Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận LSĐCSVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.95 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề bài: Phân tích nội dung cơ bản của đường lối chống thực dân Pháp
của Đảng

Hà Nội, tháng 8 năm 2021

1


MỤC LỤC:
A. LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................1
B. NỘI DUNG..........................................................................................1
1. Hoàn cảnh:..........................................................................................1
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng:....................................3
3. Đánh giá:............................................................................................. 8
C. KẾT LUẬN.........................................................................................9
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................10


A. LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam với bề dày lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, đối mặt với nhiều đế quốc hùng mạnh.
Thế nhưng một dân tộc nhỏ bé, bằng lịng u nước, ý chí quật cường đã đánh đuổi
những kẻ xâm phạm đến lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi Việt Nam. Ngược dòng lịch sử về
những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc
ta đã tiến hành đánh bại các âm mưu, kế hoạch quân sự của Pháp, tiến lên giành


toàn thắng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến chiến thắng đó là đường lối
chống thực dân Pháp đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Đường lối chiến tranh chính là
kết tinh của trí tuệ con người, nó là kim chỉ nam cho các hành động, cho sự quyết
định thắng lợi của một đất nước. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, em quyết định lựa
chọn đề tài: “Phân tích nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng”.

B. NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam trở thành quốc gia
độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân
của chế độ dân chủ mới. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách
mạng trong cả nước. Nhân dân ta đã giành được độc lập và có những điều kiện
thuận lợi cơ bản để xây dựng xã hội mới.
Sau Tổng khởi nghĩa, Việt Nam luôn mong muốn xây dựng quan hệ hợp tác,
hữu nghị với Pháp. Thế nhưng, thực dân Pháp lại bộc lộ rõ bản chất thực dân với dã
tâm quay lại chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày 23-9-1945 quân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lược trở lại nước ta.
Trong khi đó, nước ta bị kẻ thù bao vây bốn phía. Các nước đế quốc thoả
thuận cùng nhau chống phá, thù tiêu nước cộng hồ non trẻ. Đồng thời, chính
1


quyền cách mạng đang đứng trước những khó khăn chồng chất về chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội, ... hậu quả của chế độ thực dân phong kiến. Tình hình đó đã đặt
nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “như
ngàn cân treo sợi tóc”
Với thiện chí nhân đạo và hồ bình, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam
đã nỗ lực cứu vãn một nền hồ bình mong manh, dùng biện pháp đàm phán và nhân

nhượng cho thực dân Pháp một số quyền lợi, thể hiện qua bản Hiệp định Sơ bộ
ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946. Tuy nhiên, nhân nhượng không phải là
sự nhu nhược.
Trong khi nỗ lực tranh thủ khả năng hồ bình, Đảng, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam vẫn ra sức chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để sẵn sàng đối phó với khả
năng chiến tranh. Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị
“Toàn dân kháng chiến”, phác thảo những nét cơ bản về một cuộc kháng chiến toàn
dân.
Trái ngược với thiện chí của Việt Nam, thực dân Pháp ngày càng lấn tới.
Chúng ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng giành thắng lợi bằng
quân sự. Việc đàm phán đối với Pháp chỉ là thủ đoạn để lấn dần từng bước và kéo
dài thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
Tháng 11-1946, sau khi đã đưa thêm lực lượng quân sự đến Đơng Dương,
qn Pháp tiến cơng ở Hải Phịng, Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm
đóng Hải Phịng. Tháng 12-1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài
chính, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún,...
Ngày 18-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu khơng họ sẽ
giành tồn quyền hành động vào sáng 20-12-1946.
Khả năng hồ hỗn khơng cịn nữa. Mọi nhân nhượng của Việt Nam đã đến
giới hạn cuối cùng. Nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường cầm vũ khi đứng lên
chiến đấu vì độc lập tự do.
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động và kiên quyết phát
động cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngày 18-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương
2


Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động cuộc kháng chiến
toàn quốc. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi tồn quốc
kháng chiến”.

Cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên kháng chiến với tinh thần “Thà hi sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bắt đầu.
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng:
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành,
bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến
1947. Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
Đường lối kháng chiến được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí
thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị “Kháng chiến kiến
quốc” (25-11-1945), Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” (3-3-1946), Chỉ thị “Hòa để
tiến (9-3- 1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946), “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm “Kháng
chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh (8-1947),…
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược. Đây là
mục tiêu thiết yếu trong giai đoạn này vì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược nước
ta, chỉ có đánh đuổi Pháp ta mới có thể giành nền độc lập, tự do hồn tồn thống
nhất đất nước.
Tính chất kháng chiến được xác định là "Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là
một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính
chất tồn dân, tồn diện và lâu dài". "Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc
lập, dân chủ và hịa bình". Đó là cuộc kháng chiến có tính chất chính nghĩa, dân tộc
giải phóng và dân chủ mới.
Về chính sách kháng chiến, ta chủ trương liên hiệp với dân tộc Pháp, chống
bọn phản động thực dân Pháp. Cuộc chiến của thực dân Pháp gây ra tại Đông
Dương là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, không được nhân dân tại chính nước
3



Pháp ủng hộ. Vì thế khi liên kết với những người dân u chuộng hịa bình tại
Pháp, ta có thể tạo thêm một mặt trận ngay đằng sau lưng địch, làm kẻ địch suy
yếu, mất đi sự ủng hộ của nhân dân.
Đồng thời ta cũng đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc u chuộng tự do
hịa bình. Miên, Lào là các quốc gia trên cùng bán đảo Đông Dương và cũng có
chung kẻ thù là thực dân Pháp. Khi liên kết cùng với 2 quốc gia này, sức mạnh của
ta sẽ được gia tăng, phạm vi hoạt động kháng chiến cũng được mở rộng. Việc tranh
thủ sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng tự do hòa bình có thể đem lại sự ủng hộ
trên trường quốc tế.
Về chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đồn kết tồn dân, thực hiện
qn, chính, dân nhất trí; động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến; giành quyền độc lập,
bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc; củng cố chế độ cộng hòa dân chủ;
tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc...
Đảng xác định phương châm kháng chiến là tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiên kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến tồn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên
tồn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả
nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là
một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận. Trong đó lực lượng vũ trang làm
nịng cốt cho tồn dân đánh giặc”.
Kháng chiến tồn dân là nội dung chính của chiến tranh nhân dân Việt Nam,
chi phối mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chi phối kế hoạch tác
chiến, nghệ thuật quân sự và phương hướng xây dựng lực lượng. Toàn dân kháng
chiến là tất cả mọi người dân Việt Nam đều tham gia chiến đấu trong đó lực lượng
vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Cách đánh giặc trong chiến tranh nhân dân là
thế “thiên la địa võng” đối với quân thù: đánh địch ở phía trước, ở phía sau, ngay
trong lịng địch. Chiến trường khơng phân chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến
sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài, tạo ra thế “cài răng lược”, chiến tranh bao vây,
chiến tranh không mặt trận, chiến tranh tiêu thổ,…

