HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN
TRUYỀN
TIỂU LUẬN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
ĐỀ TÀI: Tư tưởng chính trị nho gia, sự du nhập và
tác động đến đời sống chính trị Việt Nam.
Học viên: Nguyễn Thu Thủy
Mã sinh viên:2055280039
Lớp: Kinh tế và quản lí (CLC)K40
Hà Nội-ngày 18 tháng 6 năm 2021
MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Tư tưởng chính trị Nho gia.
1.1.Tư tưởng về nhà nước,Quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa
Nhà nước với dân.
1.1.1.Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước.
1.1.2. Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước.
1.2. Đường lối trị nước Nho giáo vạch rõ thực chất của việc cai trị.
1.2.1. Nhân trị và Lễ trị.
1.2.2. Chính danh.
Chương 2:Sự du nhập và tác động đến đời sống
chính trị Việt Nam.
1.1. Sự du nhập của Nho gia:
1.2. Tác động của Nho gia đến đời sống chính trị Việt Nam:
1.2.1. Tác động tích cực.
1.1.2. Tác động tiêu cực.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Tính cấp thiết của đề tài Nho gia khởi nguồn từ Trung Quốc, được du
nhập vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc thuộc, được “Việt Nam hóa”trong suốt một
chặng đường lịch sử, góp phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt
Nam. Bao đời từng là thế hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng Việt
Nam, Nho gia đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người và xã hội, chính trị và văn
hóa, cuộc sống và lẽ sống,hệ tư tưởng và phong tục tập quán Việt Nam, Nho gia
trở thành một bộ phận của truyền thống dân tộc. Dù muốn hay không Nho giáo
vẫn đang chi phối xã hội Việt Nam hiện nay. Con người Việt Nam dù tự giác
hay không tự giác vẫn còn dấu ấn của nho giáo. Truyền thống văn hóa quá khứ
của dân tộc bao gồm sách vở, đền đài, miếu mạo, phong tục tập quán mang sắc
thái nho giáo vẫn cịn đó.
Trong những năm qua, cơng cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế thị trường đã đẩy nhanh
sự tăng trưởng về kinh tế, đem lại bộ mặt mới cho xã hội. Tuy nhiên mặt trái
của cơ chế thị trường cũng tạo nhiều xáo trộn trong quan hệ xã hội, trong gia
đình và phẩm chất cá nhân. Trong cán bộ, nhân dân đã có những biểu hiện tiêu
cực, thể hiện trong cảm nhận thức và hành động: tư tưởng thực dụng, chạy theo
đồng tiền làm cho một bộ phận xa rời lý tưởng, suy thối về nhân phẩm đạo
đức; nạn tham nhũng, bn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác
đang có chiều hướng gia tăng. Những chủ trương biện pháp khắc phục tình
trạng nói trên khơng thể đụng chạm tới nhiều vấn đề liên quan đến Nho giáo,
nhất là khi Nho giáo đã từng tồn tại hàng ngàn năm ở nước ta, để lại những căn
bệnh trầm trọng như bệnh bảo thủ, quan liêu, giáo điều, chủ nghĩa bình quân.
Đến nay những căn bệnh đó vẫn tồn tại với nhiều biểu hiện khác nhau.
Đường lối đổi mới ở Việt Nam và triển vọng lớn lao của nó khơng thể
tách rời việc khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo và sau đó khai
thác những nhân tố tích cực để biến thành truyền thống Việt Nam trên lĩnh vực
của đời sống. Nho giáo là vấn đề quá khứ nhưng cũng là vấn đề hiện tại. Nghiên
cứu tư tưởng chính trị Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá rõ hơn những yếu tố
khơng cịn phù hợp, những phần giá trị cần gạt bỏ đồng thời để kế thừa những
tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn của
chính trị học có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Chính vì
vậy, em chọn đề tài “Tư tưởng chính trị Nho gia, sự du nhập và tác động đến đời
sống chính trị Việt Nam” làm đề tài bài tiểu luận. Tuy nhiên trong q trình làm,
do cịn có những hạn chế, lại là vấn đề khó và phúc tạp nên em không tránh khỏi
khiếm khuyết , em rất mong được sự góp ý chi bảo của thầy cơ giảng viên.
2.
Tình hình nghiên cứu:
-Nho gia là đề tài được nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước
nghiên cứu, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải có sự đi sâu
tìm hiểu và khám phá.
Ở Việt Nam, trong mấy thập kỷ này, không thể các bài in trên báo tạp chí,
chị nói riêng tác phẩm nghiên cứu về Nho giáo thì đã có một số lượng đáng kể:
“Nho giáo”(hai tập) của Trần Trọng Kim năm 1930; tác phẩm “khổng học
đăng”của Phan Bội Châu những năm đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XX; “Nho giáo
xưa và nay” do giáo sư Vũ Khiêu chủ biên in năm 1990 ;.......
-Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã đạt dưới góc độ của chính trị
học, luận văn này đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo,
đồng thời làm rõ ảnh hưởng của Nho giáo tác động đến đời sống chính trị Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu:
-Mục đích:Luận văn làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống chính trị Việt Nam hiện nay, từ đó góp thêm
tiếng nói và việc tìm giải pháp pháp khai thác những giá trị tinh hoa và loại bỏ
đi những hạn chế của nó trong đời sống xã hội nước ta hiện nay.
-Nhiệm vụ: Làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo. Chỉ rõ những
giá trị tích cực của nho giáo cần được kế thừa, phê phán những hạn chế, những
tàn dư của Nho giáo còn rơi rớt lại trong đời sống xã hội Việt Nam. Kiến nghị
những giải pháp nhằm khai thác những giá trị tinh hoa trong tư tưởng chính trị
của nho giáo đồng thời loại bỏ những tàn dư của nó trong đời sống xã hội Việt
Nam.
-Phạm vi nghiên cứu: luận văn khơng có tham vọng giải quyết tất cả các
vấn đề Nho giáo mà chỉ tập trung làm rõ tư tưởng cơ bản của nho giáo, những
ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
-Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-lênin
tư tưởng Hồ Chí Minh,Những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phê
phán và vận dụng những giá trị truyền thống của dân tộc và nhân loại.
-Trong quá trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp logic và lịch sử; phân
tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội, sử dụng kiến thức liên ngành
chính trị-văn hóa-lịch sử...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
-Góp phân giải đáp một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra hiện
nay, đó là kế thừa và loại bỏ những gì trong tư tưởng chính trị của Nho giáo.
NỘI DUNG
Chương 1: Tư tưởng chính trị Nho gia.
Là học thuyết của xã hội phong kiến, do xã hội phong kiến soạn sinh ra,
bản thân Nho giáo cũng nêu lên một số nguyên lý, nguyên tắc, đường lối và
phương pháp nhằm bảo đảm cho xã hội một sự ổn định về vận hành và phát
triển. Mục đích lý tưởng của Nho giáo là xây dựng một nhà nước chuyên chế
mạng, duy trì kỷ cương, đẳng cấp, quyền lực tuyệt đối thuộc về vua. Người cai
trị dùng đạo đức, lễ tiết để làm tròn gương cho dân chúng, dùng pháp luật có
mức độ, dân chúng thì tự giác làm trịn bổn phận của mình. Gạn lọc trong chiều
sâu tư tưởng Nho giáo, có thể thấy vấn đề về nhà nước, quyền lực nhà nước và
mối quan hệ giữa Nhà nước với dân được đề cập khá sâu sắc.
1.1.Tư tưởng về nhà nước,Quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa
Nhà nước với dân:
1.1.1.Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước:
Theo Nho giáo, con người sống không thể tách rời nhau mà có mn
ngàn quan hệ gắn bó với nhau trong phạm vi những công đồng nhất định.
Các cộng đồng đó là nhà, nước và thiên hạ. Đương nhiên ngồi phạm vi nhà và
từ nhà đến nước cịn có hương, quận, châu. Nho giáo cố ý đồng nhất 3 thực thể
nhà, nước, thiên hạ theo nguyên lý bao quát. Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở
nhà, nhà thuốc ở thân mình. Nho giáo coi “nước” chỉ là sự mở rộng của nhà nhà
do nước và nhà trung một gốc cho nên nhiều khi Nho giáo dùng phạm trù quốc
và gia đông nhất. Nho giáo coi mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa nhà và
nước là thiêng liêng và sáng tỏ bỏ ln đời. Nói lên mối quan hệ ấy, Khổng Tử
đã nhấn mạnh: muốn trị quốc trước hết phải tề gia.
Nước thành vật sở hữu của một số người có đức sáng, được mệnh trời,
giỏi tề gia. Những hiền nhân quân tử đi từ tề gia đến trị quốc có cương vị đứng
đầu cả nhà và nước thì được Khổng Tử xác nhận là kẻ có nước, có nhà hoặc là
những kẻ có quốc gia để cai trị. Con đường đi từ nhà đến nước như vậy, được
Nho giáo cho là đúng đắn, hợp với trời đất, đạo của người. Nhà và nước gắn với
nhau, lồng vào nhau.nước mà Nho giáo nói ở đây khơng chỉ là đất nước mà cịn
được hiểu là nhà nhà nước thời đó-thời có thiên tử và chư hậu cịn có tên gọi
tiêu biểu là triều đình và triều-thuộc quyền chuyên chế của cá nhân vua cùng
với gia tộc và tông tộc nhà vua.
