 tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng; tỉnh Minh
Hải tách ra thành 2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau.
Năm 2004: tỉnh Lai Châu tách ra thành 2 tỉnh Lai Châu và Điện Biên;
tỉnh Đắk Lắk tách ra thành 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông; tỉnh Cần Thơ tách ra
thành thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang.

Ngày 29/5/2008, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Nghị
quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh
có liên quan, theo đó hợp nhất tồn bộ tỉnh Hà Tây, chuyển toàn bộ huyện Mê
Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hịa Bình về thành
phố Hà Nội.
Hiện nay, Việt Nam có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương: Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phịng, Đà Nẵng, Cần Thơ.
3.2. Địa giới hành chính cấp huyện
Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986, các đơn vị hành chính cấp
huyện ở nước ta được điều chỉnh trên cơ sở sáp nhập lại nhưng đến giai đoạn
từ 1986 đến nay, các đơn vị hành chính cấp huyện lại được điều chỉnh chủ yếu
theo hướng chia tách và nâng cấp thành đô thị.
Từ năm 1996 đến năm 2006, chỉ trong vòng 10 năm, số đơn vị hành
chính cấp huyện đã tăng từ 574 đơn vị lên 673 đơn vị (tăng thêm 99 đơn vị
hành chính cấp huyện). Số đơn vị hành chính cấp huyện tăng mạnh ở loại
hình thành phố thuộc tỉnh, quận và huyện, riêng thị xã có giảm do nâng cấp
một số thị xã lên thành phố thuộc tỉnh. Thành phố thuộc tỉnh có số lượng tăng
gần gấp ba lần từ 15 thành phố năm 1996 lên 43 thành phố năm 2006 và số
quận tăng gấp hai lần từ 21 quận lên 43 quận, các huyện đã tăng thêm 68 đơn
vị. Đến tháng 6/2011, số đơn vị hành chính cấp huyện đã tăng lên 698 đơn vị,


13

và đến tháng 6/2013, Việt Nam có 703 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm
60 thành phố thuộc tỉnh, 46 thị xã, 47 quận, 550 huyện như vậy (so với cuối
năm 2006 đã tăng thêm 30 đơn vị).
3.3. Địa giới hành chính cấp xã
Từ khi nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, đến cuối
những năm 80 và đầu những năm 90, do yêu cầu phân bố lại cơ cấu kinh tế –

xã hội, tạo ra và phục hồi các trung tâm kinh tế – văn hố, xã hội, ngồi ra, do
khả năng, điều kiện quản lý hạn chế nên có xu hướng chia tách các xã, nhất là
từ năm 1996 việc chia tách các đơn vị hành chính cấp xã đã diễn ra tương đối
nhiều.
Tại thời điểm 01/01/1996 cả nước có 10.221 đơn vị hành chính cấp xã
(8.862 xã, 856 phường, 503 thị trấn). Đến thời điểm 31/12/2006 có 10.929
đơn vị hành chính cấp xã (9.102 xã, 1.230 phường, 597 thị trấn). Như vậy, số
lượng đơn vị hành chính cấp xã đã tăng 708 đơn vị trong 10 năm. Đến tháng
6/2013, số lượng đơn vị hành chính cấp xã là 11.147 (9.052 xã, 1.461 phường,
634 thị trấn). Trong vòng 7 năm, số lượng đơn vị hành chính cấp xã tăng 218
đơn vị, so với giai đoạn 1996 – 2006, tốc độ tăng đã giảm đi nhưng số lượng
vẫn gia tăng đáng kể.
Qua nhiều nghiên cứu, khảo sát cho thấy có lẽ Việt Nam là quốc gia duy
nhất trên thế giới có tình trạng biến động về đơn vị hành chính nhiều và liên
tục như trong mấy chục năm qua. Từ các nước phát triển đến các nước chậm
phát triển, các nước có diện tích lớn, dân số đông đến các nước nhỏ, đều rất ít
biến động về hệ thống đơn vị hành chính các cấp. Việc thay đổi, nếu có,
thường là sáp nhập các đơn vị hành chính nhỏ lại hoặc mở rộng, hình thành
các đô thị mới theo hướng giảm bớt số đơn vị hành chính. Điều này ngược lại
với ở Việt Nam, các đơn vị hành chính thường được chia tách, xé nhỏ ra dẫn
đến số lượng đơn vị hành chính ngày càng tăng lên.


