Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Vai tro cua hormone sinh duc trong doi song con nguoi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA SINH HỌC
CHUYÊN NGÀNH SINH HỌC THỰC NGHIỆM
HƯỚNG SINH LÝ ĐỘNG VẬT

Bài báo cáo chuyên đề

VAI TRÒ CỦA HORMONE SINH DỤC
TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI

Giảng viên: GS. TS. VŨ THỊ NHUNG
Học viên: LÊ THÚY HẰNG
LÊ THỊ TƯỜNG VI

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2015


1

Mục lục:
CHƢƠNG 1. TUỔI DẬY THÌ ................................................................... 2
1.1.

KHÁI QUÁT ..................................................................................... 2

1.2.

CHU KÌ KINH NGUYỆT CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA TRỤC HẠ ĐỒI –

TUYẾN YÊN – BUỒNG TRỨNG ............................................................................. 3


1.2.1. Hạ đồi ......................................................................................... 4
1.2.2. Follicle-stimulating Hormone (FSH) và Luteinizing Hormone
(LH) là 2 cách trả lời khác nhau của vùng trước tuyến yên . ........................ 6
1.2.3. Buồng trứng là tầng dưới cùng của trục, là cơ quan thực thi các
mục đích bảo tồn loài của cơ thể ................................................................... 8
1.3.

TRỤC HẠ ĐỒI – TUYẾN YÊN – TINH HOÀN ..................................... 26

1.3.1. Hạ đồi ....................................................................................... 26
1.3.2. Tuyến yên ................................................................................. 26
1.3.3. Tinh hoàn ................................................................................. 26
CHƢƠNG 2. TUỔI TRƢỞNG THÀNH ................................................. 29
2.1.

VAI TRÒ VÀ ỨNG DỤNG CỦA MỘT SỐ HORMONE SINH DỤC Ở NỮ .. 29

2.1.1. Vai trò và ứng dụng của estrogen ............................................ 29
2.1.2. Vai trò và ứng dụng của Human Chorionic Gonadotropin
(HCG)

.................................................................................................. 33

2.1.3. Vai trò và ứng dụng của progesterone..................................... 35
2.2.

VAI TRÒ VÀ ỨNG DỤNG CỦA HORMONE SINH DỤC NAM –

TESTOSTERONE ................................................................................................. 38


2.2.1. Vai trò của testosterone ........................................................... 38
2.2.2. Ứng dụng của testosterone....................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 42


2

CHƢƠNG 1.
TUỔI DẬY THÌ
1.1. Khái qt
Tuổi dậy thì là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn, với những
sự phát triển thay đổi về mặt tâm – sinh lí mà cụ thể là tuổi dậy thì ở bé gái được
bắt đầu là từ khi có kinh nguyệt ngày đầu tiên còn bé trai là từ khi bị xuất tinh
(mộng tinh) lần đầu tiên, thể hiện bắt đầu có khả năng sinh sản.
Biểu hiện chung ở tuổi dậy thì ở trẻ:
-

Nữ giới xuất hiện những đường cong cơ thể, núm vú phát triển, nở to
hơn, tròn hơn

-

Nam giới cơ thể vạm vỡ, xương phát triển, cao lớn hơn.

-

Nữ giới bắt đầu thấy có kinh nguyệt cịn nam giới thì bị mộng tinh (bắt
đầu xuất tinh, xuất tinh trong lúc ngủ). [14], [15]

-


Cả nam và nữ đều nhanh chóng phát triển về chiều cao.

-

Cả nam và nữ tuổi dậy thì đều bắt đầu mọc lơng mu, con trai thì mọc
thêm râu.

-

Tâm lí ở tuổi dậy thì thay đổi bất thường

 Bình thường, tuổi dậy thì ở mỗi người trai và gái là khác nhau, độ tuổi dậy
thì được coi là bình thường khi:
-

Bé trai độ tuổi dậy thì bình thường rơi vào độ tuổi 12 – 17 tuổi

-

Bé gái có độ tuổi dậy thì bình thường rơi vào độ tuổi 10 – 15 tuổi

 Tuổi dậy thì khơng bình thường ở trẻ
Dậy thì sớm:
-

Bé trai: gọi là dậy thì sớm khi các bé trai dậy thì sớm trước 9 tuổi.

-


Bé gái: gọi là dậy thì sớm khi các bé gái dậy thì sớm trước 8 tuổi.

Dậy thì muộn:
-

Bé trai: gọi là dậy thì muộn khi qua tuổi 17 mà chưa dậy thì, chưa xuất
tinh.


3

-

Bé gái: gọi là dậy thì muộn khi qua tuổi 15 mà các bé gái chưa thấy
kinh nguyệt

Khởi động hiện tƣợng dậy thì:
Khởi đầu hiện tượng dậy thì là sự tăng cao GnRH. Neurokinin B có thể giữ
vai trị điều khiển sự tiết Kisspeptin là một hợp chất chịu trách nhiệm trực tiếp
trong sự khởi động phóng thích GnRH, gián tiếp trong sự phóng thích FSH và
LH của tuyến n. GnRH cịn được tăng cao nhờ chất Leptin có thụ thể nằm ở
vùng hạ đồi tổng hợp GnRH. Leptin là chất nội tiết sản xuất từ mơ mỡ và có đích
đầu tiên là vùng hạ đồi, do đó người mập có nồng độ leptin cao có khả năng dễ
dậy thì sớm.

1.2. Chu kì kinh nguyệt chịu ảnh hƣởng của trục Hạ đồi – Tuyến
yên – Buồng trứng
Toàn bộ hoạt động của buồng trứng chịu sự chi phối của trục Hạ đồi –
Tuyến yên – Buồng trứng.
Đây là một hệ trục dọc, với cơ quan chi phối ở tầng cao nhất là hạ đồi, trong

mối liên quan mật thiết của nó với các khu vực khác của hệ thần kinh trung ương.
Tuyến yên là một tầng trung gian quan trọng, là cầu nối giữa hạ đồi với cơ
quan tầng thấp là buồng trứng. Tuy nhiên, tuyến yên không chỉ là một địa chỉ
chuyển tiếp của các mệnh lệnh từ vùng hạ đồi, mà nó là một cơ quan có vai trị
điều phối và kiểm soát mọi hoạt động của buồng trứng. [1]


4

Hình 1.1. Trục Hạ đồi – Tuyến yên – Buồng trứng [17]
Buồng trứng là cơ quan tầng dưới cùng của trục, là nơi tiếp nhận các mệnh
lệnh từ các tầng cao nhất của trục, và kiểm soát ngược lại các hoạt động chi phối
mình của các cơ quan tầng trên thông qua các feed-back của các hormone
steroid.
Trục hạ đồi – tuyến yên là trục bảo đảm hoạt động bình thường của buồng
trứng nội - ngoại tiết. Rối loạn ở bất cứ tầng nào của trục cũng sẽ dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng trong chức năng sinh lý của buồng trứng nội - ngoại tiết.
1.2.1.