Nho giáo quan niệm rằng đã là xã hội thì tất phải có quyền tối cao để
giữ kỷ cương xã hội. Quyền ấy gọi là quân quyền. Người giữ quân quyền gọi là
đế hay vương(vua).vua phải lo việc chị nước tức là lo sự sinh hoạt, dạy dỗ và
mở mang là người chủ đất nước, nhà vua Nho giáo thùng chị với một quyền uy
tối thượng. Nhà vua điều hành mọi công việc của nhà nước, sử dụng và bãi chức
đối với toàn thể giới quý tộc và quan lại. Nho giáo nhắc nhở rằng: “dưới gầm
trời không chỗ nào chẳng phải đất của nhà vua, trên mặt đất không người nào
chẳng phải về tôi của vua”. Với tư cách người chủ đất đai, nhà vua chỉ đạo việc
sử dụng đất đai, quyền định mức thuế và sự đóng góp của nhân dân. Nấm kho
tàng của nhà nước, quản lý toàn bộ ngân khố và thóc, nhà vua là người ban ơn
cho tồn thể nhân dân, được mọi người phục tùng một cách tuyệt đối. Như vậy
quyền uy của nhà vua là tuyệt đối. Quyền uy ấy thể hiện trên mọi lĩnh vực. Nhà
vua vừa là người trực tiếp quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện pháp
luật, chỉ huy quân sự, giáo dục đạo đức và đứng đầu tôn giáo.
Để quản lý lãnh thổ rộng lớn nhà vua sắp xếp một bộ máy quan liêu từ
trung ương đến địa phương. Lúc đầu bộ máy nhà nước bao gồm những quý tộc
thuộc dịng họ vua. Sau đó các quan chức triều đình được tuyện lựa trong hàng
ngũ Nho sĩ đã qua các kì thi.dùng bộ máy quan liêu, lựa chọn khoa cử và đội
quân thường trực, vua chuyên chế tìm ra phương án tối ưu để nắm giữ quyền
lực.
Nho giáo chủ trương thuyết Thiên mệnh. Thuyết này coi trời là cha
chung, ngôi vua được trời lựa chọn giao cho cai quản đất nước và thần dân. Vua
cũng là cha chung. Do mệnh trời mà có mệnh vua. Nhưng nho giáo cũng nhấn
mạnh: “Duy mệnh bất vu thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chỉ
hỹ”. Vì vậy người làm đế vương tuy quyền uy rất to, thế lực rất mạnh, nhưng
không được lạm dụng quyền ấy để làm điều tàn bạo.
Thuyết “Thiên mệnh” với phương châm an phận theo đia vị của mình,
khơng mong gì ở bên ngồi đã đè nặng lên đời sống tinh thần, của dân tộc Trung
Hoa và các dân tộc tôn sùng Nho giáo suốt nhiều thế kỷ. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho tơn ti, trật tự phong kiến duy trì q lâu, triệt bỏ
sức vươn lên của con người.
Tuy nhiên, có thể thấy tư tưởng tôn quân, thuyết Thiên mệnh đã đáp ứng
được đòi hỏi bức thiết của lịch sửTrung Hoa thời bấy giờ, đó là thống nhất dân
tộc, xây dựng chính quyền Trung ương tập quyền.
1.1.2. Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước:
Tư tưởng về đân
Tư tưởng về dân của Nho gia được hình thành rất sớm, trải qua quá trình
đấu tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và được chế độ chuyên
chế thừa nhận làm đạo lý, làm tinh thần lập pháp.
Khái niệm "dân" theo Khổng Tử bao gồm: sĩ, nông, công, thương. Sự
phân chia này không dựa trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây cũng
là bậc thang giá trị xã hội. Nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nơng khép kín, tự
cấp tự túc, công thương nghiệp chưa phát triển.
Khái niệm "dân" của Mạnh Tử lại gồm: kẻ sĩ, người cày ruộng, người
buôn bán và người đi đường. Kẻ sĩ là trí thức, muốn theo đuổi địa vị để kiếm
bổng lộc, người bn bán và người đi đường thì phần đơng là thương nhân kiêm
địa chủ. Cịn hạng mà Mạnh Tử gọi là "người cày ruộng" thực ra không cịn là
nhà nơng mà chủ yếu là bọn địa chủ mới có nơng sản đem bán. Cho nên khái
niệm dân của ơng chủ yếu là hạng trí thức, địa chủ và thương nhân.
Như vậy theo quan niệm của Nho giáo, dân thơng thường là những người
khơng có địa vị gì, cơng vụ gì trong bộ máy thống trị, cũng có khi bao gồm cả
mọi người trong một nước, trong thiên hạ nói chung. Trong kinh điển Nho gia,
ta cịn gặp những danh từ như: "Thứ dân", "lê dân", "thảo dân", "xích tử",
"thương sinh" cũng là để chỉ đơng đảo người dân lao động.
Mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà người đứng đầu
là vua, dân có vai trị rất lớn. Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò của dân
tới sự tồn vong của triều đình. Trong ba yếu tố để triều đình bền vững thì dân là
yếu tố quyết định. Ba yếu tố đó là: đất đai, nhân dân và chính sự. Về chính sự,
Nho giáo lại nhấn mạnh ba điểm: túc thực, túc binh, dân tín (nghĩa là lương thực
phải đủ để nuôi dân, binh lực phải mạnh để bảo vệ dân, lòng tin của dân, trong
đó lịng tin của dân là điều quyết định nhất).
Khơng phải ngẫu nhiên và tùy tiện mà Nho giáo đi tới chỗ coi dân là trời:
"Vua lấy dân làm trời". Lịch sử cho thấy mặc dù vua là "thiên tử", là "đấng chí
tơn" vâng mệnh trời để bình thiên hạ, là cha của muôn nhà, mẹ của muôn dân, là
kẻ chăn người (nhân mục), nhưng vua cũng chỉ là một con người. Dân rất hiền
lành, những thảo dân, lê dân, xích tử hiền như nước nhưng lại có sức mạnh to
lớn. Vua chúa muốn sống được phải nhờ đến dân. Dân "lao lực" làm ra lương
thực, vua chúa "lao tâm" để trị người thì phải ăn của người, cụ thể là ăn ở dân,
do dân nuôi. Nếu áp bức dân tàn bạo để dân phải vùng lên thì vua - người nắm
giữ trong tay quyền lực nhà nước chỉ đi tới chỗ diệt vong.
Mạnh Tử đã nêu lên một quan điểm nổi tiếng về mối quan hệ giữa vua, xã
tắc và dân: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Đây là tư tưởng tiến bộ,
đặc biệt là đối với một xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều
vua. Đem dân ra cân nhắc với vua, nêu rõ vai trò của dân trong thời loạn lạc,
khẳng định dân là quý, Mạnh Tử đã thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc của
mình. Mạnh Tử và các nhà Nho đều mong muốn có một cuộc sống hữu đạo,
một cảnh nước thịnh trị và thiên hạ thái bình với những quan hệ tốt đẹp giữa
người và người. Trong phạm vi cả nước, cả thiên hạ, mối quan hệ được nêu lên
trước hết là mối quan hệ "quân thần". Quan hệ giữa vua với dân là phần mở
rộng của mối quan hệ ấy.
Mạnh Tử cho rằng, quan trọng nhất là được dân hay mất dân, mà sở dĩ
được dân là vì được lịng dân và mất dân là vì mất lịng dân. Ơng so sánh và giải
thích rằng: được lịng dân thì làm đến ngơi thiên tử; được lòng thiên tử chẳng
qua làm đến chư hầu; được lòng với vua chư hầu chẳng qua làm đến quan đại
phu; vua Kiệt, vua Trụ mất thiên hạ vì mất dân, mất dân là vì mất lịng dân.
Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú trọng đến dân. Ông yêu cầu những người cầm
quyền phải biết lo đến hạnh phúc của dân, cùng dân hưởng phú quý, cùng dân
chịu sự lo lắng, như thế dân sẽ một lòng một dạ đi theo: "Người vui cái vui của
dân, thì dân cũng vui cái vui của mình; người lo cái lo của dân thì dân cũng lo
cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà khơng làm vương
thì chưa có vậy".
Ơng coi trọng việc cải thiện đời sống của dân là "điều gốc", là trách
nhiệm của người cầm quyền: "Đáng minh quân chế định tài sản của dân, ắt là
khiến cho ngửng lên đủ thờ cha mẹ, cúi xuống đủ nuôi vợ con, năm được mùa
thì no ln, năm mất mùa khơng đến nỗi chết. Được như thế rồi mới bắt dân
làm điều lành, thì dân làm điều lành dễ lắm".
Đề cập tới quan điểm này của Mạnh Tử, nhiều người cho rằng, Mạnh Tử
đã đi trước các nhà tư tưởng của cách mạng dân chủ tư sản Anh, Pháp gần 2000
năm.