4


Đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống “cả nước chung sức đánh giặc”,
“nước có giặc trăm họ cũng là binh” trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân
tộc. Đó cũng là tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Hồ Chí Minh. Điều này đã
được chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong “Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến”
(12/1946): “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước.” Đây chính là một định hướng chiến lược, một cẩm nang hoạt động đối
với toàn dân ngay từ từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người làm nên lịch sử”; “chiến tranh ngày nay là do nhân dân tiến
hành”. “Sự đồng tình, tích cực tham gia của quần chúng còn giúp cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc phát triển nhanh chóng và là nguồn gốc quyết định nhất, khiến mọi
cuộc tiến công của các thế lực thù địch chống nhà nước xã hội chủ nghĩa đi đến thất
bại. Sức mạnh của quần chúng nhân dân là sức mạnh tổng hợp được tạo bởi nhiều
yếu tố, trước hết là tinh thần quyết chiến quyết thắng dám xả thân vì sự nghiệp cách
mạng”.
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, mỗi khi đất nước đứng
trước những thử thách to lớn, để chiến thắng được kẻ thù thì điều cơ bản là phải
dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng
định sức mạnh của cách mạng và chiến tranh là nhân dân. Bởi vì, “Sự đồng tâm của
đồng bao ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn,
xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Đảng đã xây dựng quyết tâm chiến đấu cho toàn dân và củng cố niềm tin vào thắng
lợi của cuộc chiến đấu ấy, “Có lẽ hiếm có ở đâu, chiến tranh nhân dân trong thực tế
lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân và thực sự vô

địch như nhân dân”
Mặt khác, tương quan lực lượng giữa ta và địch là rất lớn. Pháp có tiềm lực
kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, do đó buộc ta phải huy động lực lượng
tổng hợp của cả dân tộc vào cuộc chiến đấu. Kháng chiến toàn dân sẽ đem lại cho
5


cách mạng Việt Nam một sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần, góp phần
đánh thắng mọi kế hoạch của Pháp. Cho nên ta càng đánh càng mạnh, càng giành
thắng lợi lớn, để cuối cùng làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”, kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
Đường lối kháng chiến toàn dân là sự kế thừa và nâng lên tầm cao mới tư
tưởng quân sự truyền thống của tổ tiên ta, là sự vận dụng lý luận chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hồn cảnh cụ thể của nước ta.
Vì thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn để xâm lược, thống trị nhân dân ta nên
ta phải làm thất bại mọi thủ đoạn của chúng, tức là phải kháng chiến tồn diện trên
tất cả các mặt: qn sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó
mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định.
Hơn nữa, để kháng chiến thành công, phải xây dựng hậu phương kháng chiến vững
mạnh về mọi mặt, vì thế phải kháng chiến tồn diện.
Về chính trị, khơng ngừng nâng cao khối đồn kết tồn dân, chống lại âm
mưu chia rẽ của kẻ thù, củng cố và phát triển chính quyền cách mạng, chống âm
mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của
chúng. Tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của Đảng làm hạt nhân lãnh đạo đưa
kháng chiến đến thắng lợi (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai quyết định đưa
Đảng ra hoạt động công khai và đổi tên Đảng, Đại hội thống nhất mặt trận Việt
Minh – Liên Kiều đầu năm 1951...)
Công tác vận đồng bào miền núi, đồng bào công giáo, quần chúng trong
vùng địch tạm chiếm, công tác vận động nguỵ binh được Đảng coi trọng.
Về quân sự, thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân

dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến, tiến lên
vận động chiến, đánh chính quy, là ‘‘Triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo
tồn thực lực, kháng chiến lâu dài,...Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa
đào tạo thêm cán bộ’’. Lần lượt đánh bại các kế hoạch, chiến lược chiến tranh của
Pháp, tiêu diệt lực lượng địch trên đất nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng,
giành độc lập cho đất nước.