Hạ đồi

Hạ đồi là một vùng tập trung rất nhiều nhân xám ở nền sọ, là một vùng não
cổ, hoạt động của nó thơng qua việc phóng thích các chất trung gian dẫn truyền
thần kinh, bằng các mối liên lạc trực tiếp.
Vùng hạ đồi phụ trách mối quan hệ với buồng trứng là nhân cung. Nhân
này phóng thích gonadotropin-releasing hormone, một hormone polypeptid có
thời gian bán hủy rất ngắn, vào hệ thống mạch cửa nối trực tiếp nhân cung của hạ
đồi và một địa chỉ chuyên biệt ở thùy trước tuyến yên.
Đặc điểm của họat động phóng thích GnRH này là hormone này được
phóng thích thành từng xung. Chỉ có các xung GnRH mới có thể kích thích tuyến

yên đáp ứng với hạ đồi. Ngược lại, việc hiện diện liên tục với nồng độ cao của
GnRH sẽ gây ức chế hoàn toàn hoạt động của tuyến yên. Tùy theo từng thời điểm


5

khác nhau mà hạ đồi phóng thích GnRH theo nhịp điệu khác nhau. Tùy theo nhịp
điệu phóng thích GnRH mà tuyến n đáp ứng khơng giống nhau với kích thích
GnRH của hạ đồi.
Gonadotropin-releasing hormone, như tên gọi của nó, là một hormone có
chức năng kích thích hoạt động chế tiết hormone hướng tuyến sinh dục của tuyến
yên. Các xung GnRH hạ đồi kích thích tuyến yên sản xuất gonadotropin. GnRH
ngoại sinh dạng xung (đưa vào cơ thể bằng bơm GnRH) cũng cho tác dụng tương
tự.
Ngược lại, việc đưa vào cơ thể GnRH ngoại sinh một cách liên tục sẽ dẫn
đến trước tiên là một hiệu ứng “flare-up” - tăng đột ngột gonadotropin - nối tiếp
ngay sau đó bằng một tình trạng giảm sút về zero của sản xuất gonadotropin
tuyến yên, được gọi là hiện tượng giải mẫn cảm tuyến yên (Down-regulation), ức
chế hoàn toàn hoạt động sản xuất gonadotropin của tuyến yên. Có thể xem đây
như là một thao tác “cắt tuyến yên nội khoa” dùng trong những trường hợp mong
muốn triệt tiêu hoàn toàn nguồn cung cấp gonadotropin nội sinh.
Hoạt động chế tiết GnRH của hạ đồi chịu ảnh hưởng của nhiều tác nhân
thần kinh - dịch thể từ vỏ não như Ephedrine hay các chất Dopaminergic…
GnRH là một decapeptid, được tạo thành bởi 10 amino acid. GnRH gắn kết
với các thụ thể protein trên màng tế bào. GnRH có thời gian bán hủy cực ngắn
trong huyết tương. Trong vòng dưới 10 phút, GnRH đã bị hủy hơn một nửa.
Điểm nhạy cảm của chuỗi 10 aa này là Glycin ở vị trí thứ 6 và Glycin-NH2
ở vị trí thứ 10. Peptidase sẽ tấn cơng vào các vị trí này và nhanh chóng làm bất
hoạt GnRH. Nếu thay thế Glycin 6 bằng một aa khác bền hơn với peptidase,
người ta thu được các phân tử có tác dụng như GnRH, nhưng có thời gian bán

hủy rất dài, lên đến 7-8 giờ. Các sản phẩm này được gọi là các chất Đồng vận với
GnRH (Agonist of gonadotropin Releasing Hormone, viết tắt GnRH-a). Người ta
cũng có thể có một thay thế khác thực hiện ở vị trí aa thứ 10, Glycin-NH2, cũng
cho tác dụng tương tự. [17]


6

Các GnRH-a có những chỉ định điều trị quan trọng trong nhiều lĩnh vực như
hỗ trợ sinh sản (IVF), trị liệu ung thư (vú, tiền liệt tuyến) và một số vấn đề khác
của phụ khoa…

Hình 1.2. GnRH là một decapeptid, được tạo thành bởi 10 amino acid
Vùng trước tuyến yên tiếp nhận các xung GnRH đến từ hạ đồi qua hệ thống
mạch máu cửa hạ đồi - yên.
1.2.2.

Follicle-stimulating Hormone (FSH) và Luteinizing Hormone

(LH) là 2 cách trả lời khác nhau của vùng trước tuyến yên .

Hình 1.3. Tuyến yên tiết FSH và LH

Tùy theo tính chất của các xung GnRH mà vùng trước tuyến yên sẽ đáp
ứng ưu tiên bằng FSH hay bằng LH. Đáp ứng với ưu thế FSH quan sát thấy trong
pha noãn của chu kỳ buồng trứng, khi tần số các xung GnRH là một xung mỗi 90


7


phút. Ở giữa chu kỳ, tức cuối pha noãn, trong những điều kiện nhất định, đáp ứng
bằng LH đột ngột tăng mạnh, gây nên một đỉnh cao LH, chuẩn bị cho hiện tượng
phóng nỗn. ½ cuối chu kỳ, khi nhịp điệu các xung GnRH là khoảng 1 xung mỗi
120 phút, thì tuyến n đáp ứng bằng cả 2 gonadotropins, khơng với một ưu thế
nào cho FSH hay LH. Cả 2 gonadotropins này được phóng thích vào máu ngoại
vi để đến cơ quan đích của chúng là buồng trứng: đáp ứng ưu thế FSH ở ½ đầu
chu kỳ, đỉnh LH ở N14 của chu kỳ và sự suy giảm sản xuất gonadotropins ở ½ sau
của chu kỳ. Lưu ý trong thời gian xuất hiện đỉnh LH, FSH cũng tăng cao, nhưng
không có ưu thế như LH.
1.2.2.1. Follicle-stimulating hormone (FSH)
Follicle-stimulating hormone là một hormone được tạo thành từ hai chuỗi
alpha và beta. Mỗi chuỗi được tổng hợp bởi một gien riêng. Chuỗi alpha là chuỗi
chung cho cả FSH, LH, TSH và hCG. Các chuỗi được gắn vào nhau với những tỉ
lệ thay đổi, do đó tạo ra nhiều biến thể khác nhau của FSH lưu hành trong huyết
tương với đặc tính khả dụng sinh học khác nhau.
Thành phần hoạt động của FSH là chuỗi beta. Chuỗi này tạo cho buồng
trứng các tác dụng đặc trưng thông qua gắn kết với thụ thể của nó trên các tế bào
hạt của nỗn nang.
Thơng qua các thụ thể trên tế bào hạt của nang noãn, FSH thúc đẩy hiện
tượng phát triển của các noãn nang. Ngoài ra, bằng một cơ chế đặc biệt - FSH là
động lực của chọn lọc noãn nang tại buồng trứng.
Tuyến yên sản xuất FSH theo các mệnh lệnh GnRH từ hạ đồi, tuy nhiên sự
sản xuất này còn chịu sự điều phối của một hormone tầng dưới của trục:
Estradiol. Estradiol ức chế sự sản xuất FSH tuyến yên thông qua một feed-back
(-) quan trọng: Feed-back thứ nhất của Estradiol.
1.2.2.2. Luteinizing hormone (LH)
Luteinizing hormone là một hormone được tạo thành từ hai chuỗi alpha và
beta. Mỗi chuỗi được tổng hợp bởi một gen riêng. Chuỗi alpha là chuỗi chung