Không thể phủ nhận quan điểm về dân của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ,
nhưng nếu đứng trên lập trường giai cấp mà xét thì ơng khơng có tư tưởng dân
chủ thực sự. Mặc dù Mạnh Tử đã thực sự dũng cảm khi nói: "dân vi q",
nhưng khơng có nghĩa là ơng có tư tưởng đấu tranh cho nhân dân làm chủ đất
nước, làm chủ sơn hà xã tắc, làm chủ vận mệnh của mình. Kể cả khi ơng chủ
trương một nền chính trị được lòng dân, quan tâm đến dân để làm cho "dân có
hằng sản", từ đó "có hằng tâm" thì cũng khơng ngồi mục đích điều hịa mâu
thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và nhân dân.
Tuân Tử khi nói về sức mạnh của dân đối với nhà nước đã chỉ rõ: vua là
thuyền, thứ dân là nước. Nước chở thuyền, nước có thể lật thuyền.
Khổng Tử khi nói về dân và chính sách trị dân đã nhấn mạnh các điều:
dưỡng dân, giáo dân và chính hình; trong đó dưỡng dẫn là yếu tố quan trọng.
Bất kỳ chính thể nào, nhà cầm quyền nào cũng phải coi trọng việc dưỡng dân.
Nếu khéo dưỡng dân thì nước trị, nhà cầm quyền được dân quý, ngược lại thì
nước loạn, dân sẽ bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn, chính quyền sớm muộn cũng bị
lật đổ. Dưỡng dân để làm cho dân no đủ, giàu có; đánh thuế nhẹ dân; khiến dân
làm việc hợp thời; phân phối bình qn để dân khơng bị bóc lột mà được no đủ.
Điều đó cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của dân
đối với nhà nước và quyền lực nhà nước, song họ đã không vượt qua được hạn
chế về mặt giai cấp và thời đại, do đó đối với Nho giáo khơng có tư tưởng dân
chủ thực sự, tất cả đều nhằm nắm chặt lấy dân để dễ bề sai khiến, cai trị.
Mặc dù vậy, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ giữa dân với
quyền lực nhà nước vẫn hàm chứa nhiều giá trị mà người cầm quyền xưa và nay
khơng thể khơng chú ý. Đó là:
- Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân. Dân là quý, dân như nước,
vừa chở thuyền vừa lật thuyền, cho nên muốn làm vua chúa, muốn cầm quyền
thì phải tranh thủ dân và nắm lấy dân. Tranh thủ được dân chúng thì làm thiên
tử, được dân là được cả thiên hạ. Người làm vua phải theo lòng dân, phải thuận
lòng dân, phải biết thích cái thích của dân, ghét cái ghét của dân. Người cầm
quyền theo lòng dân mà trị tất sẽ được dân yêu mến.
- Giữ gìn sinh mệnh và dè xẻn tài sản của dân. Người cầm quyền phải
biết sử dụng sức người, sức của cho phù hợp tránh sự lạm dụng, phí phạm sức
dân và tài sản của dân. Có như vậy lịng dân mới n, xã tắc mới bền vững.
Tư tưởng của Nho giáo về vai trò của dân sau này được các nhà tư tưởng
Việt Nam kế thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với dân tộc. Trên thực tế, các
khái niệm có hình thức Khổng giáo nhưng nội dung bên trong lại chứa đựng tư
tưởng, tình cảm, tín ngưỡng và tâm lý Việt Nam.
Thời Lý - Trần, sự quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của nhân dân
được xem là việc hàng đầu của đạo trị nước, "ý dân", "lòng dân" đã trở thành
căn cứ, mục đích cho những chủ trương chính trị lớn.
"Chiếu dời đô" nổi tiếng của Lý Công Uẩn đã khẳng định: Trên vâng
mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu
dài, phong tục phồn thịnh.
Trần Quốc Tuấn với tư tưởng "khoan thư sức dân để làm kế sâu bền gốc
rễ", coi đó là "thượng sách để giữ nước" đã nhìn rõ nhân dân là nơi chứa chất
tiềm lực về kinh tế và quốc phòng, bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập
và chủ quyền đất nước.
Nguyễn Trãi xem dân là gốc của nước, dân có quan hệ tới sự yên nguy
của triều đại. Dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có vai trò quyết
định đến sự ủng hộ hoặc phế truất nền thống trị của một triều đại, một ơng vua.
Vì vậy, theo ông, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Thấy được vai trị của dân khơng phải là ngẫu nhiên đối với các nhà tư
tưởng Việt Nam. Mặc dù lập trường phong kiến đã hạn chế nhãn quan của họ,
nhưng là những nhà yêu nước lớn, đứng ở đỉnh cao của phong trào yêu nước lúc
bấy giờ, họ đã thấy được yêu cầu phải cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh của
dân tộc nên đã vượt qua được những hạn chế giai cấp vốn có của mình.
Đến Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã phát triển đến một tầm cao mới.
Dân là số đông, là làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Lấy dân làm gốc ở Hồ Chí Minh không phải chỉ xem dân là lực lượng
dời non lấp biển mà cịn là mục đích, xem mọi hoạt động chính trị đều vì dân,
xây dựng nền chính trị của dân, do dân, vì dân. Điều quan trọng ở đây là Người
đã đưa truyền thống yêu nước thương dân và hệ thống hoạt động của dân, do
dân, vì dân thành một nội dung cơ bản để xây dựng Đảng cộng sản và chế độ
chính trị xã hội ở Việt Nam.
1.2. Đường lối trị nước Nho giáo vạch rõ thực chất của việc cai trị:
Cai trị con người, xã hội không phải chủ yếu dựa vào vũ lực, thần quyền,
của cải mà cai trị bằng giáo dục, giáo d ưỡng, bằng thu phục nhân tâm. Nho
giáo vừa là một hệ tư tưởng, vừa là các phép tắc có tính chất quy chế làm chuẩn
mực để giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống. Các khái niệm tưởng chừng thuần
túy đạo đức lại mang tính chính trị cao. "Nhân", "Lễ", "Chính danh", khơng chỉ
là khái niệm, là ngun lý đạo đức cơ bản mà còn là hạt nhân trong học thuyết
chính trị của Nho giáo, là đường lối trị nước của Nho giáo.
1.2.1. Nhân trị và Lễ trị:
a)Nhân trị :
-Chữ nhân gồm chữ nhân và chữ nhị hợp lại. Theo Trần Trọng Kim, nhân
có nghĩa là mọi người với nhau như một. Theo Nguyễn Hiến Lê, nhân là tình
người này đối với người khác.
-Chữ nhân trong học thuyết của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng, bao hàm
nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tùy theo
trình độ, hồn cảnh mà ơng diễn đạt nội dung của nó một cách khác nhau.
-Chữ nhân gồm chữ nhân và chữ nhị hợp lại. Theo Trần Trọng Kim, nhân
có nghĩa là mọi người với nhau như một. Theo Nguyễn Hiến Lê, nhân là tình
người này đối với người khác.
-Chữ nhân trong học thuyết của Khổng Tử có ý nghĩa rất rộng, bao hàm
nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ thể, tùy theo
trình độ, hồn cảnh mà ơng diễn đạt nội dung của nó một cách khác nhau.Khổng
Tử cho rằng do sự chi phối của "thiên lý", của "đạo", các sự vật hiện tượng
trong vũ trụ ln biến hóa không ngừng.
- Đạo sống của con người là phải "trung dung", "trung thứ", nghĩa sống
đúng với mình và đúng với người -đó là nhân.
-Khổng Tử nói nhiều về "nhân", nhưng tóm lại, có thể thấy nhân là
Người, là lịng người, là thương người. Đạo nhân là cái trời phú cho con người,
ở cái tâm của con người, đó là lịng thương người. Điều đó được thể hiện ra ở
hai điều cốt yếu: "Người nhân là mình muốn lập thân thì cũng mong muốn giúp
người lập thân, mình muốn thơng đạt thì cũng muốn giúp người thơng đạt" và
"điều gì mình khơng muốn thì chớ đem đối xử với người", "phải suy xét mình
để suy xét người".
-"Nhân" là đức tính hồn thiện, là cái gốc đạo đức của con người nên
nhân chính là đạo làm người. Đức nhân bao gồm tinh túy của tất cả các đức
khác. Trong bất kỳ mối quan hệ nào, nếu hỏng về đức riêng thuộc mối quan hệ
ấy thì đồng thời cũng là trái với đức nhân, chẳng hạn như: không trung thực với
người khác, không nghiêm khắc với kẻ sai trái lầm lỗi, khơng cung kính với bề
trên... đều trái với đức nhân.
-Người muốn đạt nhân, theo Khổng Tử phải là người có "trí","dũng".Nhờ
có lý trí, con người mới sáng suốt minh mẫn để hiểu được đạo lý, xét đoán sự
việc, phân biệt phải trái, thiện, ác để trau dồi đạo đức và hành động hợp với
"thiên lý". Nếu không cịn trí sáng suốt nữa thì chẳng những khơng giúp được
người mà cịn hại đến thân mình. Trí khơng phải ngẫu nhiên mà có, nó chỉ có
được trong q trình người ta học tập tu dưỡng. Mục đích cao nhất của việc học
không chỉ để biết "đạo", "khắc kỷ phục lễ vi nhân" mà để ra làm quan, tham gia
việc chính trị quốc gia.
-Nhân cịn bao hàm cả "nghĩa". Theo "nghĩa" là việc gì đáng làm thì làm,
khơng hề tính lợi cho mình.Một điều cần chú ý là Khổng Tử quan niệm: chỉ có
người quân tử mới có "nhân". Trong kinh điển Nho giáo, những gì tốt đẹp, tiêu
biểu của con người đều quy vào người quân tử. Còn đám đơng tiểu nhân là
những người khơng có trí tuệ, khơng có đạo đức, vất vả chân lấm tay bùn để
cung đốn cho người qn tư thì khơng có "nhân".