6


Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp, tự túc bảo đảm phục vụ
kháng chiến, ổn định đời sống nhân dân; thực hiện chủ trương “vừa kháng chiến
vừa kiến quốc”. Chúng ta đưa ra khẩu hiệu: ‘‘Xây dựng kinh tế ta, phá hoại kinh tế
địch’’, chống lại kế hoạch ‘‘lấy chiến tranh nuôi chiến tranh’’ của Pháp. Đặc biệt
Đảng ta không ngừng thực hiện từng bước nhiệm vụ dân chủ cho nơng dân (các
chính sách giảm tô, giảm tức,chia ruộng công, thuế nông nghiệp nhất là chủ trương
triệt để giảm tô giảm tức và cải cách ruộng đất trong thời kì 1953 – 1954). Nhờ đó
đã động viên sức mạnh to lớn của hậu phương cho kháng chiến thắng lợi. Cơ sở
cơng nghiệp quốc phịng được xây dựng khá nhiều với quy mô vừa và nhỏ ở khắp
các vùng tự do và chiến khu.
Về văn hóa, tiếp tục phong trào xoá nạn mù chữ, xây dựng nền văn hoá mới
tiến bộ theo phương châm dân tộc – khoa học - đại chúng. Tiêu biểu như thắng lợi
của Hội nghị văn hóa tồn quốc lần thứ hai (1948)… Thực hiện khẩu hiệu: ‘‘Văn
hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa’’.
Về ngoại giao, tăng cường khơng ngừng đoàn kết quốc tế, trước hết là với
nhân dân Lào và Campuchia, với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và các dân
tộc u chuộng hồ bình khác ( Đại hội thành lập liên minh chiến đấu ba nước Việt
– Miên – Lào đầu năm 1951, Việt nam cử quân tình nguyện sang giúp nhân dân
Miên và Lào, năm 1950 Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước ta,
đấu tranh ở Hội nghị Giơnevơ về Đơng Dương…)

Có thể nói, kháng chiến tồn diện chính là một biểu hiện của kháng chiến
toàn dân. Kháng chiến toàn diện giúp phát huy triệt để lợi thế của mỗi giai cấp, tạo
nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng giặc Pháp.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trường kì
kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát
triển lực lượng ta, nhằm phát huy tất cả lợi thế “ thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
Sở dĩ quân và dân ta phải thực hiện phương châm đánh lâu dài do sự vật phát
triển phải trải qua một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, xen kẽ những bước nhảy vọt. Thực tiễn mở đầu chiến
tranh địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự, chúng có cả một đội quân xâm lược
7


nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân. Ngược lại, quân đội ta vừa thành lập
trang bị kém cỏi vũ khí thơ sơ. Thực dân Pháp lại có các đế quốc khác giúp đỡ, vì
vậy nên ta cần tránh đối đầu trực diện với chúng mà phải tiến hành kháng chiến lâu
dài, xong nhất định thắng lợi. Vì “cuộc chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân,
chiến tranh tiến bộ. Ta lấy sức mạnh vật chất và tinh thần trong nguồn vơ tận của
nhân dân, trong chính ngay tính chất tiến bộ của cuộc chiến tranh chính nghĩa”
Nhân dân Việt Nam sẽ có thời gian vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa
kháng chiến vừa xây dựng hậu phương và vận động quốc tế. “Đánh nhanh thắng
nhanh” là lối đánh sở trường của thực dân Pháp (để phát huy ưu thế về quân sự,
khắc phục chỗ yếu của chiến tranh xâm lược phi nghĩa và tiết kiệm chi phí chiến
tranh). Đánh lâu dài là để chống lại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của quân
Pháp, không cho Pháp phát huy lối đánh sở trường của chúng, mà buộc phải đánh
theo cách đánh của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch dùng lối đánh
nhanh thắng nhanh, ta quyết kế trường kì kháng chiến”.
Trên cơ sở thực hiện phương châm chiến lược đánh lâu dài, quân đội và nhân
dân Việt Nam phải giành thắng lợi từng bước, từng bước làm thay đổi so sánh lực

lượng trên chiến trường, tiến lên tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định và kết
hợp với giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính là sự kế thừa tư tưởng chiến lược
trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh
tụ Hồ Chí Minh. Tự lực cánh sinh, tự cấp, tự túc về mọi mặt. Trong thời gian đầu
của cuộc kháng chiến (1946-1949), ta bị địch bao vây, cô lập nên càng phải phát
huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh. Tuy nhiên Đảng và Chính phủ cũng coi trọng
sự ủng hộ quốc tế, nên vẫn ra sức vận động quốc tế, tranh thủ mọi sự ủng hộ về vật
chất và tinh thần từ bên ngoài để tăng thêm sức mạnh cho cuộc kháng chiến.
Phương châm này thể hiện tinh thần chủ động cách mạng, ý chí quyết tâm
giành độc lập dân tộc và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam, đồng thời phản
ánh mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan với điều kiện chủ quan của
cuộc kháng chiến.
3. Đánh giá:
8


