Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Lý luận và bài tập tình huống về việc nuôi con nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.24 KB, 17 trang )

Bài tập nhóm mơn: Luật Hơn nhân và gia đình.
Giải quyết tình huống.
Mục lục
A. Mở đầu.................................................................................................................2
B. Nội dung...............................................................................................................3
I. Khái quát chung...............................................................................................3
1. Một số vấn đề về việc nuôi con nuôi...........................................................3
2. Tóm tắt tình huống.......................................................................................7
II. Giải quyết tình huống.....................................................................................8
1. Anh N có được địi lại cháu T hay khơng?.................................................8
2. Anh Được, chị Thu có quyền cấm anh N đến thăm cháu T không?......11
C. Kết luận..............................................................................................................13
D. Tài liệu tham khảo.............................................................................................14

1


A. Mở đầu.
Trong lời nói đầu của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, Nhà nước ta đã
khẳng định rất rõ : “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người,
là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tố thì xã hội mới tốt…”.
Xuất phát từ vị trí, vai trị quan trọng của gia đình, trong mối giai đoạn, Đảng và
Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lớn đối với vấn đề gia đình và có những chủ
trương để thể chế hóa bằng pháp luật, đường lối, và chính sách của mình. Trong
từng thời kì phát triển của lịch sử, pháp luật hôn nhân và gia đình ngày càng được
củng cố và hồn thiện.
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề về
Hôn nhân và gia đình điển hình như vấn đề ni con ni. Trong luật đã có hẳn một
chế định quy định về vấn đề này và năm 2010 nước ta đã ban hành Luật ni con
ni bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011.


Ở Việt Nam, việc nhận nuôi con nuôi đã xảy ra từ rất lâu, với nhiều lý do và mục
đích khác nhau, nhưng lý do lớn nhất là vì lịng từ tâm, lịng thương người, muốn
cưu mang, giúp đỡ những người rơi vào hồn cảnh khó khăn. Với quan niệm như
vậy, việc nhận nuôi con nuôi, nhận cha mẹ ni đã trở nên khá phổ biến.
Thực tế có khơng ít các trường hợp tranh chấp xoay quanh vấn đề ni con ni,
trong đó có tranh chấp trong vấn đề nhận nuôi con giữa bố mẹ đẻ và bố mẹ ni
như trong tình huống sau đây mà nhóm đưa ra. Từ đó địi hỏi chúng ta phải căn cứ
vào những quy định của pháp luật để có cách giải quyết hợp lý.

2


B. Nội dung.
I. Khái quát chung.
1. Một số vấn đề về việc nuôi con nuôi.
a. Khái niệm.
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa những người nhận
nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận
làm con nuôi được trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo
đức xã hội.
Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi
ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình. Để việc ni con ni đạt
được ý nghĩa, mục đích, pháp luật cấm các hành vi sau: Lợi dụng việc nuôi con
nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, bắt cóc, mua bán trẻ em;
giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi;..v..v.
Để việc nuôi con ni được pháp luật cơng nhận thì phải tn thủ pháp luật hơn
nhân và gia đình và pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch về điều kiện và thủ tục
đăng ký việc nuôi con nuôi.
Khoản 3, điều 3, Luật nuôi con nuôi năm 2010, quy định rõ khái niệm con nuôi

như sau: “ Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con ni
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.”
b. Điều kiện về việc nuôi con nuôi hợp pháp
*. Điều kiện về phía người được nhận làm con ni (Điều 8 Luật nuôi con nuôi
2010).
Người từ dưới 16 tuổi được nhận làm con nuôi. Người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi
cũng được nhận làm con nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Được
3


cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; được cô, cậu, dì, chú , bác ruột nhận làm con
ni. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc cả hai người
là vợ chồng.
*. Điều kiện về phía người nhận con ni (Điều 14 Luật ni con ni 2010)
Người nhận con ni phải có đủ các điều kiện sau:
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
Hơn con ni từ 20 tuổi trở lên;
Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, ni dưỡng,
giáo dục con ni;
Có tư cách đạo đức tốt;
Những người sau đây không được nhận con nuôi: Đang bị hạn chế một số quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành
chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được
xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con,
cháu, người có cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
*. Điều kiện về sự tự nguyện của các bên trong việc nuôi con nuôi
Được quy định tại khoản 1 điều 21 Luật nuôi con nuôi 2010.
*. Đăng ký việc nuôi con nuôi (điều 22, Luật nuôi con nuôi 2010)