8

cho cả FSH, LH, TSH và hCG. Thành phần hoạt động cua LH là chuỗi beta.
Chuỗi này tạo cho buồng trứng các tác dụng đặc trưng thông qua gắn kết với thụ
thể của nó trên các tế bào vỏ và tế bào hạt của noãn nang. LH tham gia vào quá
trình tổng hợp Estradiol, một nội tiết chủ lực của buồng trứng. Tuy nhiên chức
năng quan trọng nhất của LH là gây nên các biến đổi sâu sắc ở noãn nang và
nỗn bào chuẩn bị cho phóng nỗn.
Tuyến n sản xuất LH theo các mệnh lệnh GnRH từ hạ đồi, tuy nhiên sự
sản xuất này còn chịu sự điều phối của 2 hormones tầng dưới của trục: Estradiol
và Progesterone. Estradiol kích thích sự sản xuất LH tuyến n thơng qua một
feed-back (+) quan trọng: Feed-back thứ hai của Estradiol.
Progesterone có tác dụng ngược lại. Hormone này ức chế tuyến yên sản
xuất LH. Feed-back (-) lên progesterone này là một kiểm sốt quan trọng trong
cơ chế điều hịa hoạt động của buồng trứng và thụ thai, thông qua việc hủy diệt
hoặc duy trì hồng thể.
1.2.3.

Buồng trứng là tầng dưới cùng của trục, là cơ quan thực thi các

mục đích bảo tồn loài của cơ thể
Buồng trứng chịu sự tác động trực tiếp của FSH và LH. Tại buồng trứng
xảy ra các hiện tượng chiêu mộ noãn nang, phát triển noãn nang, chọn lọc nỗn
nang, phóng nỗn và thành lập hồng thể.
Như vậy buồng trứng là một cơ quan “kép” với 2 cả chức năng đồng thời:
nội tiết - sản xuất các steroids, và “ngoại tiết” - phóng thích giao tử.


9


Hình 1.4. Buồng trứng chịu sự tác động trực tiếp của FSH và LH
Buồng trứng nội tiết sản xuất 2 steroids sinh dục: estradiol và progesterone.

1.2.3.1.Estradiol
Estradiol được sản xuất trong suốt chu kỳ buồng trứng, do có 2 gốc
hydroxy trong phân tử Estrane nên phân tử có tên gọi là estradiol, thường được
ký hiệu là E2 .
Estradiol là một steroid 18 carbon, với một vòng thơm và 2 gốc hydroxy.
Vòng A thơm là đặc trưng của phân tử này, cho phép gắn kết với các thụ thể của
nó tại các cơ quan đích. Hai gốc Hydroxy ở C3 và C17 làm cho phân tử này có tác
dụng mạnh nhất trên các cơ quan đích. Một estrogen khác cũng được buồng
trứng sản xuất là estrone với 1 gốc ketone có hoạt tính sinh học yếu hơn estradiol
rất nhiều. Hormone này có thể chuyển đổi thuận nghịch với estradiol tại mô
buồng trứng và mô mỡ ngoại biên.
Các estrogen được tổng hợp tại tế bào hạt của noãn nang. Sự tổng hợp
estradiol được chi phối bởi FSH, với sự xúc tác của men aromatase tại
cytochrome.
Trong mối liên hệ với trục hạ đồi – tuyến yên – buồng trứng, estradiol có 2
feed-back quan trọng lên tuyến yên:


10

 Feed-back thứ nhất, là một feed-back (-), tác dụng ức chế trên sản xuất
FSH của tuyến yên.
 Feed-back thứ nhì, là một feed-back (+), tác dụng kích thích đỉnh LH của
tuyến yên.
Tất cả các cơ quan có nguồn gốc ống muller đều chịu sự chi phối của
estradiol.
Nguyên liệu của sinh tổng hợp steroid sinh dục nói chung là cholesterol. Tế

bào

vỏ

của

nang

nỗn,

dưới

tác

dụng

của

LH,

tổng

hợp

dihydroepiandrostenedione (DHEA), là một androgen, tiền chất của estradiol.
Sau đó, DHEA được chuyển vào các tế bào hạt ở phía bên trong của nang
noãn. Các tế bào này sẽ dùng DHEA làm ngun liệu cho q trình thơm hóa,
với xúc tác của men aromatase P450 ở cytochrome. Sản phẩm của q trình thơm
hóa là estrone/estradiol. Các diễn biến tại tế bào hạt xảy ra dưới sự chi phối của
FSH.

Estradiol tổng hợp được sẽ theo máu ngoại vi đến cơ quan đích.