14

4. Một số nguyên nhân dẫn đến việc điều chỉnh địa giới hành chính
Thực tế cơng tác quản lý cho thấy việc điều chỉnh địa giới các đơn vị
hành chính xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có thể liệt kê
một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Do diện tích rộng và dân số đơng (căn cứ chủ yếu theo các tiêu chí quy

định trong Quyết định 64b/HĐBT). Tuy nhiên, một số tỉnh miền núi phía Bắc,
miền Trung, Tây Nguyên tuy diện tích tự nhiên của đơn vị hành chính q
rộng, khơng quản lý được xin chia tách nhưng dân số lại rất thấp so với quy
định. Một số quận, phường chia tách thì tuy dân số đơng nhưng diện tích lại
q nhỏ, cũng khơng tn thủ theo đúng quy định.
- Việc chia tách huyện, xã do nguyên nhân lịch sử. Các huyện, xã độc lập
trước khi được nhập lại thành huyện, xã mới muốn được tái lập như cũ.
- Sự khác biệt và khó khăn về địa hình (núi non hiểm trở, sơng rạch
chằng chịt) của các vùng, miền gây ra những khó khăn trong cơng tác quản lý
của chính quyền, sản xuất và sinh hoạt, đời sống của nhân dân.
- Q trình đơ thị hóa diễn ra nhanh, đòi hỏi các địa phương phải thành
lập mới đơn vị hành chính đơ thị, hoặc mở rộng, nâng cấp các đô thị.
- Yêu cầu khác về phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc
phịng trong tình hình mới nên việc tổ chức các đơn vị hành chính cần thiết
phải thay đổi theo.
Tuy nhiên, ngoài những nguyên nhân chủ yếu như đã nêu trên đây, cịn
có các ngun nhân khác sâu xa hơn, tác động không nhỏ đến việc điều chỉnh
mà chủ yếu là chia tách các đơn vị hành chính, đó là:
- Về mặt nhận thức, chưa có những nghiên cứu tổng thể, quy hoạch có
tính chiến lược tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ. Chậm đánh giá, tổng kết
tác động của việc chia tách, thành lập mới các đơn vị hành chính, nhất là
huyện và xã là cấp có biến động đơn vị hành chính nhiều nhất. Chưa xuất phát


15

từ việc xem xét hiệu quả phân bổ các nguồn lực của cả quốc gia để phân định,
điều chỉnh đơn vị hành chính. Chưa quan tâm đến tầm kiểm sốt của Chính
phủ, chính quyền các cấp, đến trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức
địa phương. Các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất của các cơ quan nghiên cứu

khoa học về ảnh hưởng, tác động của điều chỉnh địa giới hành chính chưa
được thể chế vào các văn bản hiện hành để hạn chế tối đa việc thành lập đơn
vị hành chính mới. Các tiêu chí về địa lý nhân văn, địa lý tự nhiên, tài chính
cũng chưa được nghiên cứu, đặt ra khi xây dựng những quy định về điều
chỉnh địa giới hành chính cũng như chia tách, thành lập đơn vị hành chính.
- Chưa xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật, kỹ thuật đầy đủ,
đồng bộ phù hợp điều kiện thực tế trong quản lý tạo cơ sở pháp lý để chỉ đạo
việc chia tách, thành lập, điều chỉnh và quản lý đơn vị hành chính các cấp.
Trong cơng tác tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ và quản lý địa giới hành
chính, cịn thiếu quy hoạch tổng thể các đơn vị hành chính mang tính dài hạn.
Các văn bản quy định của Nhà nước về công tác quản lý các đơn vị hành
chính lãnh thổ và địa giới hành chính chưa rõ và cụ thể, chưa phù hợp với yêu
cầu quản lý trong tình hình mới. Đặc biệt, Quyết định 64b/HĐBT ban hành
ngày 12/9/1981 về điều chỉnh địa giới đối với huyện, xã có địa giới hành
chính chưa hợp lý ra đời đã lâu, khơng cịn phù hợp với hiện tại nhưng chưa
được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nên các địa phương vẫn vận dụng để đề
nghị chia tách.
- Khi xây dựng phương án điều chỉnh địa giới hành chính, nhiều nơi các
cấp chính quyền thường chưa phân tích, đánh giá kỹ, cụ thể các mặt được và
chưa được của phương án (tổ chức, nhân sự, nguồn vốn đầu tư, …) đối với
mỗi đơn vị hành chính mới để báo cáo với cấp có thẩm quyền ở địa phương
để nghiên cứu cân nhắc trước khi quyết định chủ trương chính thức. Có
những đề án điều chỉnh địa giới hành chính mà mục đích chưa rõ ràng, số liệu