Thẩm quyền: Quy định tại điều 9 Luật nuôi con nuôi 2010.
Hồ sơ của người nhận con nuôi: Quy định tại điều 17 và 31 Luật nuôi con nuôi
2010.
4


Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi: Quy định tại điều 18 và 32 Luật
nuôi con nuôi 2010.
Thời hạn đăng kí việc ni con ni: Quy định tại điều khoản 1 điều 22 Luật nuôi
con nuôi.
Từ chối đăng kí việc ni con ni: Quy định tại khoản 2 điều 22 Luật nuôi con
nuôi.
c. Hệ quả của việc nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Luật nuôi con nuôi 2010 thì kể từ ngày giao nhận con ni, cha
mẹ có nghĩa vụ thương u, chăm sóc, ni dưỡng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của con, tơn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia
đình, cơng dân có ích cho xã hội. Con cái có bổn phận u q, kính trọng, biết ơn,
hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
(Khoản 1 điều 24).
Theo Căn cứ khoản 2, 3, 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi thì việc nhận ni con
ni khơng đương nhiên làm thay đổi họ, tên của con nuôi theo họ của người nhận
nuôi. Tuy nhiên, nếu con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên, thì việc thay đổi họ, tên phải
được sự đồng ý của người đó. Trường hợp, con ni từ đủ 9 tuổi trở lên không
đồng ý việc thay đổi họ, tên của mình, thì con ni mang họ, tên cũ. Việc thay đổi
họ, tên của con nuôi mất năng lực hành vi chỉ cần có sự đồng ý và yêu cầu của cha,
mẹ nuôi.

Đối với trẻ em được nhận ni là trẻ em bị bỏ rơi thì dân tộc được xác


định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. Như vậy, nếu cha mẹ ni là dân tộc kinh
thì con nuôi cũng là dân tộc kinh. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ ni
có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ khơng có quyền,
nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường
thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.
5


d. Chấm dứt việc nuôi con nuôi.
*.Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi được quy định tại Điều 25 Luật nuôi con
nuôi năm 2010, các trường hợp sẽ dẫn tới chấm dứt việc nuôi con nuôi:
- Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
- Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ ni hoặc con
ni có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
- Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
Theo Điều 10 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định về thẩm quyền giải quyết
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con ni thì theo đó Tịa án nhân dân có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố
tụng dân sự.
Quyền chấm dứt nhận nuôi con nuôi được quy định cụ thể tại Điều 26 Luật nuôi
con nuôi 2010 bao gồm: Cha mẹ nuôi, Con nuôi đã thành niên. Cha mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của con nuôi. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt
việc ni con ni khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4
Điều 25 của Luật này gồm Cơ quan lao động, thương binh và xã hội;Hội liên hiệp
phụ nữ
*.Hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định của Luật nuôi con nuôi
2010 như sau:
- Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định

chấm dứt ni con ni của Tịa án có hiệu lực pháp luật. (khoản 1 Điều 27)