-Nhân khác với từ bi của đạo Phật bởi Phật thương người và thương cả
vạn vật, nhưng lịng thương của Phật có một nỗi buồn vô hạn, buồn cho sự mê
muội của sinh linh, tìm cách giải thốt cho mọi sinh linh ra khỏi vòng sinh, lão,
bệnh, tử. Nhân của Khổng Tử giúp con người ta sống tốt đẹp hơn, hoàn thiện
hơn ngay chính trên mảnh đất hiện thực của mình.
-Đề cập đến đạo Nhân với tính cách là trung tâm trong tồn bộ học thuyết
chính trị, đạo đức của mình, các nhà Nho nâng lên thành đường lối trị nước:
Nhân trị -tức trị dân bằng đức nhân. Đức nhân là một đòi hỏi bắt buộc,nghiêm
khắc nhất đối với kẻ làm quan cai trị dân. Những người làm quan, các bậc vua
chúa đều phải có đức nhân -đó là yêu cầu tối thượng. Nho giáo chú trọng lấy
đạo đức để thực hành chính trị. Kẻ trị dân phải tu thân, sửa mình, làm gương
cho dân, hướng theo điều thiện. Nhờ đó cảm hóa được dân chúng, dân chúng
phục mà nghe theo, chứ không dùng bạo lực thô bạo để ép buộc.
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức, Khổng Tử đồng
thời cũng đề cao yêu cầu về cái tài của kẻ trị dân. Cái tài đó nhằm giúp họ làm
việc sáng suốt và biết tu dưỡng đức nhân một cách tốt nhất. Nếu kẻ cai trị chỉ có
lịng thương dân thuần túy thì khơng đủ. Phải có tài (trí) thì mới có sự sáng suốt
trong khi làm việc, ít sai lầm trong việc trị nước.
-Ông nhấn mạnh sự tu dưỡng bản thân. Đó chính là "tận tâm", "dưỡng tính",
"dưỡng khí hạo nhiên".Xuất phát từ nhân tính trong thuyết tính thiện, ơng cho rằng con
người sinh ra vốn có tính thiện, có lịng trắc ẩn, lịng hổ thẹn, lịng cung kính, lịng phân
biệt thị phi. Bốn tâm tính đó được coi là bốn mối của nhân, lễ, nghĩa, trí, địi hỏi con
người phải ni dưỡng nó, làm cho nó phát triển lớn mạnh. Có như vậy mới có thể tu
dưỡng mình trở thành bậc qn tử nhân Đức. Ơng cịn chỉ rõ mục đích của việc tu dưỡng
đạo đức, tu dưỡng khôngphải để mà tu dưỡng mà là vì sự yên ấm, ổn định và phát triển
của xã hội, làm cho thiên hạ thái bình.
=> Tóm lại, từ nhân đến nhân trị đó chính là tư tưởng về đường lối trị nước của
Nho giáo. Nét độc đáo và sâu sắc của tư tưởng này là ở chỗ: Nho giáo đã đặt đạo đức với
chính trị trong mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Đạo đức là nền tảng của chính trị. Chính trị
là sự tiếp tục của đạo đức, phải lấy đạo đức làm gốc. Đây cũng là điểm độc đáo của triết
lý phương Đông so với các học thuyết phương Tây.
b)Lễ trị:
Chữ Lễ trước tiên dùng để chỉ việc thờ cúng, tế lễ, sau dùng rộng ra nó
bao gồm cả phong tục tập quán mà xã hội thừa nhận, sau cũng chữ Lễ cịn có
nghĩa rộng: nó là thể chế, là quyền uy.
Lễ là một cơng cụ chính trị mạnh mẽ và là vũ khí của một phương
pháp trị nước đắc lực mà Nho giáo đã cống hiến cho nhiều triều đại đế
vương. Phương pháp ấy là phương pháp lễ trị. Lễ là một phần rất quan trọng
trong toàn bộ Khổng học. Riêng về lễ, có cả một kinh gọi là Lễ ký. Trong
suốt thời Tây Chu, từ Chu Công Đán về sau, những quy định về lễ rất nhiều,
rất tỉ mỉ và chặt chẽ.
Trong gia đình, làng mạc, đất nước và thiên hạ, thậm chí trong trời
đất, con người đã bị đặt trong bao nhiêu mối quan hệ thì cũng phải có bấy
nhiêu "mạng lưới" quy định cụ thể. Cái mạng lưới mênh mơng bao trùm lên
tồn cõi gọi là lễ. Trước bối cảnh "lễ hư nhạc hỏng", Khổng Tử muốn dùng
lễ để khôi phục lại trật tự phép tắc, luân lý xã hội, đưa xã hội trở về với đạo.
Lễ quy định một cách nghiêm ngặt các mối quan hệ giữa vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bè bạn (Ngũ luân). Trong năm mối quan hệ ấy, có ba mối
quan hệ cơ bản (Tam cương): vua tôi, cha con, chồng vợ.
Trong các mối quan hệ đó, mỗi người phải theo địa vị, danh phận của
mình làm theo lễ. đó là "vua dùng tôi nên theo lễ, tôi thờ vua theo đạo
trung", "cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha theo đạo hiếu", "anh em
với nhau phải giữ chữ đễ" tức là phải yêu thương nhường nhịn nhau, "vợ
chồng đối với nhau cũng phải giữ lễ", "bạn bè phải giữ chữ tín". Trong sách
Luận ngữ, cái gọi là "lễ" của Khổng Tử cịn có những điều sau:
- "Nén hết thèm muốn riêng tư cho lễ trở lại, đó là có đạo nhân. Một
khi đã nén được thân mình cho lễ trở lại thì thiên hạ sẽ quay về với đạo
nhân".
- "Trái với lễ thì khơng nhìn, trái với lễ thì khơng nghe, trái với lẽ
khơng nói, trái với lễ không làm"
- "Người trên yêu chuộng lễ thì dân nào dám khơng tơn kính. Người
trên u chuộng đạo nghĩa thì dân nào không dám không phục tùng".
Như vậy, "lễ" mà Khổng Tử nói tới khơng những là một thứ ngun
tắc về chính trị, một văn bản nghi tiết mà cịn là một thứ chế độ. Trong các
tầng lớp do chế độ đẳng cấp tạo ra thì có một loại thước đo để phân biệt họ,
do đó mà có danh để đặt ra đạo nghĩa, đạo nghĩa để đặt ra lễ. Đó chính là
nguồn gốc của cái gọi là "dùng lễ để cai trị".
Mạnh Tử, đối với đức lễ, cũng như đối với các đức nhân, nghĩa, trí đã
tìm ra đầu mối của nó trong tâm con người. Đầu mối ấy là lòng từ nhượng.
Do đầu mối ấy mà trên con đường hành đạo, người ta có những "sở đắc" như
cung kính, khiêm tốn, nhường nhịn... gồm chung cả một đức lớn là lễ.
Bàn về lễ, Tuân Tử còn đi xa hơn cả Khổng Tử và Mạnh Tử. Khi nói
về khởi nguyên của Lễ, ơng cho rằng: Lễ có ba cái gốc: trời đất là cái gốc sự
sinh, tiên tổ là cái gốc chủng loại, vua và thầy là cái gốc của sự trị. Khơng có
trời đất thì ở đâu mà sinh, khơng tiên tổ thì ở đâu mà ra, khơng có vua có
thầy thì lấy đâu mà trị. Ba điều ấy mà thiếu đi một là người ta không yên
được. Cho nên trên thờ trời, dưới thờ đất, tôn tổ tiên, trọng vua và thầy, ấy là
ba gốc của lễ vậy.
Tuân Tử cho rằng, bản tính con người là ác, do vậy thánh nhân phải
dùng Lễ để uốn nắn, cải hóa cái ác. Ơng giải thích nguồn gốc sinh ra lễ:
Người ta sinh ra là có lịng mong muốn, muốn mà khơng được thì khơng thể
khơng tìm, tìm mà khơng có chừng mực, giới hạn thì khơng thể khơng tranh.
Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét cái loạn cho nên chế lễ
nghĩa để phân ra trật tự, để ni cái muốn của con người, cấp cái tìm của con
người...
Theo ơng, lễ đối với kẻ q thì kinh, đối với kẻ giả yếu thì hiếu thảo,
đối với kẻ lớn thì thuận, đối với người trẻ thì từ thiện, đối với kẻ hèn thì ân
huệ.
Khi nói về vai trị của lễ đối với quốc gia, ông cho rằng: lễ đối với
việc quốc gia như quả cân và cán cân đối với sự nặng nhẹ, như dây và mực
ốc đối với đường thẳng đường cho nên người mà khơng có lẽ thì khơng sinh,
việc khơng có lợi ích thì khơng nên, quốc gia khơng có lễ thì khơng n. Là
người trọng lễ, Tuân Tử cho là bất kỳ việc gì thế khơng có lẽ là hỏng. Đặc
biệt đối với người cai trị:
Lễ là cái cùng cực của sự trị và sự biến biệt, cái gốc của sự làm cho
nước mạnh, cái đạo của uy hành, cái cốt yếu của công danh. Bậc Vương
cơng theo đó mà được thiên hạ, khơng theo đó thì làm hỏng xã tắc.
