HỌC VIỆN CƠNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG
BỘ MƠN PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
BÀI THI CUỐI KỲ
KỸ NĂNG THUYẾT TRÌNH
Tên sinh viên: Nguyễn Văn Huy
Mã sinh viên: B19DCVT178
Nhóm lớp học: 17
Số điện thoại: 0392336499
HÀ NỘI, THÁNG 12/2021
Câu 1. Trong thuyết trình cần lưu ý gì khi đặt câu hỏi giao lưu với khán giả?
Bài làm:
*Khi đặt câu hỏi cho thính giả cần phải chú ý:
- Đặt câu hỏi để khuyến khích sự tham gia của thính giả một cách chủ động.
- Nội dung câu hỏi phải gắn với phần nội dung bạn vừa trình bày
- Câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu và khơng quá khó. Chiến lược đặt câu hỏi là đi từ dễ
đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng.
- Khi hỏi thính giả nên có sự gợi mở
- Kiểm sốt tốt câu hỏi
- Động viên khi thính giả trả lời đúng.
- Hỏi và chuẩn bị câu trả lời cho câu hỏi đó.
Câu 2. Viết chuyên đề: “Sinh viên với mạng xã hội”.
Bài làm:
Vấn đề chung về mạng xã hội
Những năm gần đây, mạng xã hội đã có bước phát triển mạnh mẽ, tác động lớn đến
đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mạng xã
hội đã trở thành một thuật ngữ phổ biến với những tính năng đa dạng cho phép người
dùng kết nối, chia sẻ, tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả. MXH đã và
đang là một phần của đời sống xã hội ở Việt Nam. Trong thời đại công nghệ phát triển,
sự xuất hiện của mạng xã hội mang đến nhiều lợi ích, tính năng, là nguồn cung cấp
thông tin phong phú, tác động mạnh mẽ đến thế hệ sinh viên.
Để tìm hiểu về đặc điểm cũng tác động của mạng xã hội, trước hết chúng ta cần phải
hiểu mạng xã hội là gì? Mạng xã hội có thể hiểu là hệ thống thơng tin cung cấp cho
cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia
sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thơng tin điện tử cá nhân,
diễn đàn, trị chuyện trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ
tương tự khác. Mạng xã hội cịn là tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân, nhóm cá
nhân, tổ chức trên mơi trường internet. Chính vì thế, mạng xã hội có thể coi là một loại
hình cộng đồng song mang tính chất ảo, trong đó bao gồm nhiều cộng đồng trực tuyến
khác nhau nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người. Một số
mạng xã hội sử dụng phổ biến ở Việt Nam như Facebook (mạng xã hội phổ biến nhất
hiện nay ở nước ta với gần 76 triệu người dùng), Instagram (mạng xã hội chia sẻ hình
ảnh), Youtube (mạng xã hội chia sẻ video), Zalo…dễ dàng tạo tài khoản và truy cập
vào ứng dụng trên điện thoại hoặc máy tính.
Mạng xã hội thường có các đặc điểm sau:
- Mạng xã hội là ứng dụng trên nền tảng Internet
- Nội dung trên mạng xã hội là do người dùng sáng tạo và chia sẻ
- Người dùng tạo ra tài khoản, hồ sơ cá nhân phù hợp cho ứng dụng được duy trì
trên nền tảng mạng xã hội
- Mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của cộng đồng xã hội trên mạng
bằng cách kết nối tài khoản của người dùng với tài khoản của các cá nhân, tổ
chức khác.
Thực trạng sử dụng mạng xã hội của sinh viên
Mạng xã hội ngày càng trở nên phổ biến và có vai trị quan trọng trong các hoạt động
xã hội. Nhất là đối với sinh viên, nó đã trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống. Sự
phát triển ồ ạt của nhiều mạng xã hội khiến sinh viên càng có cơ hội tham gia vào thế
giới thơng tin với kết nối rộng lớn, cùng lúc tiếp cận với nhiều hệ tư tưởng và giá trị
sống khác nhau. Mạng xã hội như một
luồng gió mới đầy những sáng tạo và bất
ngờ, với những tính năng đa dạng, nguồn
thơng tin phong phú, nó cho phép người
dùng sáng tạo, tiếp nhận, chia sẻ, chọn lọc
thơng tin một cách có hiệu quả vượt qua
trở ngại về không gian và thời gian, vượt
qua khoảng cách giữa các thế hệ. Mạng
xã hội giúp nâng cao vai trị của mỗi cơng
dân trong việc tạo lập quan hệ và tổ chức
xoay quanh những mối quan tâm chung
trong những cộng đồng thúc đẩy sự liên
kết các tổ chức xã hội. Do chức năng đa dạng, sự tăng nhanh về số lượng người dùng,
mạng xã hội có tác động thay đổi nhiều thói quen cũ và hình thành những biểu hiện
mới về tư duy, lối sống, văn hóa…của sinh viên – một bộ phận chiếm số lượng lớn
trong những người sử dụng.