6


- Trong trường hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng lao động thì Tịa án quyết định giao
cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục vì lợi
ích tốt nhất của người đó. Khi được giao lại cho cha mẹ đẻ thì cha mẹ đẻ có quyền
và nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với người
đó. (khoản 2 Điều 27)
2. Tóm tắt tình huống.
Năm 2010, Chị Nguyễn Thị A và anh Lâm Thế N (1987) chung sống như vợ
chồng với nhau mà không đăng ký kết hôn. Năm 2011 vợ chồng anh chị sinh được
cháu T. Tuy nhiên, do còn là sinh viên, chưa có việc làm nên anh chị khơng có điều
kiện để ni cháu T. Do đó, khi cháu T sinh được 3 ngày thì anh chị đã bỏ cháu T
lại bệnh viện. Vào thời điểm đó, anh Được, chị Thu vào viện thăm em gái mới đẻ
và biết được hoàn cảnh cháu T. Anh chị cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục nuôi
con theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi ra trường, anh N đã có cơng việc ỏn định và lúc này anh N đều muốn tìm
ni lại đứa con mình đã bỏ rơi năm xưa. Năm 2017, sau một thời gian tìm kiếm,
anh N cũng đã biết được thơng tin con mình đang do anh Được, chị Thu nhận ni
dưỡng. Vì thế, anh N có đến gặp anh Được, chị Thu yêu cầu nhận lại cháu T là con
ruột của mình để ni dưỡng và chấp nhận bồi hồn các chi phí ni dưỡng cháu T
cho anh Được và chị Thu.
Về phía anh Được, chị Thu, anh chị cho rằng anh chị đã ni dưỡng cháu T tính
đến nay đã 6 năm, anh chị yêu thương cháu T như con đẻ của mình, lo cho cháu ăn
học và cũng đã làm giấy khai sinh cho cháu. Anh chị cũng hồn tồn có điều kiện
để chăm sóc cháu T. Do đó anh chị khơng đồng ý trả cháu T lại cho anh N và cũng
yêu cầu anh N không được đến thăm cháu T vì khơng muốn làm xáo trộn cuộc

sống của cháu.
7


II. Giải quyết tình huống.
1. Anh N có được địi lại cháu T hay khơng?
Để xác định quyền địi lại cháu T của anh N, đầu tiên, cần xác định anh N có phải
là cha đẻ của cháu T hay không. Vấn đề xác định anh N là cha đẻ của cháu T được
Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“Điều 89. Xác định con.
1. Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác
định người đó là con mình.
2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể u cầu Tịa án xác định
người đó khơng phải là con mình.”
Theo đó, nếu anh N khơng được nhận làm cha của cháu T thì có thể u cầu Tịa
án xác định mình là cha của cháu T theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật. Anh N
sẽ phải cung cấp chứng cứ, giấy tờ chứng minh mình là cha cháu T hoặc trong
trường hợp khơng thể cung cấp được chứng cứ, giấy tờ có tính thuyết phục thì có
thể u cầu Tóa án giám định ADN.
Sau khi đã xác định được anh N là cha đẻ của cháu T thì anh N đã thuộc nhóm
các cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đối với cháu T
theo Điều 26, Luật nuôi con nuôi 2010:
“Điều 26. Tổ chức, cá nhân có quyền u cầu chấm dứt việc ni con ni:
1. Cha mẹ nuôi.
2. Con nuôi đã thành niên.
3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.
4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc ni con ni khi
có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 25 của Luật này:
8



a) Cơ quan lao động, thương binh và xã hội;
b) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Tuy nhiên, việc anh N có thể yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi với cháu T hay
khơng cịn cần phải căn cứ theo các quy định tại điều 25, luật nuôi con nuôi 2010,
như sau:
“Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc ni con ni có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con
nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ ni hoặc con
ni có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con ni; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.”
“Điều 13, Luật nuôi con nuôi 2010, quy định:
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình
dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có cơng với cách mạng,
người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
9


6. Ơng, bà nhận cháu làm con ni hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo
đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.”

Có thể thấy, quan hệ cha mẹ ni – con nuôi giữa anh Được, chị Thu và cháu T
trong tình huống này khơng thuộc vào các trường hợp có thể chấm dứt việc nuôi
con nuôi theo những quy định tại điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010. Như vậy, anh N
sẽ không thể yêu cầu chấm dứt việc nuôi con ni với cháu T và do đó sẽ khơng có
quyền địi lại cháu T .
Thêm vào đó, Điều 24 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định hệ quả của việc
nuôi con nuôi như sau:
“Điều 24. Hệ quả của việc nuôi con nuôi.
1. Kể từ ngày giao nhận con ni, giữa cha mẹ ni và con ni có đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con ni và các thành viên khác của gia
đình cha mẹ ni cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
2. Theo yêu cầu của cha mẹ ni, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
việc thay đổi họ, tên của con nuôi.
Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý
của người đó.
3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha
nuôi, mẹ nuôi.
4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ ni có thỏa thuận khác, kể từ ngày
giao nhận con ni, cha mẹ đẻ khơng cịn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng,
10


cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản
riêng đối với con đã cho làm con ni.”
Trong tình huống này, anh chị N, A đã bỏ cháu T lại bệnh viện, sau đó cháu T mới
được anh Được, chị Thu nhân ni, đồng nghĩa với việc anh N khơng hề có bất cứ
thỏa thuận nào khác với gia đình anh Được, chị Thu trước đó nên kể từ ngày gia
đình anh Được, chị Thu nhận ni cháu T thì cha mẹ đẻ ( tức anh N, chị A) đã

khơng cịn các quyền và nghĩa vụ đối với cháu T. Như vậy, theo khoản 4, điều 24
nêu trên, chỉ khi quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi giữa anh Được, chị Thu và cháu T
nảy sinh những căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi được quy định trong Điều 25,
Luật nuôi con nuôi 2010 hoặc phạm phải các điều cấm của luật thì anh N mới có
thể u cầu chấm dứt ni con ni và địi lại cháu T.
2. Anh Được, chị Thu có quyền cấm anh N đến thăm cháu T không?
Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của cha, mẹ ni và con ni. Theo đó, kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi
và các thành viên khác của gia đình cha mẹ ni cũng có các quyền, nghĩa vụ đối
với nhau theo quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định
về hệ quả của việc nuôi con nuôi như sau:
1. Kể từ ngày giao nhận con ni, giữa cha mẹ ni và con ni có đầy đủ các
quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con ni và các thành viên khác của gia
đình cha mẹ ni cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật
có liên quan.
11


4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ ni có thỏa thuận khác, kể từ ngày
giao nhận con ni, cha mẹ đẻ khơng cịn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng,
cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản
riêng đối với con đã cho làm con ni.
Chính vì vậy, về nguyên tắc, kể từ thời điểm giao nhận con ni, mọi quyền và
nghĩa vụ liên quan như chăm sóc, nuôi dưỡng cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật,
bồi thường thiệt hại, quản lí dịnh đoạt tài sản riêng giữa cha mẹ đẻ và con đẻ đã
chấm dứt nếu như giữa cha mẹ ni và cha mẹ đẻ khơng có thỏa thuận gì khác. Do

đó, nếu nhận thấy việc anh N thăm cháu T có thể làm ảnh hưởng đến cuộc sống của
cháu T thì với tư cách là cha mẹ hợp pháp của cháu T, anh Được chị Thu có thể
cấm anh N thăm cháu T.
Tuy nhiên, chính trong Khoản 4 Điều 24 cũng quy định “Trừ trường hợp giữa cha
mẹ đẻ và cha mẹ ni có thỏa thuận khác”, vì vậy, nếu anh N có thể thỏa thuận với
anh Được chị Thu về việc thăm cháu T thì anh N vẫn có thể thăm con đẻ của mình.
Đồng thời, pháp luật cũng không cấm việc con đã cho đi làm con nuôi quay về
thăm bố mẹ đẻ của mình.
Ngồi ra, theo Điều 11 về bảo đảm quyền được biết về nguồn gốc Luật nuôi con
nuôi năm 2010 cũng có quy định như sau:
“1. Con ni có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Khơng ai được cản trở
con ni được biết về nguồn gốc của mình.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho con ni là người Việt Nam ở nước
ngoài về thăm quê hương, đất nước.”
Chính vì vậy, dù khơng có quyền địi lại cháu T nhưng anh N vẫn có cơ hội gặp
lại con đẻ của mình cũng như giúp cháu biết được bố mẹ đẻ của mình khi cháu đã
trưởng thành.
12


3. Nhận xét về hành động của anh N và chị A.
Theo tình huống của đề bài, anh N và chị A đã vứt bỏ cháu T khi mới chỉ được 3
ngày tuổi tại bệnh viện. Đây là một trường hợp cha mẹ bỏ rơi con mới đẻ nhưng
may mắn khơng có hậu quả là con bị chết.
Hành vi trên là hành vi nguy hiểm cần được xử phạt nghiêm khắc. Tuy chưa đến
mức độ cần xử lý hình sự, nhưng, căn cứ theo Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày
29/10/2013 quy định xử phạt hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, việc người mẹ bỏ hoặc khơng chăm sóc, ni dưỡng con sau khi sinh
thì có thể bị xử phạt hành chính từ 10 triệu đến 15 triệu đồng.