Trong hệ thống lý luận của Tuân Tử, cái lễ còn mang nội dung của
pháp luật. Cái lễ của nội bộ tầng lớp thống trị và pháp luật để thống trị tiểu
nhân – đó là cái mà Tuân Tử gọi là pháp độ. Ơng nói: “lễ tức là cái phận lớn
của pháp luật vậy”. Lý luận ấy của Tuân Tử thực sự làm nhịp cầu cho sự quá
độ từ chủ nghĩa cai trị bằng lễ của Khổng Mạnh đến chủ nghĩa cai trị bằng
pháp luật của Hàn Phi, Lý Tư sau này.
Có thể nói, lễ là một cái lưới bủa ra rất rộng và xiết lại hết sức chặt
chẽ. Chỗ tinh vi của Nho giáo là đã đóng khung ý nghĩ nghĩ và hành động
của con người vào phạm vi thực hiện những quy tắc nghiêm ngặt của cuộc
sống. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các xã hội theo Nho giáo đã giữ được
sự ổn định trong gia đình và trật tự ngoài xã hội. Lễ trở thành điều kiện quan
trọng bậc nhất trong việc trị quốc, tề gia. Lễ trị của Nho giáo xiềng xích con
người từ khi lọt lịng cho đến chết, từ trong chiếc nơi gia đình ra đến đất
nước. Lễ Nho giáo xiềng xích con người trong cái vỏ êm dịu, khoan hịa,
trang trọng. Đó chính là điều mà các thế lực phong kiến thống trị chị ngày
xưa của Trung Quốc cũng như của Việt Nam để gị chặt cả dân, cả nước
trong vịng tơn ti trật tự, cai trị cứ việc sai khiến, kẻ phụng sự cứ việc phụng
sự Trong việc cai trị dân, lễ hay hơn hình phát ở chỗ lễ ngăn cấm việc chưa
xảy ra, cịn hình phát cấm sau này đã xảy ra, lễ giúp người ta xa điều ác từ
khi chưa nảy mầm để ngày càng gần với điều thiện. Tuy nhiên, cũng phải
thấy lễ trị của Nho giáo đã kìm hãm cuộc sống của con người một cách dai
dẳng, đặc biệt với phụ nữ và đông đảo nhân dân lao động dưới thời phong
kiến.
1.2.2. Chính danh:
Cuối thời Xuân Thu-Chiến Quốc, tình hình xã hội hết sức rối loạn.
Trước mắt các nhà nho là những vấn đề:
-Sự hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận.
-Các chư hầu xâm lấn và thơn tính lẫn nhau.
-Sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân với lãnh
chúa phong kiến.
-Quan hệ cơng pháp rối loạn.
Đứng trước tình hình đó, các nhà nho chủ trương lấy thuyết “chính
danh” làm vũ khí để củng cố trật tự nội bộ phong kiến, ổn định xã hội.
Theo Khổng Tử, sự hỗn loạn của quan niệm danh phận, đẳng cấp, sự
sa sút của thiên tử nhà Chu, sự suy yếu của các chư hầu địa phương,... Tất cả
những tình trạng đó khơng chỉ phá hoại trật tự xã hội phong kiến mà còn là
mối nguy cơ chính trị rất lớn thời bấy giờ. Vì thế muốn cứu vãn nguy cơ
chính trị thời đó trước hết phải khôi phục uy quyền của lãnh chúa tối cao
(tức là thiên tử), phải ngăn chặn những việc vượt quyền, mỗi người phải biết
giữ danh phận của mình mới có thể làm nên chính trị có đạo, phải “chính
danh” để xác định lại danh phận, đẳng cấp...
Theo Khổng Tử, danh về thực phải hợp với nhau, nếu khơng hợp với
nhau thì gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận không xuôi, mọi việc
khơng thành, hình pháp khơng định được mà xã hội sẽ hỗn loạn.
Để thực hiện “chính danh”:
-Mọi người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình.
Đối với người cai trị, Khổng Tử quan niệm: ông vua là người được
trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho dân,
dạy dỗ dân để dân được sống n ổn. Làm trịn nhiệm vụ đó là danh xứng
với thực.
Yêu cầu chính danh đối với người cai trị là hết sức tích cực, nhưng
trong điều kiện chính trị xã hội thời đó, khó thể thực hiện. Do đó đối với bọn
vua chúa phong kiến thích vượt quyền, khơng chịu danh phận của mình,
khơng tự giác, Khổng Tử chủ trương đánh dẹp, do thiên tử chủ trì, thậm chí
mọi người đều có thể đánh dẹp.
-Ai ở địa vị nào cũng phải làm tròn trách nhiệm ở địa vị ấy, danh phận
ấy, không được việt vị.
Đây là điều mà Khổng Tử chú trọng: ai giữ phận nấy, cứ theo đúng tổ
chức xã hội có tơn ti, chặt chẽ thì nước sẽ trị, thiên hạ sẽ có đạo, ở đây thể
hiện tư tưởng điều hòa giai cấp của Khổng Tử, mặt khác buộc người cầm
quyền phải có tài đức xứng đáng với danh vị của họ.
Chính danh là mối quan hệ hai chiều: quân trung thì thần trung, phụ từ
thì tự hiếu... Để có được cái đạo đức xã hội ấy thì phải giáo dục. Giáo dục
chính là cái gốc lâu bền tạo ra cái đức, để con người có được đức nhân, sống
theo lễ và trở về với chính danh.
Chính danh của Khổng Tử là ảo tưởng vị đương thời danh và thực
mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thức là đời sống xã hội, trật tự xã hội đã có
nhiều biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế nhà Chu
khơng cịn phù hợp nữa, do đó mà khơng thể thực hiện được. Tuy nhiên
thuyết chính danh vẫn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đó là:
+Muốn cho xã hội ổn định, người cầm quyền phải có đức, có tài, xứng
với danh vị đã có.
+Mọi người trong xã hội phải tự giác giữ lấy danh phận của mình theo
tơn ti, trên ra trên, dưới ra dưới.
Nhìn chung, Nhân, lễ , chính danh khơng chỉ là các chuẩn mực, các
khái niệm đạo đức đơn thuần mà cịn mang tính chính trị cao. Nó trở thành
thành Nhân trị-chính danh với tính cách là đường lối trị nước của Nho giáo.
Nhân, lễ, chính danh có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhân là nội dung, lễ là
hình thức biểu hiện của nhân; nhân là gốc, lễ là ngọn; nhân để khôi phục lễ,
để trở về với chính danh, xã hội trở về với đó là hồi bão của Nho gia về chế
độ phong kiến có kỷ cương, thái bình, thịnh trị .
Chương 2:
Sự du nhập và tác động của Nho gia đến đời
sống chính trị Việt Nam.
1.1. Sự du nhập của Nho gia:
Nho giáo và học thuyết chính trị - xã hội của nó đã và đang là một vấn đề
được quan tâm nghiên cứu trong giới học thuật ở Việt Nam, bởi sự ảnh hưởng
của nó đến đời sống chính trị - xã hội Việt Nam trong lịch sử và đến nay, vẫn
cịn có ảnh hưởng nhất định.
Nho giáo đã du nhập vào đời sống xã hội, chính trị Việt Nam từ rất sớm
cùng với sự xuất hiện của lực lượng phong kiến phương Bắc. Sau thời Bắc
thuộc, học thuyết Nho giáo đã được nhà nước phong kiến Việt Nam áp dụng
nhằm thực hiện ổn định trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển, hưng thịnh. Điều
này thể hiện rõ nét nhất trong đời sống tinh thần và hoạch định đường lối cai trị
đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê
sơ, Nguyễn...
Tồn tại trong xã hội phong kiến Việt Nam suốt thời gian dài và có sự giao
thoa với các tư tưởng Việt Nam truyền thống cũng như trong mối quan hệ với
đạo Phật – Lão, Nho giáo ngày càng được nhìn nhận, được chọn lựa như là một
hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị của các triều đại phong kiến Việt
Nam trong việc hoạch định chính sách cai trị đất nước. Sự ảnh hưởng của học
thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam được
thể hiện, phản ánh qua đường lối cai trị đất nước của giai cấp phong kiến Việt
Nam qua phương pháp đức trị, nhằm thực hiện những chế định pháp luật để duy
trì chế độ phong kiến, tạo nên sự ổn định trong các mối quan hệ cá nhân cũng
như xã hội. Ngoài ra, đặc biệt hơn nữa là một hệ thống giáo dục – khoa cử,
tuyển chọn nhân tài cho đất nước, quốc gia.
1.2. Tác động của Nho gia đến đời sống chính trị Việt Nam:
1.2.1. Tác động tích cực:
•
Xây dựng nền chính trị vì dân
Một trong những giá trị nổi bật của Đức trị Nho giáo là kêu gọi nhà cầm
quyền hướng về dân và quan tâm đến dân. Đức trị dương cao ngọn cờ Vương
đạo,chủ trương dùng đức để trị dân, bảo vệ dân. Đường lối Vương đạo được đặt
trên nền tảng lớn là: Thiên ý dân tâm(ý trời và lòng dân là một); Qn dân
tương thân(chính trị phải hợp với lịng dân); Thứ, Phú, Giáo dân (làm dân có
nhiều, dân giàu, dạy cho dân biết lễ nghĩa) và ái dân.