Hình 1.5. Estradiol sinh tổng hợp tại nỗn nang [17]
1.2.3.2. Progesterone
Progesterone là một steroid sinh dục với khung 21 carbon. Phân tử được
đặc trưng bằng sự hiện diện của 2 gốc ketone và một nối đơi ở vị trí C4. Trong


11

điều kiện khơng có thai, chỉ có hồng thể sản xuất ra progesterone. Đây là
hormone đặc hữu của hoàng thể. Khi người phụ nữ mang thai, lá nhau sẽ là cơ
quan thứ hai của cơ thể có khả năng sản xuất progesterone. Hoàng thể cũng sử
dụng cholesterol để sản xuất P4 . Quá trình này xảy ra dưới sự chi phối của LH.
Feed-back (-) trên LH dẫn đến việc hoàng thể tự hủy diệt mình. Feed-back
của progesterone trên hạ đồi chưa được khẳng định, dường như progesterone làm
giảm nhịp điệu phóng thích GnRH của hạ đồi, gián tiếp dẫn đến giảm sút sản
xuất LH của tuyến yên. Cơ quan đích của progesterone cũng là các cơ quan có
nguồn gốc Mullerian.
Mục đích cuối cùng của hoạt động buồng trứng là sản xuất giao tử đơn bội
và chuẩn bị cho sự làm tổ của trứng đã thụ tinh, tức hiện tượng thụ thai.
Quá trình sản xuất giao tử được xem như là chức năng ngoại tiết của buồng
trứng. Quá trình bao gồm tất cả các cơng đoạn từ lưu trữ nỗn bào, chiêu mộ,
chọn lọc và làm trưởng thành giao tử, để cuối cùng phóng thích ra một giao tử cái
đơn bội thể sẵn sàng cho quá trình thụ tinh.
Song song với đó là buồng trứng nội tiết, với họat động sản xuất hormone
steroid, chuẩn bị các cơ quan bia sẵn sàng tiếp nhận trứng thụ tinh đến làm tổ.
Một cách tóm tắt, cơ chế điều hòa về mặt nội tiết của trục hạ đồi – tuyến
yên – buồng trứng diễn ra như sau:
Chịu sự chi phối của vỏ não, thông qua các chất adrenergic và

dopaminergic, hạ đồi phóng thích các xung GnRH với nhịp điệu thay đổi vào hệ
mạch cửa hạ đồi – tuyến yên.
Tuyến yên đáp ứng , tùy theo các tác động đa phương, chủ yếu là nhịp điệu
của xung GnRH và các feed-back, bằng cách sản xuất ra các gonadotrophins với
ưu thế FSH/LH.
Tại buồng trứng, các noãn nang thay đổi dưới kích thích của FSH/LH, sản
xuất ra các hormone steroid và chuẩn bị cho q trình phóng thích giao tử. Các


12

hormone steroid đến lượt mình lại có các feed-back quan trọng lên tuyến yên.
Trong đó feed-back thứ nhất của estradiol có vai trị trong chọn lọc nỗn nang,
feed-back thứ hai của hormone này khởi động q trình phóng nỗn. Feed-back
của progesterone tham gia vào q trình hủy diệt của hồng thể chu kỳ. [2]
1.2.3.3. Thay đổi noãn nang ở chu kỳ buồng trứng
 Phân bào giảm nhiễm tại buồng trứng
 Chiêu mộ noãn nang
 Phát triển noãn nang
 Chọn lọc nỗn nang
 Thay đổi tiền phóng nỗn
 Phóng nỗn
 Thành lập hoàng thể chu kỳ
 Tiêu vong của hoàng thể chu kỳ
a. Phân bào giảm nhiễm tại buồng trứng
Người phụ nữ bắt đầu quá trình sản xuất giao tử cái từ thời kỳ bào thai.
Ngay sau khi các tế bào sinh dục nguyên thủy di trú thành công từ túi nỗn hồng
đến ụ sinh dục, chúng tiến hành phân chia nguyên nhiễm để tạo ra một dự trữ đủ
lớn các tế bào sẽ đi vào bào phân giảm nhiễm.
Từ những tuần đầu của thời kỳ phôi, các tế bào này đã chuyển thành các

noãn nguyên bào và bắt đầu đi ngay một cách đồng loạt vào tiền kỳ của phân bào
I giảm nhiễm. Quá trình phân bào giảm nhiễm diễn ra một cách hết sức chậm
chạp, trên toàn bộ đoàn hệ noãn nguyên bào của buồng trứng. Đột ngột, vào
khoảng tuần thứ 25 của thai kỳ, quá trình phân bào giảm nhiễm bị đình trệ trên
tồn bộ đồn hệ nỗn bào sơ cấp. Đứa bé gái được sinh ra đời với khỏang 10

6

noãn bào sơ cấp đang thực hiện dang dở quá trình bào phân giảm nhiễm. [18]
Quá trình phân chia giảm nhiễm chỉ được tiếp tục, vào tuổi dậy thì, trên một
số lượng rất ít nỗn bào sơ cấp được chiêu mộ vào đầu mỗi chu kỳ buồng trứng.
Một phần lớn số noãn bào sơ cấp trong kho dự trữ sẽ đi theo con đường thoái


13

triển. Chỉ còn một số rất nhỏ là được sử dụng dần trong suốt cuộc đời hoạt động
sinh sản của người phụ nữ.
6

Khoảng 10 noãn bào sơ cấp được dự trữ ở buồng trứng của đứa trẻ gái sơ
sinh. Các noãn bào sơ cấp này đã qua một phần phân bào giảm nhiễm và tiến
trình đang bị ngưng trệ ở tiền kỳ của phân bào I [18]. Tại buồng trứng, mỗi noãn
bào sơ cấp được bao quanh bởi một lớp mỏng tế bào tùy hành.

Hình 1.6. Phân chia giảm nhiễm tại buồng trứng

b. Mỗi chu kỳ buồng trứng bắt đầu bằng hiện tượng chiêu mộ noãn nang
Từ khoảng 75 ngày trước khi xảy phóng nỗn - của nang nỗn duy nhất
thuộc một đồn hệ, một đồn hệ nang nỗn ngun thủy được chiêu mộ từ trong

2

kho dự trữ của buồng trứng. Có khoảng 10 nang nỗn ngun thủy được chiêu
mộ. Q trình này xảy ra dưới những động lực cịn chưa được biết rõ, rất có thể
có sự tham gia của các autocrine (yếu tố kiểm soát tự thân tế bào) và paracrine


14

(yếu tố kiểm sốt tế bào liền kề). Tiến trình chiêu mộ hồn tồn khơng lệ thuộc
vào gonadotropin. [16], [17]
Các nỗn bào sơ cấp thuộc đồn hệ được chiêu mộ sẽ tiếp tục nối lại quá
trình bào phân giảm nhiễm bị gián đọan từ thời kỳ bào thai. Tiến trình này xảy ra
một cách chậm chạp, kéo dài hơn 60 ngày. Trong q trình này, ở mức độ nỗn
nang, các nang noãn nguyên thủy sẽ chuyển dần thành các nang nỗn sơ cấp, và
đến cuối q trình sẽ chuyển thành một nhóm khoảng 10 nỗn nang thứ cấp.
c. Phát triển noãn nang
Tập hợp 10 noãn nang thứ cấp kết quả của q trình chiêu mộ sẽ đi vào
phát triển nỗn nang. Do chúng đã có các thụ thể với gonadotropin nên quá trình
này là một quá trình lệ thuộc gonadotropin, tức FSH.
Quá trình chiêu mộ bắt đầu từ ngày 6 của chu kỳ kinh hiện tại, tức khoảng
65 ngày sau khi được chiêu mộ, khi FSH đạt được nồng độ cao nhất trong huyết
tương. Dưới ảnh hưởng của FSH, các tế bào hạt tùy hành sẽ phát triển về số
lượng theo cấp số nhân. Tốc độ phát triển khối tế bào hạt của mỗi noãn nang tùy
thuộc vào số lượng thụ thể với FSH hiện diện tại noãn nang thứ cấp. Trong q
trình phát triển của mình, các nang nỗn thứ cấp còn tự tổng hợp ra thụ thể với
FSH. Như vậy, một nang nỗn ở khởi điểm càng có nhiều tế bào hạt thì càng có
cơ hội phát triển và do vậy càng có nhiều cơ hội tự trang bị cho mình càng nhiều
các thụ thể với gonadotropin. Ngược lại, một nang nỗn ở khởi điểm càng có ít tế
bào hạt thì càng kém nhạy với FSH, do đó ít có cơ hội tăng tổng khối tế bào hạt