III. Liên hệ thực tế Một số vấn về quan hệ cha mẹ nuôi - con ni ở Việt Nam.
1. Những mặt tích cực.
Pháp luật về nuôi con nuôi thời gian qua đã tạo cơ sở quan trọng trong việc giải
quyết việc cho, nhận nuôi con nuôi trong nhân dân. Để thực hiện tốt công tác đăng
ký và quản lý hộ tịch, cũng như thực hiện tốt công tác nuôi con nuôi, các Sở Tư
pháp đã thực hiện công tác chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ về cho, nhận
con nuôi ở cơ sở; các Phòng Tư pháp các huyện, thành phố, thị xã đều được tập
huấn nghiệp vụ để từ đó, tập huấn lại cho cán bộ hộ tịch - tư pháp của Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Việc đăng ký nuôi con nuôi ở cơ sở đã được Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện
tương đối đầy đủ, kịp thời. Cán bộ chuyên trách Tư pháp - hộ tịch tận tụy với công
việc, bám sát dân, nên đã giúp Ủy ban nhân dân xã thực hiện tốt công tác quản lý,
đăng ký cho, nhận nuôi con nuôi trên địa bàn. Việc đăng ký cho, nhận ni con
ni nhìn chung đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, khơng để sai sót lớn.

13


Các Sở Tư pháp đã kịp thời hướng dẫn và cung cấp đầy đủ các loại Sổ sách, biểu
mẫu hộ tịch theo quy định cho Phòng Tư pháp cấp huyện để cung cấp cho Ủy ban
nhân dân cấp xã, phục vụ nhu cầu của người dân khi đăng ký việc cho, nhận nuôi
con nuôi. Việc sử dụng mẫu biểu, ghi chép vào sổ đăng ký việc nhận nuôi con nuôi,
quản lý hồ sơ cho, nhận nuôi con nuôi được lưu trữ rõ ràng, đầy đủ, chế độ thông
tin báo cáo về cơng tác hộ tịch nhìn chung được thực hiện đảm bảo yêu cầu và
đúng quy định pháp luật.
Hầu hết các trường hợp nhận nuôi con nuôi đều xuất phát từ tình cảm và tính
nhân đạo. Nhiều địa phương chú trọng đến việc kiểm tra, theo dõi về tình hình phát
triển của trẻ em sau khi cho làm con nuôi, thậm chí có địa phương cịn hỗ trợ kinh
phí cho các cháu bị ốm đau, bệnh tật phải đi bệnh viện.
2. Những mặt còn tồn tại hạn chế

Bên cạnh những kết quả đã đạt được như nêu trên, việc thực hiện pháp luật về
nuôi con nuôi trong các năm qua cho thấy cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể
như sau:
Do các quy định pháp luật về điều kiện cho, nhận nuôi con nuôi chưa cụ thể, rõ
ràng, đặc biệt pháp luật khơng có quy định cấm, nên trong thực tế đã phát sinh
những trường hợp người dân lợi dụng việc làm con ni của thương binh, người có
cơng với cách mạng, người thuộc dân tộc ít người... chỉ để hưởng chế độ, chính
sách ưu tiên của nhà nước mà khơng bảo đảm mục đích của việc ni con ni.
Vẫn cịn nhiều trường hợp ni con ni trên thực tế nhưng không đăng ký theo
quy định của pháp luật về cho, nhận ni con ni mà chỉ có sự thỏa thuận của hai
bên (bên cho con nuôi và bên nhận con nuôi).
Việc mở sổ ghi chép việc đăng ký nuôi con nuôi ở một số xã miền núi, vùng biên
giới, vùng sâu, vùng xa còn thiếu hoặc rất sơ sài; nhiều nơi không thực hiện mở sổ
14