Theo thống kê có 100% sinh viên sử mạng
xã hội, với tần suất sử dụng là 2h/ngày. Một
bộ phận sinh viên rất biết tận dụng tối đa
nguồn tài nguyên vô hạn từ các trang mạng
xã hội để đề cao tên tuổi, đầu tư kinh doanh
và kiếm được không ít lợi nhuận từ các
mạng xã hội Facebook, Youtube, Tiktok…
chính những danh từ “hot face”
,”streamer”…bắt nguồn từ đây. Bên cạnh đó
khơng ít các hành động đẹp bắt nguồn từ
mạng xã hội, như các trang fanpage cộng
đồng nhằm kêu gọi sự ủng hộ giúp đỡ, gây
quỹ hỗ trợ bà con gặp khó khăn, khắc phục
thiên tai ở miền trung…đã thu hút được rất nhiều người tham gia và ủng hộ.
Cập nhật thông tin và trao đổi thông tin trong học tập là việc mà sinh viên thực hiện
thường xuyên thông qua mạng xã hội, đặc biệt là mạng xã hội Facebook. Facebook có
các tính năng tích hợp thuận tiện cho việc trao đổi thông tin học tập trực tuyến (Video
call, Messenger, Group,..). Với các tính năng đó, việc trao đổi thơng tin học tập hoặc
theo dõi các bài giảng từ giảng viên khơng cịn là trở ngại lớn, nghĩa là cơng nghệ
khiến mơ hình phịng học truyền thống thay đổi về bản chất cũng như cách thức kiến
thức được truyền thụ cho người học. Đại dịch COVID-19 là một minh chứng rõ nét
nhất về việc trao đổi thông tin học tập thông qua các nền tảng mạng xã hội mà
Facebook cũng không ngoại lệ. Khi đại dịch COVID-19 bùng nổ trong năm 2020, việc
học tập theo mô hình truyền thống bị tạm hỗn do tình trạng lây lan dịch bệnh. Liên
quan trực tiếp đến học tập, Facebook có thể cung cấp tính năng tìm kiếm, chia sẻ tài
liệu học tập hiệu quả cho sinh viên. Facebook giúp cho sinh viên tiếp cận và chọn lọc
các nội dung tài liệu học tập với nhu cầu của mình. Với sự tiện ích của Facebook việc
các sinh viên dễ dàng tiếp cận nguồn tài liệu mở và các chuyên gia trong lĩnh vực mà
họ quan tâm dễ dàng hơn trước đây. Bên cạnh việc tìm kiếm, chia sẻ tài liệu học tập,
việc trao đổi thông tin học tập trên Facebook cũng trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn.
Ngoại trừ một số tính năng đặc thù (ví dụ: tính năng hỗ trợ học trực tuyến chỉ được sử
dụng nhiều gần đây trong thời gian dịch
bệnh Covid-19), Facebook được sinh
viên sử dụng như một phương tiện hỗ
trợ hữu hiệu trong hầu hết các mục đích
quan trọng liên quan đến học tập như:
cập nhật thơng tin về việc học; tìm hiểu
về các khóa học; tìm kiếm tài liệu; trao
đổi với bạn bè về việc học; học nhóm;
… Đáng chú ý là, những mục đích có
liên quan đến tương tác với giáo viên
(trao đổi thông tin với giáo viên, học
trực tuyến với giáo viên) đều có tỷ lệ
thấp hơn tương đối rõ rệt. Điều này
phần nào cho thấy, sinh viên cảm thấy thoải mái, thuận tiện hơn khi sử dụng Facebook
chủ yếu cho những hoạt động mang tính cá thể hoặc có tương tác với bạn bè; đồng
thời, rất có khả năng một bộ phận giảng viên đại học cũng chưa dành nhiều sự quan
tâm tới việc tương tác trực tiếp với sinh viên qua mạng xã hội này. Các trang mạng xã
hội nói chung và Facebook nói riêng đều có các tính năng hỗ trợ trong việc nghiên cứu
khoa học. Người dùng sử dụng kết hợp hai nền tảng Google Forms và Facebook để
thực hiện khảo sát và đưa ra được những số liệu nhanh chóng trên quy mơ mẫu nghiên
cứu lớn. Điều này giúp các nhà khoa học và những người tham gia nghiên cứu tiết
kiệm được thời gian, công sức, chi phí.