16

chưa chính xác, các yếu tố đảm bảo cho tính khả thi của phương án chưa đầy
đủ nhưng vẫn được đề nghị.
- Cơ chế phân bổ nguồn lực công không theo đầu người mà theo đơn vị

hành chính như hiện nay đã dẫn đến các địa phương muốn điều chỉnh, chia
tách đơn vị hành chính để được đầu tư hoặc có thêm biên chế, tổ chức và các
lợi ích khác.
Đây là nguyên nhân được nhiều địa phương cho là nguyên nhân chính
dẫn đến việc chia tách đơn vị hành chính. Chính vì chính sách đầu tư của
Nhà nước cịn cào bằng đối với tất cả các loại hình đơn vị hành chính: Việc
đầu tư cơ sở hạ tầng nơng thơn cũng như đầu tư phát triển kinh tế – xã hội còn
dàn trải, chia đều cho mỗi địa phương; chưa có sự phân biệt về mơ hình chính
quyền đơ thị - nơng thơn, chưa có sự khác biệt về chính sách đối với những
huyện, xã có dân số đơng, diện tích rộng cũng được đầu tư giống như những
huyện, xã có diện tích nhỏ, dân số ít… dẫn đến các địa phương muốn tách
nhỏ đơn vị hành chính để được hưởng đầu tư của Nhà nước.
- Một nguyên nhân cũng khơng kém phần quan trọng đó là trình độ, năng
lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền địa phương ở nhiều nơi nói
chung và trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương nói
riêng (đặc biệt đối với cấp xã) cịn yếu, chưa đáp ứng kịp yêu cầu trong thời
kỳ mới, do vậy việc điều chỉnh, chia tách những đơn vị hành chính có diện
tích rộng, dân số đơng cũng được coi là một biện pháp có hiệu quả thay vì áp
dụng các biện pháp khác như cơ chế đầu tư, chính sách tài chính, tăng cường
cán bộ, chính sách tiền lương,..
5. Một số đề xuất, kiến nghị đối với việc quản lý địa giới hành chính
Hiện nay, việc quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc thẩm
quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được quy định trong Hiến pháp 2013.


17

Như vậy trong thời gian tới cần nhanh chóng thể chế hóa quy định hiến định
này trong các văn bản luật và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để quy