của mình và hậu quả là các nang nỗn này ít có khả năng tự trang bị thêm các thụ
thể với gonadotropin. Các nang noãn thứ cấp sẽ phát triển trở thành các nang
noãn trung gian với đặc trưng là một hốc (nên được gọi là Antral follicle) chứa
dịch nang.
Như vậy q trình phát triển nỗn nang đã đào sâu thêm khoảng cách giàu nghèo về tế bào hạt và khả năng bắt giữ FSH của các noãn nang trong cùng một
đồn hệ nang nỗn trung gian. Sự phát triển khơng thuần nhất tạo nên những


15

phân hóa ngày càng lớn. Trong khi đó các tế bào hạt, bất luận là có nguồn gốc từ
nang nỗn nào, lớn hay bé, đều tham gia sản xuất estradiol, làm cho nồng độ
hormone này tăng dần trong huyết tương.
Kết quả của phát triển noãn nang: Đến ngày của chu kỳ kinh, tức khoảng
ngày 70 của chu kỳ buồng trứng, một vài nang nỗn trung gian được hình thành.
Sự phân hóa trong nhóm các nang nỗn trung gian đã trở nên rất rõ nét. Các nang
noãn trung gian trở nên rất khác biệt nhau về kích thước, tổng khối tế bào tùy
hành, số lượng thụ thể và khả năng tìm bắt FSH. Trong khi đó các tế bào hạt, bất
luận là có nguồn gốc từ nang nỗn nào, lớn hay bé, đều tham gia sản xuất
Estradiol, làm cho nồng độ hormone này tăng dần trong huyết tương.
d. Chọn lọc noãn nang
Feed-back thứ nhất của E2 - “Nạn đói FSH”
Nồng độ estradiol tăng cao dần và gây nên feed-back thứ nhất của estradiol.
Dưới nồng độ cao estradiol, tuyến yên bị ức chế khơng cịn sản xuất dồi dào FSH
nữa. Nồng độ FSH lưu hành trong huyết tương giảm dần đến mức rất thấp vào
thời điểm các nang noãn trung gian bắt đầu chênh lệch nhau rõ nét. Cả đồn hệ
nang nỗn trung gian lúc này cùng rơi vào một tình trạng thiếu hụt FSH. Các
nang nỗn cạnh tranh nhau tìm vơ vét những phân tử FSH ít ỏi cịn đang lưu
hành trong huyết tương. [17]
Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh này ưu thế thuộc về kẻ mạnh, là những

nang noãn nhiều tế bào hạt nhất, do đó được trang bị nhiều thụ thể với FSH nhất,
và như vậy có nhiều khả năng vơ vét FSH nhất trong cuộc cạnh tranh sinh tồn
trước nạn đói FSH.
Nạn đói FSH” và sự chọn lọc noãn nang
Trong cuộc cạnh tranh này, các nang noãn nhỏ, ít tế bào hạt và ít thụ thể với
FSH sẽ khơng có cơ hội tìm bắt FSH. Các tế bào hạt khơng cịn được cung cấp
đủ FSH sẽ khơng phân chia và không tổng hợp thêm thụ thể với FSH nữa. Hệ


16

quả là các nang noãn này lại càng mất khả năng bắt giữ FSH, và chúng sẽ trở
thành các nang nỗn thối triển. Các nang nỗn “đẹp”, “to”, chứa nhiều tế bào
hạt và đương nhiên là nhiều khả năng săn lùng và bắt giữ FSH sẽ sở hữu toàn bộ
số FSH ít ỏi được sản xuất và lưu hành. Vì thế, chúng tiếp tục phát triển to hơn,
đẹp hơn, nhiều tế bào hạt hơn và nhiều thụ thể với FSH hơn.
Như vậy, khủng hoảng thiếu FSH, tức feed-back thứ nhất của estradiol
chính là động lực của q trình chọn lọc nỗn nang.
Các nang nỗn thối triển
Quan sát một nang nỗn thoái triển, chúng ta thấy một cấu trúc nghèo tế
bào hạt, dịch nang khơng chứa estradiol vì khơng có hoạt động tế bào hạt. Dịch
này chỉ chứa các androgen, tiền thân của estrogen.
Nang noãn vƣợt trội và nang de Graff
Số lượng nang noãn trung gian phát triển bị giảm dần trong q trình chọn
lọc, theo cấp số với cơng bội âm. Tại các nang nỗn khơng thối triển, do các tế
bào hạt vẫn tiếp tục phân chia mạnh do chúng vẫn thu gom được FSH, nên chúng
vẫn hàng giờ sản xuất estradiol. Estradiol tiếp tục tăng cao dần trong huyết tương
do tổng khối tế bào hạt tại buồng trứng vẫn tiếp tục tăng theo cấp số nhân, bất
chấp sự mất đi vài nang nỗn đi vào thối triển.
Estradiol càng lúc càng tăng cao, feed-back thứ nhất của nó vẫn tiếp tục duy

trì và dẫn đến hệ quả là sự sụt giảm đến mức tối đa khả năng sản xuất FSH của
tuyến yên. Lượng FSH lưu hành trở nên cạn kiệt hơn bao giờ hết.
Bây giờ xảy ra cuộc cạnh tranh giữa các nang noãn nhà giàu. Kết cục là sẽ
chỉ có một nang nỗn duy nhất có nhiều tế bào hạt nhất, nhiều thụ thể với FSH
nhất, nhiều khả năng “tận vét” FSH nhất mới có đủ khả năng vượt qua cuộc cạnh
tranh này và trở thành nang noãn vượt trội. [16], [17]
Tất cả các nang noãn khác đều chịu chung con đường thối triển. Chỉ có
một nang nỗn duy nhất có thể đi theo đến cùng sự phát triển. Nang này được gọi