Có thể nói, Đức trị Nho giáo một trong những học thuyết chính trị-đạo
đức đầu tiên đặt vấn đề lấy con người làm cơ sở xuất phát cho các chủ trương
chính trị. Mặc dù tư tưởng “vì dân” của Đức trị khơng có khả năng thực hiện
hóa bởi nó được xây dựng trên nền tảng chính quyền của dân, do dân, nhưng
ngày nay tư tưởng đó vẫn cịn giá trị khi chúng ta khai thác, vận dụng việc xây
dựng một nền tảng chính trị vì dân.
Xây dựng nền chính trị vì dân trở thành tư tưởng nhất quán, xuyên suốt
quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. Người
không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền nhận thức là cịn địi hỏi tư tưởng đó
phải thực hiện trên thực tế. Trong khi cầm quyền, Người đã tuyên bố và từng
bước tổ chức hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước sao cho đó là cơng cụ của
dân và cán bộ Đảng. Nhà nước là nô bộc của dân. Dưới sự lãnh đạo của Người,
những người cộng sản Việt Nam đã khơi dậy, kế thừa và làm phong phú truyền
thống dân tộc về văn hóa, đạo đức chính trị cũng như kinh nghiệm quản lý đất
nước, tinh thần độc lập tự chủ, đấu tranh bất khuất chống mọi nơ dịch áp bức,
tình thương người, lịng nhân nghĩa của ơng cha để xây dựng nền chính trị vì
dân.
Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã căn
dặn các cán bộ: “nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều vì dân..., chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân cử
ra... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Người còn chỉ rõ: “Các cơng việc của chính phủ làm phải nhằm vào mục
đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên chính phủ bao
giờ cũng phải đặt quyền lợi của nhân dân lên hết thảy”.
Nội dung này đã hàm chứa tư tưởng: chế độ dân chủ thực chất là chế độ
ủy quyền của nhân dân vào nhà nước - cơ quan quyền lực của dân. Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tức là chế độ trong đó người dân làm chủ. Nói tới xây dựng thể
chế, trước hết là xây dựng chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị vững mạnh
và có hiệu lực phải là thể chế có khả năng giải quyết, điều tiết đúng đắn, hợp lí
các mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích và trách nghiệm. Nhân dân
là chủ thể quyền lực nhà nước và nhà nước là chủ thể thực hiện ủy quyền. Nhân
dân là chủ thể quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhà nước phục vụ dân
chúng và đân chúng phải có trách nghiệm xây dựng nhà nước của mình.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về việc xây dựng một chính quyền mạnh mẽ,
sáng suốt đã được thực hiện trên thực tế. Thực hiện cuộc sống trong suốt 57
năm qua Nhà nước ta cho thấy, Nhà nước ta đã phát triển từ hình thức thấp đến
hình thức cao, từ Nhà nước dân chủ từng bước lên nhà nước kiểu mới – Nhà
nước XHCN - Nhà nước của dân, do dân, vi dân. Nhà nước trở thành công cụ
sắc bén trong công trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Nhà nước ta có khơng ít những thứ
khuyết tật: quan liêu, xã dân, vi phạm quyền hạn của nhân dân, không ít cán bộ
nhân viên tham nhũng, thối hóa, biến chất; phân tán hoạt động, thiếu ký luật,
kỷ cương; cán bộ thiếu kiến thức khoa học trong tổ chứ và quản lý.... Những
hiện tượng đó làm xói mịn bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới, làm suy
yếu hiệu lực quản lý của nó trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xây dựng nền chính trị vì dân trước hết phải bắt đầu xây dựng và hoàn
thiện nhà nước, khắc phục sửa chữa những khuyết tật, thiếu sót, làm cho máy
nhà nước có hiệu lực và hiệu quả cao, xứng đáng với lòng tin yêu của nhân dân.
Xây dựng nên chính trị vì dân, “lấy dân làm gốc ” đã trở thành bài học về
lịch sử vô giá của cách mạng nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khẳng
định: “Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư thưở lấy dân
làm gốc”, “mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động, phải khởi động đồng tinh
hưởng ứng dụng của quần chúng”.
Công cuộc đổi mới đã đem lại những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ
mặt đất nước, cải thiện một bước rất căn bản trong đời sống của nhân dân.
Nhiều chủ trương lớn từ dân, do dân, vì dân được đề ra. Chủ trương xóa 50 vạn
hộ nghèo, tập trung vốn vay cho dân sân xuất, mở mang các khu kinh tế - quốc
phòng ở các vùng rừng núi heo hút, xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở để cán
bộ, đảng viên biết người nghe quần chúng ... đó là những cuốn sách lớn, đầy
tính nhân bản, thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Đảng.
•
Xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước
Loại bỏ các tổ chức duy tâm trong thuyết “chính danh” của Khổng tử, có
thể khai thác yếu tố tích cự của nó trong cơng việc xác định chức năng, nhiệm
vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
đặc biệt trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Tất nhiên “chính danh” ở
đây mang ý nghĩa: tổ chức nào có chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó, khơng
“lấn sân”, bao biện, làm thay.
Thực hiện tiền cho thấy:
Sự lẫn lộn chức năng giữa Đảng với Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng
vừa bao biện làm thay, vừa bng trơi khốn trắng cho Nhà nước, làm cho Nhà
nước khó phát huy vai trị chủ động, sáng tạo trong cơng việc thực hiện, nhiệm
vụ của minh, vừa thụ động ỷ lại vào sự lãnh đạo của cơ quan Đảng, vừa lúng
túng, do dự không muốn chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Vì vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cần phải phân định rõ chức
năng đối với Đảng và Nhà nước có cơ cấu tổ chức và hoạt động đúng đắn nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nâng cao vai trò
và hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Có thể khái quát sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như
sau:
Trên cơ sở và nguyện vọng của nhân dân lao động, Đảng để ra cương
lĩnh, chủ trương, đường lối, chính sách định hướng cho sự phát triển của Nhà
nước và toàn xã hội trong từng thời kỳ nhất định.
Đảng lãnh đạo toàn diện, tức là lãnh đạo tất cả các cơ quan Nhà nước (lập
pháp, hành pháp, tư pháp), hoạt động của Nhà nước ở tất cả các cấp. Đảng lãnh
đạo cả xây dựng, hoàn thiện bộ máy tổ chức lẫn hoạt động của Nhà nước và
đoàn thể. Khơng có lĩnh vực hoạt động nào của Nhà nước nằm ngoài sự lãnh
đạo của Đảng.
Đảng phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ bố trí vào bộ máy Đảng,
đồng thời giới thiệu các cơ quan nhà nước những cán bộ có phẩm chất và năng
lực.
Kiểm tra mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
chủ trương, đuờng lối của Đảng.
Đảng giáo dục, tổ chức cho đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, giáo
dục tầng lớp nhân dân thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
Từ nội dung cơ bản về chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là
sự lãnh đạo chính trị, mang tính chất định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước có
thể độc lập tổ chức máy, bố trí cán bộ, viên chức, hoạt động đúng chức năng,
quản lý, điều hành bằng những công cụ, biện pháp của Nhà nước. Đảng lãnh
đạo Nhà nước để bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng chức năng của nó
để quản lý kinh tế - xã hội một cách hiệu quả nhất.
Trong điều kiện đổi mới toàn diện hiện nay, chức năng quản lý của Nhà
nước có thể khái quát như sau:
Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật,
xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hóa chiến lược đó thành kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và
nằn lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có
chất lượng; xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm và tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; đảm
bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo luật định; nghiêm trị những
hành vi tham nhũng vi phạm quyền làm chủ của công dân.
Sự phân định chức năng của Đảng và Nhà nước đòi hỏi phải xác định
đúng đắn mối quan hệ giữa các cơ quan đảng và nhà nước. Mối quan hệ đó phải
được cụ thế hóa thành các quy định bảo đảm cho các cơ quan đảng và nhà nước
thực hiện đúng chức năng của mình. Mối quan hệ đó phải được cu thế hóa thành
các quy định bảo đảm cho cả cơ quan đảng và cơ quan nhà nước thực hiện đúng
chức năng của mình. Các cơ quan, tổ chức Đảng và đảng viên phải tuân thủ
pháp luật, hoạt động trong khuôn khố Hiển pháp và pháp luật; phải tôn trọng
quyền hạn của cơ quan nhà nước.
Từ ý nghĩa chính trị sâu sắc của thuyết "chính danh" Nho giáo, có thể
khai thác và vận dụng nó vào việc xác định chức năng, quyền hạn của các tổ
chức trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, làm cho các tổ chức đó tránh
được tình trạng chồng chéo chức năng, hoạt động thiếu hiệu quả. Đặc biệt, trong
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, việc xác định rõ chức năng sẽ góp phần
đưa Đảng ta vươn lên ngang tầm một Đảng lãnh đạo chính quyền, có trọng trách
lãnh đạo tồn dân xây dựng thành cơng CNXH, đồng thời Nhà nước cũng đổi
mới cơ bản tổ chức và hoạt động của mình bảo đảm nâng cao hiệu lực quản lý
đổi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Tác động tiêu cực:
Đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là thành tựu chung của nhân loại, là phương tiện để
con người vươn tới những giá trị mới cao hơn, tốt đẹp hơn.