định này sớm được triển khai áp dụng.
Cần khẩn trương nghiên cứu xây dựng một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật, quy định kỹ thuật mới để thay thế các văn bản quy định cũ,
ban hành cách đây nhiều năm, khơng cịn phù hợp đối với cơng tác quản lý
địa giới hành chính. Đặc biệt cần sớm xây dựng và ban hành một văn bản quy
phạm pháp luật có tính tồn diện, bao qt thay thế Quyết định 64b/HĐBT
ngày 12/9/1981, trong đó quy định rõ ràng và chặt chẽ các tiêu chí, điều kiện,
quy trình, thủ tục hồ sơ… và trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan, tổ
chức xây dựng đề án, thẩm định, quyết định thành lập mới, giải thể, sáp nhập,
chia tách, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính các cấp.
Hiến pháp 2013 đã quy định rõ việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và theo
trình tự, thủ tục do luật định. Do vậy, trước khi quyết định việc điều chỉnh địa
giới hành chính cần phải lấy ý kiến nhân dân rộng rãi thay vì trước đây chỉ lấy
ý kiến cử tri hoặc đại diện hộ gia đình ở thôn, tổ dân phố liên quan đến việc
điều chỉnh địa giới hành chính.
Mỗi đơn vị hành chính đều gắn liền với một bộ phận dân cư nhất định,
mà cuộc sống của họ được bảo đảm bởi các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra
trên địa bàn đơn vị hành chính đó. Bất cứ sự thay đổi nào về địa giới đơn vị
hành chính đều kèm theo sự thay đổi về những điều kiện tự nhiên - xã hội
nhất định, gây nên những xáo trộn, khó khăn nhất định cho người dân địa
phương, cũng như tạo ra những trở ngại nhất định trong việc phục vụ nhân
dân, quản lý hành chính của bộ máy chính quyền nhà nước. Do đó, mọi việc
thay đổi, điều chỉnh địa giới hành chính cần phải do người dân quyết định,
phải được sự đồng tình của người dân. Cần phải coi sự đồng tình, ủng hộ của


18

người dân là vấn đề có tính ngun tắc trong việc xác lập, điều chỉnh đơn vị

hành chính. Điều đó cần phải được thực hiện bằng các hình thức dân chủ trực
tiếp như trưng cầu ý dân, hội nghị toàn dân… để được người dân được trực
tiếp quyết định theo đa số. Cần khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, chiếu
lệ, hoặc áp đặt theo ý muốn chủ quan của lãnh đạo. Việc điều chỉnh địa giới
hành chính là một trong những công việc hệ trọng nhất của địa phương cũng
như của đất nước, không thể được quyết định chỉ thơng qua các hình thức dân
chủ đại diện như nghị quyết của Hội đồng nhân dân hay của cấp ủy Đảng địa
phương. Trên thế giới việc điều chỉnh các đơn vị hành chính nói chung đều
được quyết định bởi ý chí, nguyện vọng người dân địa phương theo hình thức
trưng cầu dân ý và được quy định trong Hiến pháp của mỗi quốc gia. Đối với
Việt Nam cũng cần phải sớm áp dụng nguyên tắc này nếu muốn xây dựng và
phát triển một nền dân chủ thực sự, mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Ổn định lâu dài hệ thống đơn vị hành chính các cấp, hết sức hạn chế
việc điều chỉnh đơn vị hành chính đã có và chỉ điều chỉnh trong trường hợp
bất khả kháng, khơng cịn cách nào khác để thay thế. Cần khắc phục và đi đến
chấm dứt tình trạng cứ mỗi khi có sự gia tăng dân số, tăng trưởng kinh tế,
thậm chí cả khi có sự bất đồng, mất đồn kết trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý địa phương hay chỉ vì một số lý do khác là tìm đến giải pháp chia tách
đơn vị hành chính. Mặt khác cũng khơng nên cho rằng các đơn vị hành chính
cùng cấp phải tương đương nhau về quy mơ diện tích, dân số, từ đó cứ đơn vị
hành chính có quy mơ lớn là muốn chia tách ra để cho ngang bằng với các
đơn vị hành chính cùng cấp khác.
Để giữ ổn định cơ bản hệ thống đơn vị hành chính các cấp, có thể thực
hiện các giải pháp như:
- Ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về phân bổ
nguồn vốn đầu tư phát triển, phân bổ ngân sách chi thường xuyên, tổ chức bộ