Đường lối chống Pháp của Đảng là sự kết hợp nhuần nhuyễn những nguyên
lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin với nghệ thuật đánh
giặc giữ nước của dân tộc và kinh nghiệm đấu tranh quân sự của một số nước trên
thế giới, để giải quyết những vấn đề quân sự do thực tiễn cuộc chiến tranh yêu
nước của dân tộc ta chống thực dân Pháp đặt ra.
Đường lối kháng chiến của Đảng đã đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở Việt
Nam phát triển cao độ, chưa hề có trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Tính
nhân dân hay nói đầy đủ hơn tính tồn dân, tính tồn quốc của cuộc kháng chiến
được thể hiện rất rõ: triệt để trong mục tiêu chiến đấu; rộng rãi và vững chắc trong
tổ chức lực lượng; phong phú và sáng tạo trong hình thức, phương pháp tiến hành
chiến tranh. Đường lối này có tính tổng hợp cao và giành thắng lợi to lớn.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã khẳng định đường lối kháng
chiến do Đảng đề ra khơng những kịp thời mà cịn đúng đắn và sáng tạo, độc lập, tự

chủ. Đường lối ấy không chỉ đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi,
mà cịn góp phần vào thành cơng của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và
làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng.

C. KẾT LUẬN
Trải qua 9 năm trường kì kháng chiến đầy khó khăn gian khổ, nhân dân Việt
Nam đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, bảo vệ
nền độc lập dân tộc. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) chứng tỏ
dự đoán sáng suốt và cũng là mong ước tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành
sự thật: “Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi! Thống nhất độc lập, nhất
định thành công!”. Một trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi của cuộc
kháng chiến là đường lối kháng chiến chống Pháp đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Trong thời gian bối cảnh lịch sử đầy phức tạp, Đảng đã kịp thời, chủ động đề
ra đường lối kháng chiến phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước, dẫn dắt nhân
dân Việt Nam vượt qua mọi chơng gai, khó khăn, thử thách để đi tới thắng lợi cuối
cùng.

9


Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng có ý nghĩa to lớn trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định
mục tiêu của cách mạng nước ta là “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đồn kết tồn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi
mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đường lối để lại nhiều bài học cho dân tộc ta, thứ nhất là Đảng cần phải luôn
bám sát vào thực tiễn để đưa ra những quyết định đúng đắn, chủ động, kịp thời.
Thứ hai, xây dựng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng

cường nội lực dân tộc, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, kết hợp sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc với sức mạnh thời đại để tiến hành "hịa nhập" mà khơng "hịa
tan".
Những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp tiếp tục được
áp dụng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và bây giờ nó vẫn đóng vai trị quan
trọng trong hành trình tiến tới "sánh vai với các cường quốc năm châu" như khát
vọng lớn lao mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký thác lại cho tồn Đảng, tồn dân ta,
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đường lối chiến tranh nhân dân được phát huy,
toàn dân đoàn kết một lòng, mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận chống đại
dịch COVID-19.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB Sự thật, Hà Nội.
2. Ph.Ăng ghen, VL.Lê nin (1996), Bàn về chiến tranh nhân dân, NXB Sự thật, Hà
Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống thực
dân Pháp, tập 1,2. NXB Sự thật, Hà Nội.

10


4. Nguyễn Thị Chiên (2021), Sự vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân
của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954), số 45
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hải Phòng.
5. Nguyễn Minh Đức (1996), Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp trong
giai đoạn 1945-1954. Vai trị của Hồ Chí Minh trong việc hoạch định và tổ chức
thực hiện, Luận án phó Tiến sĩ, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.

11




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×