Đổi với nước ta, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thực chất là hình
thức hồn thiện nhà nước, là làm cho sự phát triển của đất nước theo định
hướng XHCN có cơ sở pháp lý của nó chứ khơng đơn giản chi là ước mơ, là
đạo đức thuần túy với những khái niệm trừu tượng.
Quan điểm đổi mới cơ bản nhà nước ta theo hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN đã được khẳng định tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ - khóa VII (1994) và Hội nghị lần thứ 8 - khóa VII (1995) của Ban
chấp hành Trung ương. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX cũng
đều khẳng định chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyển Việt Nam. Đây là
một chủ trương đúng đắn và phù hợp với điều kiện nước ta. Thực tế cho thấy,
nhiều vấn đề trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội sẽ bị rối loạn, không thể thực
hiện được nếu khơng có một nhà nước pháp quyền vững mạnh với hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, khả thi.
Ở nước ta, Cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ chính quyền phong kiến và
thực dân, đồng thời xóa bỏ những tàn dư trong tư tưởng Đức trị của Nho giáo,
thay vào đó là đạo đức cách mạng và pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân.
Tuy nhiên, việc xây dựng cái mới không phải đơn giản. Pháp luật và đạo đức
mới không phải dễ dàng đi vào mọi mặt của đời sống xã hội. Với hàng ngàn
năm tồn tại, tư tưởng đức trị của Nho giáo đã ăn sâu vào tiềm thức của người
dân Việt Nam. Những tàn dư của nó đang trở thành lực cản đổi với quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Do ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị, ở nhiều nơi, nhân dân vần chi quen
sống theo công thức đạo đức đã trở thành tập quán mà không sống theo quy
định của pháp luật.
Phong tục, tập quán là những phạm trù lịch sử. ở mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định, theo yêu cầu của sự phát triển xã hội đều có những tập quản tốt và
ngược lại có cả những phong tục tập quán xấu. Khi phù hợp với yêu cầu phát
triển của xã hội, phong tục tập quán là một phương thức phản ánh bản sắc văn
hóa dân tộc, có tác dụng điều chinh hành vi của con người, giữ vai trò to lớn
trong việc điều tiết, ổn định xã hội. Khi không phù hợp, phong tục, tập quản trở
thành nhân tổ cản trở sự phát triển xã hội.
"Phép vua thua lệ làng" là một tập quán có ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. "Phép vua thua lệ làng" chi tình
trạng nhân dân các làng xã trước đây đề cao các tập quán của mình, coi các tập
quán đó như quy tắc cơ bản của đời sống. Vì vậy, dù sống dưới chế độ quân chủ
chuyên chế phong kiến nhưng nếu phép vua đi ngược với các tập qn làng xã
thì nhân dân ở đó vẫn không tuân theo mà vẫn thực hiện theo tập qn của
mình.
Chúng ta khơng hể phủ nhận rằng trong lịch sử, “lệ làng” đã có tác dụng
cố kết cộng đồng làng xã, chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc. Ngày nay, nhiều “lệ làng” vẫn có ý nghĩa tích cực. Tuy vậy,
một khía cạnh khác vẫn phải nhận thấy là nếu tư tưởng “phép vua thua lệ làng”
chi phối suy nghĩ và hành động của cán bộ, nhân dân các địa phương, cơ sở sẽ
dần đến tình trạng coi thường ký cương phép nước, bất chấp pháp luật, vơ chính
phủ, địa phương chủ nghĩa. Một khi người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chấp
hành nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tùy tiện đặt ra
những quy định bất hợp pháp thì họ đã khởi đầu cho tình trạng hoạt động khơng
bình thường của cả một địa phương, có thế dần đến sai lầm nghiêm trọng, làm
rồi loạn nề nếp, kỷ cương xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
dần đến việc hình thành các “điểm nóng” ở một số địa phương như: Thái Bình,
Nam Định, Häi Dương, Hà Tây, Bến Tre, Lâm Đồn... trong thời gian vừa qua.
Chừng nào ở những nơi đó, những “lệ làng” lạc hậu cũng như những “lệ” mới
này sinh tùy tiện còn chưa được cải tạo, chưa chấp hành pháp luật, chừng ấy
cịn tình trạng vơ chính phủ, cục bộ địa phương và những hoạt động tiêu cực
trên phạm vi rộng lớn.
Bên cạnh đó ở nước ta, tổ chức pháp luật chưa chặt chẽ, các bộ luật chưa
hoàn chỉnh, sự thi hành pháp luật dựa theo những “lẽ phải”, những đạo lý trừu
tượng dễ khiến nhân dân không thấy hết ý nghĩa của pháp luật. Những cuộc sinh
hoạt trong nội bộ các cơ quan và đoàn thế, việc phê bình và tự phê bình, việc xử
lý các vụ việc mang tính nội bộ cũng ảnh hưởng khơng ít đến việc thi hành pháp
luật và tôn trọng pháp luật. Những việc làm nói trên vốn là cần thiết, là sự bổ
sung tốt đẹp cho pháp luật thì nhiều lúc nó đã tự cho phép thay thế pháp luật. Về
khách quan, nó đã làm giảm vai trị của pháp luật trong ý thức của nhân dân.
Tỉnh hình đó tất yếu dẫn tới sự thờ ơ của nhân dân đối với pháp luật.
Nho giáo còn ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đối mới tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Công cuộc đối mới diễn ra sâu, rộng trên các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội thì nhiệm vụ đặt ra ngày càng nhiều với khơng ít khó khăn, trở ngại.
Xã hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng cũng chỉ mới tồn tại được vài thập
kỷ, trong khi đó bộ máy nhà nước phong kiến thực dân tuy đã bị đập tan, nhưng
vốn tồn tại hàng thế kỷ đã tạo nên những dấu ấn quá khứ khó phai mờ. Ngay
trong tư duy của một bộ phận cán bộ công chức, trong thực tiễn tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước ta hiện nay không phải đã rũ bỏ hết những ảnh
hưởng tiêu cuc của Nho giáo.
Trước hết, có thể thấy, bộ máy quản lý cịn cồng kềnh, chồng chéo với
nhiều tầng nấc, hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp.
Bộ máy quản lý nhà nước muốn thực hiện được đúng chức năng, nhiệm
vụ là người tổ chức, quản lý xã hội bao giờ cũng đòi hỏi phải được tổ chức
thành một hệ thống hoàn chinh, thống nhất nhiều cấp độ, bao gồm nhiều bộ
phận, cơ quan, dơn vị khác nhau với một đội ngũ cán bộ công chức giỏi chuyên
môn nghiệp vụ cùng những nguyên tắc, thủ tục hành chính chặt chẽ trong bộ
máy đó. Những đơn vị trong bộ máy cùng các thủ tục, nguyên tắc hành chính
được tạo lập ra là khách quan nhằm hồn thành những mục tiêu xã hội đặt ra
chứ khơng có mục đích tự thân. Nhưng trong q trình vận hành, những nguyên
tắc quản lý của nhà nước đặt ra đã bị biến dạng, sai lệch. Sự hoàn thiện bộ máy
mà trước hết là các thủ tục, nguyên tắc hành chính xét cho tới cùng là phương
tiện nhằm đạt tới hiệu quả quản lý, chứ khơng phải mục đích của quản lý. Song
trong nhiều trường hợp, việc tổ chức hoạt động của bộ máy chỉ có mục đích tự
thân: bộ máy và bộ máy chứ khơng phải vì con người, vì nhân dân.
Sau nhiều lần cải cách, bộ máy nhà nước đã gọn nhẹ hơn, hiệu lực quản
lý cũng dần dần được nâng lên, tuy nhiên xét về tổng thể, bộ máy nhà nước vẫn
còn cồng kềnh. Tại các cơ quan nhà nước ở mọi cấp từ Trung trơng đến địa
phương, hiện tượng giấy tờ, hình thức cịn rất nặng nề. Bên cạnh đó, đội ngũ
cán bộ cơng chức chưa ngang tầm nhiệm vụ, một bộ phận suy thối, tham ơ, cửa
quyền, sách nhiễu nhân dân, xa rời thực tế. Những hạn chế bất cập này làm cho
hoạt động của bộ máy nhà nước vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn.
Bộ máy được tạo lập ra nếu chỉ nhằm tạo thuận lợi cho cán bộ, công chức
làm việc trong bộ máy đó thì chưa đủ, chưa hẳn đã thuận lợi đối với người dân.