và theo dõi việc đăng ký nuôi con nuôi... làm cho công tác quản lý, thống kê hộ tịch
gặp nhiều khó khăn.
Trong q trình giải quyết việc cho, nhận ni con ni vẫn cịn hiện tượng hồ sơ
khơng đầy đủ; thủ tục không bảo đảm, việc lưu trữ hồ sơ cho, nhận con ni vẫn
cịn một vài cấp cơ sở thực hiện không đúng quy định pháp luật, hồ sơ lưu khơng
đầy đủ, hoặc khơng lưu hồ sơ.
Trong q trình giải quyết việc cho nhận nuôi con nuôi ở nhiều địa phương, số trẻ
em bị bỏ rơi xảy ra nhiều, có thời điểm số lượng trẻ em bị bỏ rơi tăng đột biến, gây
khó khăn cho cơng tác quản lý và ni dưỡng.
Việc thực hiện thủ tục thơng báo tìm người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi,
trước khi cho làm con ni người nước ngồi, chỉ được tiến hành một cách hình
thức, khơng đáp ứng được nhu cầu thực tế của người muốn nhận trẻ em làm con
nuôi; số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước tại một số tỉnh còn hạn
chế, trong khi số trẻ em làm con ni người nước ngồi lại nhiều hơn; trẻ em bị bỏ

rơi chủ yếu được giới thiệu làm con ni người nước ngồi.
Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc nhận con nuôi trong nước là kiến thức
pháp luật về ni con ni của người dân cịn rất hạn chế, nhất là ở vùng núi, nông
thôn.
3. Môt số giải pháp.
Thứ nhất, tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện những quy định của pháp luật về quan
hệ nuôi con ni trong nước và con ni có yếu tố nước ngồi, có tính đến đặc thù
của đồng bào miền núi, dân tộc thiểu số, có chế tài rõ ràng cụ thể. Tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về nuôi con nuôi và hộ tịch sâu rộng để nâng cao nhận thức của
các ngành, các cấp và người dân.

15


Thứ hai, tăng cường biện pháp chế tài và tăng mức xử phạt hành chính đối với
các trường hợp vi phạm pháp luật về nuôi con nuôi.
Thứ ba, tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để đảm bảo
việc giải quyết cho trẻ em làm con ni trong và ngồi nước một cách chặt chẽ,
đúng pháp luật.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp
thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
C. Kết luận.
Các vấn đề về việc nhận và nuôi con nuôi hiện đang nhận được khá nhiều sự
quan tâm trong xã hội, cũng như vấn đề bảo vệ trẻ em cùng các quyền của trẻ em.
Chính vì vậy, đây là những vấn đề cần được pháp luật chú trọng điều chỉnh. Trên
cơ sở phân tích, giải quyết tình huống trên, có thể thấy sự cần thiết của việc phải
đưa ra những biện pháp để nâng cao nhận thức cho cán bộ các cơ quan chức năng
liên quan và toàn thể nhân dân về vấn đề nuôi con nuôi, tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về ni con ni, có những biện pháp cụ
thể để quản lý nguồn hỗ trợ nhân đạo trong lĩnh vực ni con ni; tiếp tục điều

chỉnh và hồn thiện hệ thống pháp luật hợp lý, tiến bộ. Qua đó, có thể hướng đến
mục tiêu đảm bảo vấn đề nuôi con nuôi sẽ được pháp luật điều chỉnh hiệu quả và
mang lại ý nghĩa tốt đẹp đúng như bản chất vốn có của nó, nhằm giúp trẻ em được
ni dưỡng và lớn lên trong mơi trường gia đình, trong bầu khơng khí hạnh phúc,
u thương và cảm thơng để phát triển hài hịa và tồn diện về thể chất và nhân
cách.

16


D. Tài liệu tham khảo.
1. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
2. Luật ni con ni 2010

17



×