19


máy, biên chế cán bộ, công chức và tiền lương, phụ cấp… thích hợp với từng
loại hình đơn vị hành chính.
- Thay đổi phương thức phân bổ các chương trình đầu tư phát triển của
Trung ương, của chính quyền cấp tỉnh như xây dựng các bệnh viện, trạm xá,
trường học, nhà văn hoá, bưu điện, trạm cấp nước sạch …ở các khu vực đông
dân cư, không phân biệt địa giới đơn vị hành chính nhằm phục vụ dân cư theo
vùng, khu vực. Phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho các đơn vị hành
chính căn cứ chủ yếu vào kết quả đầu ra, tức là căn cứ vào số lượng và chất
lượng dịch vụ hành chính cơng cung ứng cho người dân, tổ chức; thực hiện
khốn chi hành chính.
- Đổi mới phân cấp về tài chính - ngân sách theo hướng tăng quyền chủ
động ngân sách cho chính quyền địa phương các cấp, đảm bảo thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí. Quy định số lượng tổ chức và biên chế cán bộ, công
chức cũng như số chức danh lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan đảng, chính
quyền, đồn thể của các đơn vị hành chính tùy thuộc chủ yếu vào quy mơ dân
số, diện tích và số lượng đơn vị hành chính trực thuộc. loại hình đơn vị hành
chính; khắc phục triệt để tình trạng bình quân chủ nghĩa.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện thông tin, liên lạc, điều
kiện làm việc cho các đơn vị hành chính có diện tích lớn, dân số đơng, điều
kiện tự nhiên và kinh tế không thuận lợi. Đối với các đơn vị hành chính cấp
huyện, cấp xã có diện tích lớn, dân cư đơng hoặc có địa hình tự nhiên khó
khăn, cần thiết đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng các thị tứ, trung tâm dịch
vụ thương mại hoặc khu đô thị đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các khu
vực trên địa bàn đơn vị hành chính.
- Đẩy mạnh cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức địa phương. Tăng cường việc thu hút nhân tài, trí
thức trẻ về cơng tác tại các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Có chế độ,


20


chính sách hỗ trợ, khuyến khích hợp lý cho các địa phương có hồn cảnh kinh
tế – xã hội khó khăn.
- Tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập các “cơ cấu mềm” như các ban
chỉ đạo, hội đồng, dự án… liên xã, liên huyện, liên tỉnh để giải quyết các vấn
đề phát sinh trong quá trình quản lý lãnh thổ, phát triển kinh tế và nâng cao
chất lượng, hiệu quả cung ứng dịch vụ cơng.
Cần sớm có các nghiên cứu về vấn đề địa danh hành chính. Hiện nay có
rất ít các cơng trình nghiên cứu về vấn đề đặt tên, đổi tên các đơn vị hành
chính. Mặt khác, trong thực tế công tác quản lý đã gặp khó khăn khi đề xuất
tên gọi phù hợp, được nhân dân, xã hội đồng tình, chấp thuận cho các đơn vị
hành chính được thành lập mới. Những đơn vị hành chính muốn thay đổi tên
gọi hoặc những đơn vị hành chính cùng cấp nhưng trùng tên gọi trong một
tỉnh, những đơn vị hành chính có tên gọi là chữ số muốn thay đổi thành tên
địa danh,... đều chưa có quy định cụ thể về quy trình, thủ tục, cấp thẩm quyền
quyết định. Theo quy định tại Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Nội vụ thì Bộ Nội vụ có nhiệm vụ trình Chính phủ ban hành các quy
định về đổi tên đơn vị hành chính các cấp, đổi tên đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt trực thuộc Trung ương. Do vậy, cần sớm nghiên cứu về vấn đề địa
danh hành chính để cung cấp luận cứ khoa học, xây dựng các văn bản quản lý
trong lĩnh vực này.
6-Lịch sữ đơn vị hành chính xã Vĩnh Phước A huyện Gị Quao tỉnh
Kiên Giang.
Trải qua q trình lịch sữ, Vĩnh Phước có những thay đổi về địa giới
hành chính:
Năm 1945 xã có 7 ấp là Phước Trung A, Phước Trung B, Phước Trung
C, Phước Hưng, Phước Thới, Phước Hòa, Phước Hiệp.