Trong điều kiện như vậy, việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước không
chi xa rời cuộc sống, thiếu công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra mà
còn gây nhiều phiền nhiễu cho dân. Việc hội họp, giấy tờ, hình thức còn khá phổ
biến trong bộ máy nhà nước. Việc quản lý theo kế hoạch, tập trung cao độ của
bộ máy nhà nước bằng việc bắt buộc mọi thành viên của xã hội tuân thủ những
nguyên tắc, những quy định cường ép, gị bó, khơng những khơng đạt hiệu quả
mà cịn loại trừ sự năng động sáng tạo của quần chúng. Lối quản lý tập trung
này cho phép cấp trên can thiệp sâu, trực tiếp vào những công việc cụ thể của
cấp dưới và buộc cấp dưới phải có nghĩa vụ "phục tùng". Trong quá trình sản
xuất, kinh doanh, sự tự chủ của các đơn vị, cơ sở là điều kiện đảm bảo phát huy
sự năng động sáng tạo, dâm nghĩ dám làm, nhưng việc nhà nước can thiệp quá
mức vào hoạt động của các doanh nghiệp không những không cần thiết mà cịn
bó tay họ. Trong khi đó có nhiều cơng việc nhà nước cần nắm giữ thì khơng
nằm. Chẳng hạn việc xây dựng hệ thống pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước
chưa đầy đủ, kịp thời và còn khơng ít những sơ hở. Hoặc sự tùy tiện ban hành
những quy định vượt quá thẩm quyền và trải với tinh thần pháp luật nhà nước ở
một số địa phương, ở các ngành các cấp là khơng it. Đó là tình trạng bn lậu,
xuất nhập khẩu trái phép, thu chi ngoài sổ sách, cấp và bán đất sai pháp luật.
Những việc làm này không chi khuyến khich cho kẻ xấu lợi dụng để làm ăn phi
pháp, mà còn tạo điều kiện cho thói tùy tiện, vơ tổ chức, vơ chính phủ trong
hoạt động của các đơn vị sản xuất kinh doanh, gây khó khăn trong quân lý của
Nhà nước. Xã hội xảy ra nghịch lý. Một mặt từ phía Trung ương, Nhà nước do
quá chú trọng tới các biện pháp tập trung nhằm thực hiện việc quản lý thống
nhất, đã dẫn tới sự tập trung cao độ cứng nhắc. Mặt khác, ở địa phương, cơ sở
tha hồ tự do hoạt động, vượt khỏi khuôn khổ quy định của Nhà nước nhưng nhà
nước khơng kiểm sốt được. Đây là đặc trưng cơ bản của quân lý tập trung quan
liêu. Tập trung quan liêu bao giờ cũng đi kèm sự tự do vơ tổ chức, vơ chính phủ.
Bên cạnh đó, trong bộ máy nhà nước, tình trạng đặc quyền, đặc lợi, sách
nhiều dân vẫn còn diễn ra. Để việc quản lý thơng suốt, có hiệu quả địi hỏi mỗi
cán bộ, nhân viên của bộ máy quản lý phải cỏ những quyền hạn nhất định.
Những quyền hạn này cũng khơng nằm ngồi mục đích ổn định và phát triển xã
hội, và lợi ích của nhân dân. Những quyền hạn của cán bộ, viên chức trong bộ
máy nhà nước chưa phải là nguyên nhân tạo nên quan liêu, nhưng nếu khơng có
cơ chế kiểm tra, giảm sát thì quyền lực cơng dễ có xu hướng chuyển hóa, biến
dạng thành quyền lực riêng của cá nhân. Cán bộ công chức nhà nước dễ chuyển
hóa thành những người có đặc quyền, đặc lợi, tùy tiện lợi dụng quyền lực, vị trí
cơng tác đuược giao để giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan vì quyền lợi
của riêng mình.
Thực tế là để thỏa mãn lợi ích cá nhân, một số người có chức vụ, có
quyển hạn thường lạm dụng quyền lực, tự cho minh có quyền quyết định những
cơng việc ngồi giới hạn thẩm quyền của mình mà khơng cần biết những quyết
định này có phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chung, có trái với pháp luật
khơng. Hiện tượng thường thấy là tại một số cơ quan nhà nước, hàng loạt những
thủ tục giấy tờ được tu ý bày ra. Điều này khơng chi gây khó khăn, phiền hà cho
cấp dưới, làm chậm trễ cơng việc mà cịn lãng phí tài sản của Nhà nước, của
nhân dân.
Đặc quyền, đặc lợi, tư lợi cá nhân, đặt lợi ích cá nhân và bộ máy lên trên
lợi ich chung của xã hội, của nhân dân là trái với bản chất bộ máy nhà nước
XHCN, là biểu hiện sự tha hóa bản chất của bộ máy nhà nước. Đặc quyền, đặc
lợi giờ đây vẫn tồn tại một phần do cơ chế quan liêu bao cấp cũ chưa được khắc
phục triệt để, phần khác do tàn dư của tư tường Nho giáo còn rơi rớt lại. Trong
cơ chế mới, đặc quyền, đặc lợi tồn tại dưới nhiều biến tướng khác nhau, tai hại
hơn nữa, sự tồn tại này đã trở nên như một lẽ phải thơng thường. Chính vi vậy,
đã có khơng it nguười là cán bộ, đảng viên giữ những chức vụ quản lý nhất định
trong bộ máy nhà nước, lợi dụng sự thiểu hoàn thien, sơ hở trong quản lý, đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội đề tham nhũng, ăn hối lộ, làm
thất thoát tài sản của Nhà nước và tập thể. Cũng khơng ít người lợi dụng chức
quyền để buôn lậu, tiếp tay cho buôn lậu. Tình trạng này kéo dài đã phá hoại
nền kinh tế, đe dọa sự ổn định và phát triển của xã hội, làm dao động niềm tin
của nhân dân vào sức mạnh quyền lực nhà nước và sự nghiêm minh của pháp
luật.
•
Đối với q trình xây dựng, hồn thiện và phát huy dân chủ
XHCN
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người ở giai đoạn phát triển cao. Dân chủ hiểu theo nghĩa
chung nhất là mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Nhân dân được làm chủ mọi quyền lực trong xã hội là mơ ước ngàn đời
và cho đến nay vẫn là vấn để búc xúc của nhân loại.
Ở nước ta, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, (ở
miền Bắc từ 1954 và từ 1975 trong cả nước), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta đã từng bước tiến hành xây dựng một nền dân chủ kiểu mới – nền dân
chủ XHCN. Về thực chất, nền dân chủ XHCN là chế độ dân chủ cho nhân dân,
cho số đông – những người lao động. Cách mạng đã đưa dân lao động từ địa vị
là người dân nơ lệ, bị áp bức bóc lột nặng nề lên địa vị người dân của một dân
tộc độc lập tự do, địa vị chủ nhân của đất nước và làm chủ bản thân mình. Tuy
vậy, chế độ chuyên chế phương Đơng và Nho giáo đã có một thời gian cực dài
để hằn sâu tư tưởng không dân chủ vào cách nghĩ, cách sống, vào tâm lý, thói
quen người Việt Nam cho đến ngày nay. Chính vì thế, q trình xây dựng, hoàn
thiện và phát huy dân chủ XHCN ở nước ta đã vấp phải trở ngại khơng nhỏ.
Nhìn lại lịch sử ta thấy, chuyên chế phương Đông là một thể chế cuc
quyền với ơng Hồng đế - Con trời, thâu tóm trong tay mọi quyền lực chinh trị,
quân sự, kinh tế, tớn giáo; dùng bộ máy quan lại để trị nước, không chia quyền
cho quý tộc. Người dân theo hộ gia đình sống trong làng xã. Làng xã quan hệ về
mặt nhà nước với vua quan. Vua nắm quyền sở hữu mọi nguồn lợi ruộng đất,
núi rừng, sông biển và nắm quyền ban phát tước vị cho mọi người: dân được
cấp ruộng, quan được cấp trớc vị, bổng lộc, tạo ra một trật tự trên dưới nhiều
thứ bậc. Trật tự trên dưới đó được xây dựng theo quan hệ mẫu mực cha con
trong gia đình. Mọi người sống với nhau bằng tinh nghĩa theo kiểu cha từ, con
hiểu, dưới phụng tùng trên với tấm lòng biết ơn. Trước trật tự trên dưới theo
kiều gia đình, trong khơng khí tình nghĩa, con người ta mong muốn tình trạng
hịa mục, ổn định chứ khơng nghĩ tới việc đấu tranh để địi tự do dân chủ, thậm
chỉ khổng hề biết là có được quyền đó để địi hỏi.
Với cách thức đó, nhà nước chun chế phương Đơng đã duy trì xã hội
trong vịng trật tự ổn định. Trật tự đó được xây dựng trên tỉnh thần nhân
nhượng, sống bằng tình nghĩa đồn kết tương trợ cộng trong đồng. Mọi người
tuân theo cấp trên, hy sinh vì nghĩa mà làm việc chung. Đây cũng là mặt mạnh
của xã hội Nho giáo mà ngày nay nhiều nước ở khu vực châu á đang khai thác,
phát huy để ổn định xã hội và tăng tốc độ phát triển kinh tế. Nhưng với truyền
thống đó (truyền thống giữa người trên khoan huệ và nhân từ với người dưới
phục tùng và biết ơn, sự nhân nhượng và sự hy sinh chi có từ một phía, quan hệ
trên dưới kiểu gia trưởng, duy trì đồn kết ổn định xã hội bằng nhân tâm chứ
không phải bằng sự công bằng...) thì chi giành nhân tâm mà lại kỵ dân chủ.
Vì vậy, q trình xây dựng và hồn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta
cịn là q trình khó khăn, phúc tạp và lâu dài. Q trình đó địi hỏi phải tiếp tục
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách nghĩ, cách sống,
tâm lý, thói quen của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và người dân
nước ta.