17

là nang “de Graff”. Nang de Graff phát triển rất nhanh, với tổng khối tế bào hạt
rất lớn, sản xuất ngày càng nhiều estradiol. Các tế bào hạt phân chia thành 2
khối: một khối bao bọc quanh nỗn bào hình thành vành tia và một khối khác ở
thành noãn nang.
Bất chấp những thay đổi to lớn đang xảy ra ở noãn nang, noãn bào lúc này
vẫn chậm chạp tiếp tục tiền kỳ của quá trình phân bào I giảm nhiễm.
e. Thay đổi tiền phóng nỗn
Feed-back thứ hai của E2 - Đỉnh LH
Vào khoảng ngày 12 của chu kỳ kinh, nồng độ estradiol đã tăng lên gần đến
mức cực đại, đạt và vượt ngưỡng 150pg/l. Sự ổn định ở mức trên ngưỡng trong
72 giờ thể hiện một nang noãn đang phát triển rất ổn định. Khi nồng độ cao trên
ngưỡng của estradiol được duy trì trên 72 giờ, sẽ xảy ra feed-back thứ hai của
estradiol. Đột ngột, tuyến n phóng thích một lượng lớn LH, trong một thời gian
cực ngắn vào huyết tương. Đây là đỉnh LH. Ngay sau đỉnh này, xảy ra một loạt
những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc tại noãn nang. Các biến đổi này kéo dài
trong 38-42 giờ.
Thay đổi ở nang de Graff do đỉnh LH
Đỉnh LH này được gọi là đỉnh LH tiền phóng nỗn, do nó gây nên các biến

đổi trên nỗn nang nhằm mục đích chuẩn bị cho phóng nỗn. Các thay đổi này
gồm:
 Thay đổi ở noãn bào
Tại noãn bào, ngay sau đỉnh LH tiền phóng nỗn, q trình bào phân giảm
nhiễm được tăng tốc. Trong vòng 20 giờ sau đỉnh LH, nỗn bào đã hồn thành
phân bào I giảm nhiễm, và ngay sau đó tiếp tục đi vào phân bào II. Tiến trình
phân bào II cũng xảy ra cực nhanh, chỉ 16 giờ sau khi hồn thành phân bào I,
nỗn bào đã hoàn thành xong tiền kỳ và trung kỳ của phân bào II. Ở giờ thứ 36
sau đỉnh LH, noãn bào đã gần hoàn thành metaphase của phân bào II giảm
nhiễm.


18

Tuy nhiên, ở lồi người, tiến trình bào phân giảm nhiễm không đi đến cùng
tại buồng trứng. Ở thời điểm phóng nỗn, nỗn bào rời khỏi buồng trứng khi vẫn
cịn đang ở metaphase của phân bào II giảm nhiễm.
Nếu không có hiện tượng thụ tinh xảy ra, nỗn bào sẽ mãi mãi ở lại giai
đoạn MII.
 Noãn bào ở thời điểm phóng nỗn
Ở giờ thứ 36 sau đỉnh LH, nỗn bào đã gần hoàn thành metaphase của phân
bào II giảm nhiễm. Tuy nhiên, ở lồi người, tiến trình bào phân giảm nhiễm
không đi đến cùng tại buồng trứng. Ở thời điểm phóng nỗn, nỗn bào rời khỏi
buồng trứng khi vẫn còn đang ở metaphase của phân bào II giảm nhiễm. Thoi vơ
sắc đã hình thành. Các nhiễm sắc thể với cấu trúc n kép đang tập trung ở mặt
phẳng xích đạo của thoi vơ sắc.
Nếu khơng có hiện tượng thụ tinh xảy ra, noãn bào sẽ mãi mãi ở lại giai
đoạn MII.
Thay đổi ở tế bào hạt tùy hành
Sau đỉnh LH tiền phóng nỗn, tại các tế bào hạt cũng xảy ra những thay đổi

sâu sắc. Tiến trình phân bào nguyên nhiễm tại các tế bào hạt bị đình trệ. Liên kết
giữa khối tế bào hạt và vành tia trở nên lỏng lẻo làm cho noãn bào và vành tia
tách ra khỏi khối tế bào hạt còn lại, lập nên một cấu trúc lơ lửng giữa noãn nang
gồm noãn bào ở MII và một số tế bào hạt tùy hành. Cấu trúc này được gọi là đám
mây noãn (Cumulus Oophorus). Cumulus Oophorus sẽ rời buồng trứng khi nang
noãn bị vỡ và dễ dàng được đón bắt bởi vịi Fallope do tính chất nhầy dính của
cumulus oophorus.
f. Hiện tượng phóng nỗn
38-42 giờ sau đỉnh LH, các thay đổi ở noãn bào đã hồn tất. Nỗn bào đã ở
MII. Cumulus oophorus đã hình thành và trơi nổi trong dịch nang. Vỏ buồng
trứng tại nơi có nang nỗn trở nên rất mỏng do sự tăng progtaglandin dẫn đến


19

tăng tiết dịch từ thành mạch vào nang; đồng thời men colagenar tăng làm mỏng
màng colagen vỏ ngoài của nang. Vỏ buồng trứng vỡ ra, phóng thích cumulus
oophorus vào ổ bụng. Khối tế bào hạt và vỏ còn lại co rút lại. Các mạch máu xâm
nhập vào bên trong phần cịn lại của nang nỗn.
g. Thành lập chu kỳ hồng thể được thành lập
Nang noãn bị vỡ kèm theo việc mất đi một số tế bào hạt có nhiệm vụ sản
xuất estradiol, đồng thời là các tế bào còn lại đang ở trong giai đoạn chịu những
biến đổi về hình thái và chức năng, nên dẫn đến hệ quả là sự sản xuất các steroid
bị sút giảm. Estradiol bị tụt đi do mất tế bào hạt. Progesterone có mặt nhưng chưa
đạt đến một nồng độ đủ cao. Ngay sau khi nang nỗn bị vỡ, các mạch máu từ bên
ngồi vùng vỏ của nang noãn xuyên thủng lớp tế bào vỏ và xâm nhập vào bên
trong phần còn lại của nang, nơi có các tế bào hạt. [17]
Thoạt tiên, bên trong hoàng thể chứa đầy máu (nang hoàng thể xuất huyết).
Sau đó, bắt đầu tiến trình hồng thể hóa các tế bào hạt và vỏ. Các tế bào được cấp
máu và ngậm lipid, chuyển đổi về hình thái và hình thành hồng thể sơ kỳ. Một