21

Năm 1947 nhập thêm 2 ấp: Phước Lộc (khu nhà thờ An Bình) và Phước
Thuận (Sóc Sâu).
Năm 1948 nhập thêm 1 ấp Phước Thọ từ Phước Thành đến Cầu Đúc của
xã Vĩnh Hòa Hưng. Đến năm 1959, Vĩnh Hòa giao Phước An (tức Vĩnh An 1,
Vĩnh An 2) cho Vĩnh Tuy và đến năm 1963 Vĩnh Tuy giao lại cho Vĩnh
Phước.
Ngày 30-8-1957 Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định số
280-BNV/HC/NĐ lập xã Vĩnh Tân gồm ấp Vĩnh An 1, Vĩnh An 2, Vĩnh Lợi,
Phước Hòa, Phước Hiệp.
Sau tổng tiến công năm 1968, Vĩnh Phước chia ra thành xã Vĩnh Phước
A-Vĩnh Phước B, xã Vĩnh Phước A gồm 5 ấp: 6,7,8,9,10. Sau giải phóng nhập
lại, đến tháng 11/1975, xã Vĩnh Phước A, Vĩnh Phước B sáp nhập lại thành xã
Vĩnh Phước gồm 9 ấp Phước An, Phước Lợi, Phước Hịa, Phước Bình, Phước
Thọ, Phước Thành, Phước Trung, Phước Hưng và Phước Thới. Đến ngày 27
tháng 9 năm 1984 chia Vĩnh Phước ra làm 2 xã Vĩnh Phước và Phước Tân
(các ấp Cù lao). Đến 24 tháng 5 năm 1988 sáp nhập xã Phước Tân và 2 ấp của
Vĩnh Phước (Phước Thành, Phước Thọ) và 1 ấp An phú của xã Định An thành
xã Vĩnh Phước (Vĩnh Phước có 8 ấp với 7.020 ha diện tích tự nhiên), thành
lập Thị trấn Gò Quao (3 ấp còn lại của Vĩnh Phước).
Riêng xã Vĩnh Phước từ tháng 5 năm 1997 chia ra thành xã Vĩnh Phước
A, Vĩnh Phước B. Vĩnh Phước A (Phước Tân cũ) có diện tích 4.198 ha.
Đến nay Vĩnh Phước A là xã Cù Lao của huyện Gị Quao, tỉnh Kiên
Giang. Xã có vị tri1 đặc biệt hơn các xã trong huyện, được bao bọc bởi 2 con
sơng Cái Lớn và Cái Tàu, Phía Bắc giáp Thị trấn Gị Quao, Phía Nam giáp xã
Vĩnh Bình Bắc huyện Vĩnh Thuận, Phía Đơng giáp xã Vĩnh Phước B, phía
Tây giáp xã Hịa Chính huyện U Minh Thượng. Xã gồm 9 ấp (gồm Phước
Hịa, Phước Hiệp, Phước Bình, Phước Tân, Phước Thạnh, Phước An, Phước



22

Lợi, Phước Minh, Bùi Thị Thêm), có diện tích tự nhiên 4450,24 ha, có 61 tổ
nhân dân tự quản, tổng số hộ 2.145 hộ (năm 2021), dân số 8.279 khẩu.
III-KẾT LUẬN
Tóm lại, Trên đất nước Việt Nam anh hùng, bất cứ nơi nào cũng đều
mang lại chung truyền thống tốt đẹp, nhưng mỗi vùng đất lại có nét riêng về
địa lý, lịch sữ, nhân văn của nó. Nhà nước phân cấp quản lý địa giới hành
chính là một tất yếu khách quan. Việc quản lý nhà nước thời gian qua thực
hiện khá tốt. Các địa phương ít có tranh chấp địa giới hành chính. Việc chia
tách, sáp nhập xã, huyện, tỉnh đúng theo quy định của Chính phủ, từ đó phát
huy được vai trị của chính quyền cấp cơ sở trong việc quản lý địa giới hành
chính của đơn vị mình.


23

TÀI LIỆU THAM THẢO

1-Giáo trình quản lý địa giới hành chính.
2-Cổng thơng tin điện tử của Chính phủ.
3-Thơng tư 48/2014/TT-BTNMT ngày 22/08/2014 của Bộ tài nguyên và Môi
trường
4-Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013
5-Nghị định 119/NĐ-CP.
6-Truyền thống xã Vĩnh Phước A anh hùng.




×