Ngồi ra, sinh viên có thể giới thiệu về tính cách, sở thích, quan điểm của bản thân
trên các trang mạng xã hội, chúng ta có thể
gặp gỡ, trị chuyện với tất cả mọi người trên
thế giới có cùng sở thích quan điểm. Nó có
thể giúp sinh viên tìm kiếm được cơ hội để
phát triển khả năng của bản thân. Sau những
giờ học, và làm việc căng thẳng, mỗi chúng
ta cần bày tỏ và cần nhận được sự chia sẻ để
cảm thấy bớt áp lực, giảm stress…
Chúng ta không thể phủ nhận những mặt tích
cực của mạng xã hội đã mang đến cho con người, tuy nhiên nó chứa đựng khơng ít tiêu
cực ảnh hưởng về lối sống, học tập của một bộ phận sinh viên Việt Nam. Internet ảnh
hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Nguyên do là một số sinh viên chưa
có nhận thức sâu sắc, muốn thể hiện bản thân trên mạng các trang mạng xã hội. Hơn
nữa, một lượng lớn thông tin khơng có nguồn gốc chính thống, chưa được kiểm duyệt,
nhằm mục đích nói xấu, bơi nhọ người khác, hoặc kích động, phản động… làm xơn
xao dư luận, gây mất an toàn xã hội. Internet ngày càng phát triển, xuất hiện những
trang web đen đăng trai những nội dung dung tục, thơng tin sai lệch và văn phẩm hóa
đồ trụy. Đối tượng của những trang web này hướng tới chính là giới trẻ, làm ảnh
hưởng không nhỏ đến tâm, sinh lý và là nguyên nhân chính ảnh hưởng tới lối sống
thiếu lành mạnh, buông thả của một bộ phận thanh niên.
Việc sử dụng mạng xã hội có thể giao lưu kết bạn với nhiều người ở trên toàn thế giới,
chỉ cần ngồi trước màn hình có thể tâm sự, chia sẻ vui buồn với người ở rất xa. Chính
vì tiện ích này, thời gian dành cho những mối quan hệ thật sẽ ít đi, những cuộc gặp gỡ
ngồi đời với bạn bè để đi chơi, ôn lại kỷ niệm không cịn, từ đó những tình cảm chân
thật dần bị phai nhạt.
Một tình trạng đáng lo ngại ở giới trẻ
hiện nay chính là nghiện mạng xã hội.
Việc đầu tư quá nhiều thời gian vào các
trang mạng xã hội dễ làm cho người ta
quên đi mục tiêu thực sự của cuộc sống.
Thay vì chú tâm vào việc tìm kiến thức
để phục vụ cho việc học tập thì một số
bạn trẻ chăm chú để trở thành “anh hùng
bàn phím”, tạo nên các chiêu trị để câu
like, nổi tiếng trên mạng. Mạng xã hội
góp phần tăng sự ganh đua, sự cạnh tranh không ngừng dẫn tới những mâu thuẫn
khơng đáng có ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Sử dụng mạng xã hội liên tục ảnh hưởng
đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống. Nhiều bạn trẻ sẵn sàng thức đêm chỉ vì đam mê
các game online, việc duy trì thói quen xấu này sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng
cho sức khỏe và tinh thần.