thời gian ngắn sau đó, các tế bào mới chuyển đổi sẽ đi vào hoạt động ổn định. Cả
hoàng thể trở thành một cấu trúc đặc, thuần nhất gồm các tế bào hoàng thể, sản
xuất đồng thời cả estradiol và progesterone. Đó là hồng thể trưởng thành. Như
vậy hoàng thể là một cơ quan nội tiết mới của chu kỳ, tồn tại trong một thời gian
nhất định trong chu kỳ. Do có nguồn gốc từ tế bào vỏ và tế bào hạt nên sự tồn tại
và hoạt động của hoàng thể lệ thuộc vào gonadotropin.
Feed-back của P4 - Giảm LH
Hoàng thể trưởng thành đi vào hoạt động ổn định, sản xuất các steroid với
nồng độ tăng dần. Progesterone tăng cao dần và thực hiện feed-back của nó lên
tuyến Yên. Đây là một feed-back (-) trên LH, làm tuyến yên bị ức chế không sản
xuất LH.
Dường như là feed-back này cũng ảnh hưởng lên cả tầng hạ đồi, làm giảm
nhịp điệu phóng thích GnRH cịn 1 xung mỗi 120 phút. Sự giảm nhịp điệu này


20

làm cho tuyến n khơng được kích thích đúng mức. Sự sản xuất gonadotropin bị
suy giảm làm cho hoàng thể khơng cịn duy trì được cuộc sống và hoạt động chế
tiết steroid của nó nữa. Nồng độ huyết tương của Estradiol và Progesterone giảm
dần do hồng thể bị thối hóa.
h. Thối hóa hồng thể - Sẹo bạch thể
Sau 11 ngày tồn tại của mình, hồng thể khơng được duy trì do giảm sút
gonadotropin bởi feed-back (-) tự hủy diệt của mình. Các tế bào hồng thể thối
hóa dần, teo lại, không sản xuất steroid nữa và để lại một dấu tích sợi trắng trên
buồng trứng, được gọi là bạch thể.
Sự tiêu vong của hoàng thể là điểm kết thúc của một chu kỳ buồng trứng.
Tuy nhiên, đời sống của hoàng thể có thể được kéo dài hơn khi có sự hiện diện
của một hormone có thể thay thế LH để duy trì hoạt động của nó. Điều này xảy
ra khi người nữ mang thai: human chorionic gonadotropin (hCG) sẽ thế vai của

LH và biến đổi hoàng thể từ hoàng thể chu kỳ trở thành hồng thể thai kỳ.
Tóm lại, một chu kỳ buồng trứng kéo dài khoảng 90 ngày. Chu kỳ được bắt
đầu khoảng 75 ngày trước ngày phóng nỗn của chu kỳ này. Hiện tượng chiêu
mộ lôi kéo khoảng 100 noãn nang nguyên thủy vào chu kỳ. Chúng lần lượt
chuyển biến thành các noãn nang sơ cấp rồi thứ cấp. Tiến trình chiêu mộ khơng
lệ thuộc gonadotropin. Nang nỗn thứ cấp sẽ phát triển dưới gonadotropin. Quá
trình phát triển cũng chính là q trình phân hóa đồn hệ. Feed-back thứ nhất của
estradiol tác dụng lên một đoàn hệ đã bị phân hóa, làm cho một phần lớn nỗn
nang của đồn hệ bị thối triển. Các nang trung gian tiếp tục quá trình chọn lọc
do thiếu FSH dẫn đến việc chọn lọc một nang noãn trưởng thành: nang de Graff.
Nang de Graff hồn thành tiến trình phát triển của mình bằng cách tạo ra feedback thứ nhì do vượt ngưỡng của estradiol. Đỉnh LH, tác phẩm của feed-back thứ
nhì của estradiol gây ra hàng loạt các biến đổi quan trọng ở nang nỗn de Graff.
Cuối cùng, nỗn bào được phóng thích khi nó đang ở tiến kỳ của phân bào II
giảm nhiễm. Hồng thể được thành lập từ phần cịn lại của nang noãn và tiếp tục


21

chế tiết ra estrogen cùng một hormone đặc hữu của hồng thể - Progesterone.
Progesterone đến lượt mình lại tạo ra một feed-back trên LH. Chính feed-back
của progesterone đã hủy diệt hoàng thể và chấm dứt một chu kỳ buồng trứng.
1.2.3.4. Cơ quan đích của các steroid buồng trứng
 Cơ quan có nguồn gốc ống Müller
-

Ống dẫn trứng

-

Nội mạc tử cung


-

Cơ tử cung

-

Kênh tử cung

-

Biểu mô âm đạo

 Cơ quan không có nguồn gốc ống Müller
-

Tuyến vú

-

Trung tâm điều hịa thân nhiệt Hạ đồi

-

Xương

a. Ống dẫn trứng và cơ tử cung
Ống dẫn trứng là cơ quan có nguồn gốc từ đoạn xa của hệ ống Mullerian.
Các cơ trơn của ống dẫn trứng là cơ quan đích chịu tác dụng của cả estradiol và
progesterone. Trên ống dẫn trứng, 2 steroids này có tác dụng đối kháng nhau.

Tuy nhiên, chúng có những thời điểm tác dụng khác nhau, phối hợp đồng bộ và
hài hịa trong mục đích dẫn trứng thụ tinh đến buồng tử cung vào đúng thời điểm
thuận lợi nhất cho sự làm tổ.
Estradiol tác dụng làm co thắt ống dẫn trứng, tạo các chuyển động co thắt
gợn sóng để đưa trứng thụ tinh đi từ đoạn xa vào đến đoạn gần của ống dẫn
trứng. Tác dụng này còn được tăng cường bởi prostaglandin và hoạt động của các
nhung mao trên bề mặt tế bào niêm mạc ống dẫn trứng. [16]
Trứng thụ tinh đến đoạn kẽ của ống dẫn trứng khi hoàng thể đã trở thành
hoàng thể trưởng thành, sản xuất ổn định progesterone. P4 làm thư giãn ống dẫn
trứng và mở lối vào buồng tử cung cho trứng đã thụ tinh.


22

Sự phối hợp không đồng bộ giữa estradiol và progesterone có thể gây nên
rối loạn vận chuyển trứng thụ tinh và dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng như sự
làm tổ ngoài buồng tử cung của trứng đã thụ tinh.
b. Nội mạc tử cung - Chu kỳ nội mạc tử cung
Nội mạc tử cung là cơ quan bia quan trọng của estradiol và progesterone.
Chúng có tác dụng hiệp đồng với nhau, bằng cách nối tiếp và phối hợp nhau để
gây ra các biến đổi trên cơ quan này, chuẩn bị cho sự làm tổ của trứng. Một cách
tóm tắt, estradiol chuẩn bị một nội mạc phát triển đủ, còn progesterone là
hormone của sự hoài thai.
Chu kỳ biến đổi của nội mạc tử cung dưới steroids buồng trứng là 28 ngày,
tương ứng từ kỳ phát triển noãn nang này cho đến chu kỳ phát triển noãn nang kế
tiếp. Chu kỳ nội mạc tử cung không phải là chu kỳ buồng trứng. Chu kỳ nội mạc
tử cung chỉ thể hiện một phần của chu kỳ buồng trứng.
E2 & P4 trên nội mạc - thời kỳ phân tiết
Trên một nội mạc đã được chuẩn bị đầy đủ với estrogen, có nghĩa là được
trang bị đầy đủ các thụ thể với cả estrogen và progesterone, progesterone sẽ phân

tiết hóa cấu trúc nội mạc. Sự hiện diện của progesterone làm cho tuyến nội mạc
trở nên ngoằn ngoèo, uốn khúc, tích trữ glycogen. Các mạch máu cũng gia tăng
độ dài và khả năng tưới máu nội mạc bằng cách trở nên uốn khúc theo tuyến nội
mạc. Mô đệm phù nề và sẵn sàng để tiếp nhận trứng thụ tinh làm tổ. Lúc bấy giờ,
chúng đang ở đỉnh cao của hoạt động hoàng thể. Progesterone là hormone của sự
hoài thai.
Trên một nội mạc đã được chuẩn bị đầy đủ với estrogen, có nghĩa là được
trang bị đầy đủ các thụ thể với cả estrogen và progesterone, progesterone sẽ phân
tiết hóa cấu trúc nội mạc. Sự hiện diện của progesterone làm cho tuyến nội mạc
trở nên ngoằn ngoèo, uốn khúc, tích trữ glycogen. Các mạch máu cũng gia tăng
độ dài và khả năng tưới máu nội mạc bằng cách trở nên uốn khúc theo tuyến nội
mạc. Mô đệm phù nề và sẵn sàng để tiếp nhận trứng thụ tinh làm tổ. Lúc bấy giờ,


23

chúng đang ở đỉnh cao của hoạt động hoàng thể. Progesterone là hormone của sự
hoài thai.
Chu kỳ nội mạc tử cung
Về bản chất, hành kinh thể hiện sự kết thúc của chu kỳ nội mạc tử cung lẫn
chu kỳ buồng trứng. Một chu kỳ nội mạc tử cung mới sẽ bắt đầu sau đó. Tuy
nhiên, hành kinh khơng phải là điểm bắt đầu của một chu kỳ buồng trứng mới.
Tóm lại một chu kỳ buồng trứng và một chu kỳ nội mạc tử cung bình
thường sẽ được thể hiện ra bằng một kỳ kinh bình thường. Nhưng một kỳ kinh
“bình thường” đơi khi khơng hồn tồn đồng nghĩa với một chu kỳ buồng trứng
và/hoặc chu kỳ nội mạc tử cung bình thường.
Kênh tử cung - Chất nhầy cổ tử cung
Kênh tử cung được lát bởi các tế bào tuyến hình đài tiết nhầy. Cũng như
mọi cơ quan nguồn gốc ống Muller khác , tuyến nội mạc tử cung chịu ảnh hưởng
của các steroids buồng trứng. Dưới ảnh hưởng của Estradiol, chất nhầy cổ tử

cung trở nên thuận lợi cho quá trình xâm nhập vào tử cung của tinh trùng. Đối
kháng lại, progesterone làm cho chất nhầy trở thành không thể xâm nhập được
với tinh trùng.
E2 - chất nhầy thuận lợi quanh phóng nỗn
Dưới estradiol, cổ tử cung chế tiết ra chất nhầy thuận lợi cho sự xâm nhập
lên trên của tinh trùng. Chất lượng và sự thuận lợi của chất nhầy tỉ lệ thuận với
nồng độ estradiol. Vào thời điểm trước phóng nỗn, khi estradiol đạt đỉnh huyết
tương, chất nhầy trở nên trong suốt, nhiều, loãng, với cấu trúc siêu hiển vi của
matrix thuận lợi cho tinh trùng vượt qua và thực hiện q trình khả năng hóa đầu
tinh trùng.
P4 - chất nhầy bất lợi sau phóng nỗn
Dưới progesterone, cổ tử cung ngưng chế tiết ra chất nhầy. Chất nhầy bị
biến đổi về lý tính và trở nên hồn tồn bất lợi cho sự xâm nhập lên trên của tinh


24

trùng. Chỉ vài ngày sau khi có phóng nỗn, khi progesterone vừa hiện diện trong
huyết tương, chất nhầy đã trở nên đục, ít, đặc, với cấu trúc siêu hiển vi của matrix
hồn tồn khơng thuận lợi cho tinh trùng vượt qua cổ tử cung.
Biểu mô âm đạo
2 giai đoạn ảnh hưởng
 Giai đoạn E2: Niêm mạc âm đạo trước phóng nỗn
 Giai đoạn P4: Niêm mạc âm đạo sau phóng nỗn
E2 và P4 có tác động tiếp nối trên niêm mạc âm đạo
 E2 - biểu mô âm đạo trước phóng nỗn
Estradiol làm niêm mạc Malpighi khơng sừng hóa của âm đạo phát triển,
dầy lên. Trên phiến đồ âm đạo ở ngày đỉnh của estradiol (N14), ta khơng cịn thấy
hiện diện các tế bào đáy hay cận đáy của biểu mô Malpighi. Chiếm tuyệt đại đa
số là các tế bào bề mặt với nhân rất nhỏ và bào tương bắt màu acid.

 P4 - biểu mơ âm đạo sau phóng nỗn
Progesterone làm niêm mạc Malpighi khơng sừng hóa của âm đạo sau pha
estradiol trở nên trưởng thành.
Trên phiến đồ âm đạo ở ngày đỉnh của Progesterone (N21), ta khơng cịn
thấy hiện diện các tế bào bề mặt ái toan của biểu mơ Malpighi, thay vào đó là các
tế bào bề mặt và trung chuyển trưởng thành với bào tương to, gấp cạnh và ưa
kiềm (tế bào hình thuyền).
Vú - Thụ thể Estrogen
Vú là cơ quan ngoài Mullerian duy nhất chịu ảnh hưởng của cả 2 steroids
buồng trứng. Các thụ thể với estrogen trên mô tuyến tuyến vú làm cho vú phát
triển. Trên tuyến vú, progesterone có tác dụng chủ yếu là làm cân bằng - hay đối


×