Do đó, bên cạnh phát huy những mặt tích cực của mạng xã hội thì cần loại bỏ và ngăn
chặn những mặt tiêu cực của nó. Với sinh viên cần biết tận dụng nguồn tài nguyên vô
hạn trên Internet và mạng xã hội để hoàn thiện, tạo tiền đề để phát triển khả năng của
bản thân.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng mạng xã hội đối với sinh viên
Thứ nhất, tăng cường quản lý, giáo dục từ gia đình và nhà trường. Để có thể quản lý,
giáo dục, hướng dẫn việc sử dụng mạng xã hội cho sinh viên hướng đến những hành vi
và lối sống tốt đẹp, có ích cho bản thân và cộng đồng, đầu tiên, nền tảng đạo đức, lối
sống của gia đình, ảnh hưởng của mơi trường sống, trình độ nhận thức về văn hóa xã
hội của người lớn… là những nhân tố quan trọng giúp giới trẻ sử dụng mạng xã hội
một cách tích cực. Từ phía các bậc cha mẹ, thầy cơ cũng phải cần có sự hiểu biết về
mạng xã hội, cần biết sử dụng mạng xã hội với những tiện ích của nó cho cơng việc,
cho giải trí lành mạnh, không nên phê phán bừa bãi hay chỉ lên án những tiêu cực của
mạng xã hội mà cấm đoán giới trẻ. Từ phía nhà trường cũng cần có những fanpage thú
vị nhằm tạo sân chơi trên mạng xã hội lành mạnh và mang tính định hướng cho sinh
viên. Những trang này phải do nhà trường trực tiếp đứng ra điều hành và kiểm duyệt
tin.
Thứ hai, nâng cao tính định hướng của
truyền thơng. Tại Việt Nam, mạng xã hội đã
sở hữu một số lượng thành viên khổng lồ
mà chủ chốt là sinh viên, điều này không
chỉ ảnh hưởng đến thị trường công chúng
của báo chí truyền thống mà trách nhiệm
của các cơ quan quản lý và cơ quan báo chí
càng nặng thêm.
Thực tế hiện nay, những người tham gia
vào diễn đàn mạng xã hội khơng phải ai
cũng có kiến thức, trình độ và văn hóa nhất
định. Một khi diễn đàn mạng xã hội chưa trung thực, hoặc “sạch” theo đúng nghĩa thì
nhóm cơng chúng là sinh viên rất dễ bị hoang mang, kích động. Để nhóm cơng chúng
sinh viên có những nhận thức đúng đắn, không hiểu sai, bị kẻ xấu lợi dụng, báo chí
truyền thống phải đứng ra làm “quan tịa” phân xử, giúp định hướng thông tin cho sinh
viên trong các cuộc tranh luận trên mạng xã hội.
Thêm vào đó, cần nâng cao nghiệp vụ của phóng viên, nhà báo khi tham gia mạng xã
hội. Họ cần hiểu rõ nhu cầu và những mối quan tâm hàng đầu của cơng chúng nói
chung và nhóm sinh viên nói riêng. Từ
đó, cung cấp những nội dung thơng tin
mang tính định hướng cho nhóm đối
tượng này.Thứ ba, xây dựng và hoàn
thiện khung pháp lý cho mạng xã hội.
Cần kiên quyết xây dựng khung pháp lý
và thi hành một cách chuẩn mực về tiêu
chuẩn thông tin trên MXH, loại trừ bằng
được những trường hợp lan truyền “tin
giả”. Việc xây dựng khung pháp lý cho
các trang tin của mạng xã hội không chỉ
bảo vệ giá trị cho báo chí chính danh, mà cịn thanh lọc mơi trường truyền thơng, giảm
thiểu tình trạng nhiễu tin tức như hiện nay. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần
phải có những quy định rõ ràng về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và nội
dung thông tin trên mạng, chế tài xử phạt những hành vi chia sẻ thông tin sai sự thật
trên mạng xã hội, gây xôn xao dư luận. Kiên quyết loại bỏ những trang mạng xã hội,
trang web gây nhiễu loạn dư luận xã hội, đề cao trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội.
Mạng xã hội đã mang lại rất nhiều lợi ích cho con người, vì nó giúp thế giới “phẳng
hơn, nhỏ hơn, gần hơn”. Qua đó sinh viên nhận biết, tiếp thu, nâng cao được tầm hiểu
biết, tri thức, kiến thức. Có lẽ đây là một đặc trưng quan trọng của xã hội hiện đại – xã
hội thông tin mà mạng xã hội chỉ là một trong những công cụ. Trong xã hội thông tin
này, nếu sinh viên biết cách nắm vững những cơng cụ hữu ích, sẽ vững bước hội nhập
vào thế giới toàn cầu. Suy cho cùng, mỗi cá nhân đều có quyền và điều kiện để lựa
chọn cộng đồng sống cho mình. Sống ảo hay sống thực, bạn ảo hay bạn thực, gia đình
ảo hay gia đình thực,... hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân.