Mục lục
A. Mở đầu.
Quyền lực Nhà nước được thực thi thơng qua hình thức tổ chức và hoạt động
của bộ máy Nhà nước. Là một bộ phận hợp thành của quyền lực Nhà nước,
quyền hành pháp được phân công thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính
Nhà nước.
Việc thực thi quyền lực Nhà nước trên phương diện quyền hành pháp, thông
qua hoạt đồng chấp hành, điều hành của các cơ quan hành chính Nhà nước có
1
tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến các quan hệ xã hội. Để thực hiện vai trị của
mình, các cơ quan hành chính Nhà nước thường xuyên sử dụng nhiều thức khác
nhau mà trong đó, việc ban hành các quyết định hành chính là một trong những
hình thức chủ yếu, Theo đó, hiệu quả của cơng tác quản lý hành chính Nhà nước
phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của công tác ban hành và thực thực thi các
quyết định hành chính. Đồng thời, Các quyết định được ban hành ra có khả
năng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, xã hội theo cả hướng tích cực
lẫn tiêu cực.
Với mức độ quan trọng của mình, các quyết định hành chính phải thỏa mãn
các yêu rất cầu chặt chẽ mà một trong số đó là tính hợp pháp.
B. Nội dung.
I. Một số cơ sở lý luận về quyết định hành chính.
1. Khái niệm quyết định hành chính.
Để làm rõ khái niệm “quyết định hành chính”, cần bắt đầu từ khái niệm
“quyết định”. Thuật ngữ “quyết định” bắt nguồn từ một từ trong tiếng latinh viết
là “actus”, có nghĩa là hành động, hành vi. Trong tiếng Anh, quyết định là
“decisions”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản khoa học xã hội - 1997,
quyết định là định một cách chắc chắn, với ý nhất định phải thực hiện và hiểu
một cách thơng thường thì quyết định cịn là việc lựa chọn một phương án tối
ưu nhất trong nhiều phương án để giải quyết một vấn đề.
Trên cơ sở khái niệm quyết định, hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về
quyết định hành chính với nhiều cách định nghĩa khác nhau. Tuy nhiêm, điểm
chung của các quan điển đó là sự thống nhất cho rằng quyết định hành chính là
một loại quyết định pháp luật.
Như vậy, có thể nêu lên khái niệm quyết định hành chính như sau:
2
“Quyết định hành chính là quyết định pháp luật do các chủ thế quan lý hành
chính Nhà nước ban hành theo trình tự do pháp luật quy định, nhằm đưa ra
những chủ chương, biện pháp quản lý hoặc đặt ra các quy tăn xử sự, các mệnh
lệnh pháp luật cụ thể để giải quyết công việc phát sinh trong quản lý hành chính
Nhà nước”.
2. Đặc điểm của quyết định hành chính.
Là một dạng của quyết định pháp luật nên quyết định hành chính mang những
đặc điểm chung của quyết định pháp luật bao gồm tính quyền lực, tính pháp lý
và tính đơn phương. Bên cạnh đó quyết định hành chính cịn có những đặc điểm
riêng của mình, cụ thể là:
a. Quyết định hành chính có tính dưới luật.
Ở nước ta, các bộ phận quyền lực Nhà nước, bao gồm quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp, được phân công cho các cơ quan khác nhau thực
hiện. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự phân cơng này thì quyền lực Nhà nước sẽ
bị chia cắt, phân tán, không thực hiện được nên để đảm bảo tính thống nhất của
quyền lực Nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải phối hợp
với nhau một cách hiệu quả. Mặt khác, sự phân công rõ rang về phạm vị quyền
lực của mỗi loại cơ quan công quyền đòi hỏi việc thực hiện quyền lực Nhà nước
của các cơ quan cũng phải có giới hạn.
Đối với các cơ quan hành chính Nhà nước, các quyết định hành chính được
ban hành ra phải không trái với các văn bản quy phạm pháp luật. Điều này xuất
phát từ chức năng chấp hành của cơ quan hành chính Nhà nước. Nếu các quyết
định ban hành ra trái với các quy phạm pháp luật thì sẽ bị bãi bỏ. Do đó, quyết
định hành chính có tính dưới luật. Chúng phải phù hợp với các văn bản pháp
luật do cơ quan lập pháp ban hành, nhằm mục đích tổ chức thực thi pháp luật.
3
b. Quyết định hành chính do các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước ban
hành.
Quyết đinh pháp luật gồm có ba loại là quyết định lập pháp, quyết định hành
pháp và quyết định tư pháp, mỗi loại chủ yếu do cơ quan được phân công thực
hiện chức năng tương ứng ban hành. Quyết định hành chính là các quyết định
pháp luật do các cơ quan, cá nhân được nhân danh Nhà nước thực hiên quyền
hành pháp ban hành mà chủ yếu là hệ thống các cơ quan quản lý hành chính
Nhà nước.
Quyết định hành chính do các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước ban hành,
mà trong đó chủ yếu là hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước và những người
có thầm quyền trong các cơ quan này. Chủ thể ban hành chính là một trong
những dấu hiệu để xác định một quyết định pháp luật có phải là. là một quyết
định hành chính hay khơng.
c. Quyết định hành chính có mục đích, hình thức và nội dung đa dạng,
phong phú.
Sự đa dạng, phong phú của quyết định hành chính xuất phát từ đặc điểm của
hoạt động quản lý nhà nước.
3. Phân loại quyết định hành chính.
Căn cứ vào nội dung, có thể phân chia quyết định hành chính thành ba loại là
quyết định hành chính chủ đạo, quyết định hành chính quy phạm và quyết định
hành chính cá biệt.
Quyết định hành chính chủ đạo là loại quyết định có nội dung xác định các
nguyên tắc cơ bản, những chủ chương, chính sách lớn, có tính định hướng cho
hoạt động quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng thời kì
hoặc đưa ra những giải pháp phát triển của từng vùng lãn thổ. Về hình thức, các
quyết định hành chính chủ đạo, thường là các Nghị quyết.
4
Quyết định hành chính quy phạm là loại quyết định hành chính có chứa những
quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ quản lý hành chính nhà nước.
Hình thức của quyết định hành chính quy phạm là các Quyết định, Chỉ thị.
Quyết định hành chính cá biệt là loại quyết định hành chính chứa đựng những
quyết định pháp luật cụ thể, được ban hành thường xuyên để giải quyết các
trường hợp phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Quyết định
hành chính cá biệt trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ
pháp luật cụ thể.
4. Khái niệm tính hợp pháp của quyết định hành chính.
Hợp pháp tức là đúng với pháp luật hay không trái pháp luật. Mọi vấn đề
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật được coi là có tính hợp pháp khi và chỉ
khi nó được thực hiện theo đúng những yêu cầu mà pháp luật đặt ra. Với đó,
một quyết định hành chính ra đời chỉ hợp pháp khi đảm bảo theo đúng những
quy định của pháp luật về thẩm quyền của chủ thể ban hành, trình tự thủ tục ban
hành và khơng trái với những văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn.
II. Các Tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính.
1. Quyết định hành chính phải được ban hành đúng thẩm quyền.
Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính là giới hạn quyền lực nhà nước
trao cho cá nhân, tổ chức được phép ban hành những loại quyết định hành chính
nhất định để tiến hành hoạt động quản lý. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý, chức
năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong bộ máy hành chính nhà nước mà các chủ
thể có thầm quyền khác nhau trong việc ban hành quyết định hành chính. Các
cơ quan (người có chức vụ) tuyệt đối khơng được ban hành những quyết định
mà pháp luật không cho phép, vượt quá phạm vi quyền hạn được nhà nước giao
cho. Việc đảm bảo đúng thẩm quyền ở đây là thẩm quyền trên hai khía cạnh
phạm vi và lĩnh vực. Cơ quan nào phụ trách quản lí cho khu vực, lĩnh vực gì thì
ra quyết định hành chính cho khu vực, lĩnh vực ấy, không được phép vượt quá
5
thẩm quyền mình có, thậm chí, cấp trên cũng khơng được can thiệp vào lĩnh vực
của cấp dưới. Ví dụ: Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố, tuy có thẩm quyền rất
rộng, trên mọi lĩnh vực của thành phố đó nhưng thẩm quyền của chủ tịch ủy ban
nhân dân là thẩm quyền chung, không thể can thiệp vào công việc của những cơ
quan hành chính hành chính khác thuộc địa phận thành phố (ví dụ như chủ tịch
UBND khơng thể ra quyết định xử phạt hành chính đối với người vi phạm luật
giao thơng, cơng việc đó thuộc thẩm quyền của công an giao thông thành phố).
Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính bao gồm thẩm quyền về hình
thức và thẩm quyền về nội dung.
Thẩm quyền về hình thức được hiểu là theo quy định của pháp luật, chủ thể
quản lý được phép ban hành loại quyết định nào, với tên gọi là gì. Hình thức tên
gọi thể hiện cấp đô hiệu lực pháp lý của quyết định hành chính. Trong những
trường hợp nhất định, hình thức tên gọi cịn thể hiện quyết định hành chính của
cơ quan nào ban hành. Trường hợp chủ thể quản lý được quyền ban hành nhiều
hình thức tên gọi quyết định hành chính khác nhau, địi hỏi chủ thể quản lý cần
lựa chọn đúng hình thức tên gọi của quyết định hành chính để thể hiện nội dung
quyết định. Tên gọi của quyết đinh hành chính cũng liên quan đến nội dung
những vấn đề cần giải quyết và quy cách thể hiện bố cục của quyết định. Ví dụ,
quyết định hành chính có nội dung kỷ luật cơng chức thì hình thức tên gọi
khơng thể là thơng tư; quyết định có nội dung giải quyết khiếu nại khơng thể tồn
tại với hình thức tên gọi là thông báo... Việc bảo đảm ban hành quyết định hành
chính đúng thẩm quyền về hình thức sẽ tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật
hành chính có trật tự theo thứ bậc về hiệu lực pháp lý và cơ quan ban hành. Sự
vi phạm thẩm quyền về hình thức trong ban hành quyết định hành chính cũng
dẫn đến vơ hiệu của quyết định hành chính.
Thẩm quyền về nội dung thể hiện phạm vi quyền lực nhà nước được giao cho
chủ thể quản lý để thực hiện nhiệm vụ quản lý, biểu hiện bằng các quyền hạn
6
giải quyết công việc, cho phép chủ thể quản lý nhân dân nhà nước để tiến hành
những hoạt động nhất định tác động đến đối tượng quản lý. Ví dụ: Điều 30 Luật
Tổ chức Chính phủ năm 2015 quy định về Thẩm quyền ban hành văn bản của
Thủ tướng Chính phủ như sau:
“Điều 30. Thẩm quyền ban hành văn bản:
1. Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp luật theo thẩm quyền để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử
lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
2. Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ ký các văn bản của Chính phủ;
ban hành quyết định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản
đó trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương.”
Theo Luật tổ chức Chính phủ 2015 thì Bộ và cơ quan ngang bộ là cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chun mơn ở trung ương nên có thể ban
hành các quyết định hành chính thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà
nước về một ngành, đa ngành hoặc lĩnh vực cơng tác trên phạm vi tồn quốc. Ví
dụ: Bộ trưởng Bộ tư pháp được ban hành các quyết định hành chính “thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về cơng tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm
tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân
sự; hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm
vi cả nước, quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ.
Việc ban hành quyết định hành chính đúng thẩm quyền là một trong các tiêu
chỉ để đảm bảo tính hợp pháp của quyết định hành chính, điều này sẽ tránh được
tình trạng chồng chéo, dẫm chân lên nhau, cùng một cơng việc mà có nhiều chủ
thể tham gia, từ đó giúp cho việc giải quyết mọi cơng việc được nhanh chóng,
chính xác và gọn nhẹ, tránh lạm quyền hay trốn tránh trách nhiệm. Việc phân
7
định rõ thẩm quyền ban hành quyết định hành chính cũng sẽ tạo điều kiện để
các chủ thể được nhà nước giao cho thẩm quyền ban hành các quyết định hành
chính thực hiện nhiệm vụ được giao một cách dễ dàng hơn trong phạm vi quyền
hạn của mình.
2. Nội dung của quyết định hành chính phảỉ phù hợp với các văn bản pháp
luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Hệ thống pháp luật Việt Nam có sự thống nhất nội tại về hiệu lực pháp lý của
các văn bản pháp luật. Vì mỗi quyết định hành chính là một bộ phận cấu thành
của hệ thống pháp luật nên nội dung của chúng tất nhiên phải có sự phù hợp
thống nhất với các văn bản pháp luật. Sự phù hợp và thống nhất đó được tạo nên
bởi nguyên tắc là các văn bản pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù
hợp với văn bản do cơ quan cấp trên ban hành, văn bản có hiệu quả thấp hơn
phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, tất cả đều phải tơn trong
tính tối cao của hiến pháp. Đồng thời, việc đảm bảo sự phù hợp về nội dung của
các quyết định hành chính cũng thể hiện ở khía cạnh tránh sự chồng chéo giữa
các giữa các quyết định về cùng một vấn đề. Đối với các quyết định hành chính
cá biệt thì sự phù hợp về nội dung còn thể hiện ở việc lựa chọn đúng văn bản
quy phạm pháp luật làm cơ sở để áp dụng.
Trên cơ sở nguyên tắc nếu trên, để đảm bảo sự phù hợp và thống nhất thì các
quyết định hành chính phải được ban hành theo đúng trật tự pháp lí từ trên
xuống dưới, quyết định hành chính có hiệu lực pháp lí thấp hơn được ban hành
phù hợp với các quyết định có hiệu lực pháp lí cao hơn, các quyết định hành
chính có cùng hiệu lực pháp lý cũng như các quyết định hành chính trong cùng
một lĩnh vực phải thống nhất với nhau.
a. Các quyết định hành chính có hiệu lực pháp lý thấp hơn phải phù hợp
với các quyết định có hiệu lực pháp lý cao hơn.
8
Hệ thống pháp luật Việt Nam gồm nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý
cao, thấp khác nhau, trong đó văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp với
văn bản có hiệu lực pháp lý cao.
Tính hợp pháp về nội dung của quyết dịnh hành chính cá biệt biểu hiện ở sự
phù hợp của quyết định so với các văn bản pháp luật chứa đựng quy phạm pháp
luật được chọn để áp dụng. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực pháp lý khác nhau quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì quyết
định hành chính phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, nếu các
văn bản đó do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì quyết
định hành chính cá biệt phải phù hợp với văn bản được ban hành sau (Điều 157,
luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015).
Ví dụ:
Nghị định chính phủ số 96/2007/NĐ-CP ngày 06-06-2007 hướng dẫn thi hành
một số điề của Luật Điện ảnh phải phù hợp với Luật Điện ảnh 2006 do Quốc hội
ban hành.
Hoặc:
Nghị quyết 04/2016/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ban hành hướng dẫn quy định của Luật tố tụng hành chính 93/2015/QH13
về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng bằng phương tiện điện tử. Nghị định này phải phù hợp với Luật tố
tụng hành chính 2015 do Quốc hội ban hành.
b. Các quyết định hành chính có cùng hiệu lực pháp lý phải thống nhất với
nhau.
Nếu các quyết định hành chính có cùng hiệu lực pháp lý có nội dung khơng
thống nhất với nhau thì một cách tự nhiên khơng có quyết định nào có khả năng
9
làm mất hiệu lực của quyết định khác, trừ trường hợp quyết định sau mang ội
dung sửa đổi, thay thế, bãi bỏ quyết định trước hoặc trường các quyết định do
cùng một cơ quan ban hành thì quyết định ban hành sau có khả năng làm mất
hiệu lực của quyết định được ban hành trước.
Trong trường hợp các quyết định hành chính có hiệu lực pháp lý ngang nhau
và cùng có hiệu lực thi hành mà nội dung khơng thống nhất với nhau thì sẽ gây
khó khăn cho việc thực hiện pháp luật và tất nhiên sẽ tạo ra hiệu quả khơng tốt
cho việc quản lý hành chính.
Ví dụ:
Nghị quyết 104/2015/QH13 về thi hành Luật tố tụng hành chính do Quốc hội
ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết 02/2016/NQ-HĐTP hướng
dẫn thi hành quy định của Nghị quyết 104/2015/QH13 về thi hành Luật tố tụng
hành chính do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 30
tháng 6 năm 2016. Hai nghị định này phải hài hòa thống nhất, nếu Nghị quyết
02/2016/NQ-HĐTP và Nghị quyết 104/2015/QH13 nội dung không nhất quán
sẽ dấn đến nhiều vấn đề khó khăn trong việc thực hiện pháp luật.
c. Các quyết định hành chính trong cùng một lĩnh vực phải thống nhất với
nhau.
Mỗi quyết định hành chính gồm nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh một
nhóm quan hệ gần gũi với nhau phát sinh trong một lĩnh vực xã hội cụ thể. Giữa
các quy phạp pháp luật trong cùng một quyết định có thể có những quan hệ với
nhau trên nhiều phương diện. Các quy phạm này nếu khơng thống nhất có thể
vơ hiệu hố lẫn nhau, gây khó khăn trong việc thực hiện chúng.
Ví dụ: Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 phải thống
nhất với Nghị định của Chính phủ số 70/2001/NĐ- CP ngày 3/10/2001 quy định
chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình 2000.
10
3. Các quyết định hành chính phải được ban hành theo đúng thủ tục.
Thủ tục là số lượng các hoạt động cụ thể cần thực hiện để tiến hành hoạt động
quản lí nhất định. Một quyết định hành chính ban hành đúng thủ tục là một
quyết định được ban hành theo quy trình đầy đủ do pháp luật quy định và phải
ban hành tuân thủ đúng trình tự các giai đoạn, các bước, các khâu được pháp
luật quy định. Các thủ tục này được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành. Một quyết định hành chính được ban hành đúng
trình tự, thủ tục vừa đảm bảo đạt được mục đích đề ra vừa tránh sự lạm quyền
của chủ thể quản lí.
Với mỗi loại quyết định hành chính thì sẽ có những trình tự, thủ tục ban hành
khác nhau được quy định trong luật. Cụ thể, đối với quyết định hành chính chủ
đạo và quyết định hành chính quy phạm, quyết định chủ đạo là những quyết
định nhằm đưa ra những chủ trương chính sách, giải pháp lớn về quản lý hành
chính đối với cả nước, một vùng hoặc đối với một đơn vị hành chính nhất định,
cịn quyết định hành chính quy phạm nhằm ban hành những quy tắc xử sự, xác
định các quyền và nghĩa vụ cho các đối tượng liên quan, tạo ra một khn khổ
pháp lí trong đó các chủ thể của pháp luật hành chính sẽ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. Với nội dung như vậy nên hai loại quyết định này thường
phải có nhiều chủ thể tham gia, có nhiều bước, có nội dung, thời hạn rõ ràng
quy định trong luật. Thể hiện rõ trong trình tự xây dựng và ban hành quyết định
của Thủ tướng chính phủ: dự thảo quyết định, chỉ thị của thủ tướng giao và chỉ
đạo cơ quan soạn thảo. Cơ quan này có trách nhiệm xây dựng dự thảo và tùy
theo tính chất, nội dung của dự thảo tổ chức lấy ý kiến các thành viên chính
phủ, của chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Bộ tư pháp có trách nhiệm tham gia ý kiến
bằng văn bản về các dự thảo quyết định, chỉ thị của thủ tướng. Sau đó, cơ quan
soạn thảo sẽ tiếp tục chỉnh lý dự thảo và báo cáo thủ tướng về ý kiến của cơ
11
quan, tổ chức các nhân hữu quan. Thủ tướng sẽ là người trực tiếp xem xét để ký
quyết định, chỉ thị.
Cịn lại, đối với quyết định hành chính cá biệt, trên cơ sở hai quyết định trên,
quyết định hành chính cá biệt được ban hành nhằm mục đích hướng đến việc
cho các chủ thể thực hiện được các quyền cũng như nghĩa vụ trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Với đặc điểm là phải giải quyết nhanh chóng trên thực tế
các vụ việc nên thủ tục của ban hành quyết định này ít phức tạp hơn.
Ví dụ: Khi người đứng đầu một cơ quan sử dụng cán bộ, công chức muốn ra
một quyết định cho nghỉ hưu phải tn theo trình tự quy định tại Điều 6: thơng
báo nghỉ hưu, điều 7 Quyết định nghỉ hưu (theo nghị định số 143/2007/NĐ-CP
về thủ tục thực hiện nghỉ hưu đối với cán bộ công chức đủ điều kiện nghỉ hưu).
Một ví dụ khác là khi xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Chính
phủ thì trước khi dự thảo được trình Chính phủ phải được Bộ tư pháp thẩm tra.
Trình tự xây dựng và ban hành quyết định hành chính nói chung thơng thường
phải trải qua các bước: sáng kiến ban hành quyết định; dự thảo quyết định; trình
dự thảo; truyền đạt ý kiến.
Xét về mục đích, thủ tục ban hành quyết định hành chính là một nội dung
nhằm kiểm soát, ngăn ngừa sự lạm quyền trong hoạt động ban hành quyết định
hành chính. Hoạt động ban hành quyết định hành chính phải bảo đảm tuân thủ
tất cả các bước, thực hiện tất cả những hành vi pháp lý cần thiết do pháp luật
xác định. Ngồi mục đích kiểm soát, ngăn ngừa lạm quyền trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước, các quy định pháp luật về thủ tục ban hành các loại quyết
định hành chính cịn hướng đến sự cẩn trọng của các chủ thể có thẩm quyển khi
ban hành quyết định hành chính, tạo tiền đề cho việc đảm bảo tính hợp lý của
quyết định hành chính. Không tuân thủ các quy định về thủ tục ban hành quyết
định hành chính cũng là một căn cứ xác định quyết định hành chính khơng hợp
pháp, làm mất hiệu lực của quyết định hành chính.
12
III. Thực trạng tính hợp pháp của các quyết định hành chính.
1. Những điểm tích cực và hạn chế xoay quanh tính hợp pháp của quyết
định hành chính.
Trong thời gian qua, công tác ban hành và thực thi các quyết định hành chính
của các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta ngày càng được đổi mới, hoàn
thiện hơn và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh nhưng kết
quả đã đạt được, hoạt động ban hành quyết định của các chủ thể quản lí hành
chính nhà nước trên thực tế vẫn cịn tồn tại nhiều bất cập hạn chế làm giảm hiệu
quả tác động của quyết định trong q trình quản lí.
Trong thực tế ban hành và thực thi quyết định hành chính, các cơ quan hành
chính nhà nước cơ bản đã tuân thủ và thực hiện khá đầy đủ những quy định của
pháp luật. Thực hiện tốt những quy định về thẩm quyền góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước, đảm bảo tính minh bạch,s tạo tiền đề cho người có thẩm
quyền ban hành đúng pháp luật. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt
động quản lý hành chính nhà nước nói chung và trong quyết định hành chính
nói riêng cũng đã có nhiều kết quả tốt. Thơng qua hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát mà đã kịp thời phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật. Nhìn chung
các cơ quan hành chính nhà nước đã phát hiện kịp thời và có các biện pháp xử lí
đối với những vi phạm.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì vẫn cịn tồn tại một số
mặt tiêu cực, cụ thể:
Nhiều quyết định hành chính đã được ban hành không đúng thầm quyền của
chủ thể được phép ban hành. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, qua kiểm tra 1.506
văn bản pháp luật đã ban hành của cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát
hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản
thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp
13
bộ và 397 văn bản của địa phương). Như vậy, khoảng từ 20-25% số văn bản
được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm.
Đã xảy ra một số trường hợp mà nội dung của các quyết định hành chính lại
khơng phù hợp với tinh thần của các văn bản pháp luật cao hơn
Cụ thể là vào ngày 23/4/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư
số 22/2008/ TT- BGDĐT hướng dẫn về tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ
xét tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú ( gọi tắt là Thông tư 22).
Tuy nhiên, Thơng tư 22 đã có dấu hiệu vượt quá điều 62 Luật Thi đua khen
thưởng năm 2003. Vì vậy lãnh đạo Bộ Tư pháp và lãnh đạo một số đơn vị thuộc
Bộ đã có buổi làm việc với đại diện của Bộ Giáo dục và Đào tạo bàn về cách xử
lý Thông tư 22.
2 .Những hạn chế kể trên xuất phát từ một số nguyên nhân dưới đây.
Quyết định hành chính chưa được xây dựng và ban hành theo trình tự luật
định, đặc biệt là khâu thực hiện “tiền kiểm”, tức là thẩm định dự thảo quyết định
chưa được chú trọng, mà mới chỉ mang tính hình thức. Cơng chức thực hiện
cơng vụ một cách hời hợt thì hậu quả là quyết định sai sẽ lọt qua cửa thẩm định
và được ban hành.
Chưa có cơ chế đủ mạnh để yêu cầu các chủ thể ban hành quyết định hành
chính là trước khi ban hành thì phải tập hợp và lấy ý kiến người dân, huy động
trí tuệ tập thể, phản biện của các cơ quan, của xã hội để tránh những quyết định
khi ban hành phải “chết sớm” không thực hiện được.
Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ
quan QLNN giữa các cấp như trung ương và địa phương, trong từng ngành vẫn
chưa rõ, thậm chí, mâu thuẫn, chồng chéo.
14
Các chủ thể khi ban hành quyết định chưa tính đến việc cân bằng, bảo đảm hài
hịa lợi ích giữa các chủ thể (lợi ích giữa cơ quan quản lý, lợi ích của đối tượng
thi hành quyết định và của tồn xã hội).
Trình độ chun mơn của đội ngũ cán bộ, cơng chức chính quyền nói riêng
cịn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Do vậy, tình trạng ban hành các
quyết định hành chính khơng hợp pháp và hiệu quả là điều khó tránh khỏi.
Thời gian qua, khi xã hội phát sinh nhiều quan hệ mới, phức tạp, khơng quản
lý được thì cơ quan nhà nước thường ban hành quyết định cấm, ngừng. Hoặc ở
các địa phương, có quyết định quy hoạch rồi nhưng sau đó thấy khơng khả thi,
khơng thực hiện được thì xóa bỏ. Những quyết định này đã gây thiệt hại không
nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân nhưng chưa có chế tài cụ thể để
xử lý. Hiện nay, việc xử lý đối với chủ thể khi ban hành quyết định sai vẫn đang
theo quy định về xử lý công chức và phổ biến vẫn chỉ dừng ở mức độ “kiểm
điểm, rút kinh nghiệm”, chưa có cơ chế đưa ra tịa án để xét xử các quyết định
sai mà chỉ là kiểm điểm, rút kinh nghiệm trong nội bộ.
IV. Một số giải pháp củng cố, nâng cao tính hợp pháp của quyết định hành
chính.
Để đảm bảo tính hợp pháp của việc ban hành và thực hiện quyết định hành
chính trong trong thời gian tới, xin được đề ra một số phương hướng, giải pháp
như sau.
Thứ nhất, tiến hành rà soát lại hệ thống quyết định hành chính, từ đó đình chỉ,
sửa đổi và bãi bỏ quyết định không hợp pháp, không còn phù hợp với thực tiễn,
đồng thời bổ sung những quy định mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Khi ban hành
quyết định hành chính thì các chủ thể ban hành cần tiếp thu ý kiến của nhân
dân, nhất là ý kiến đóng góp của đối tượng bị tác động trực tiếp của quyết định
đó.
15
Thứ hai, cần truy cứu trách nhiệm người có lỗi, là người có trách nhiệm trong
việc ban hành quyết định và người có trách nhiệm trong việc thi hành quyết
định. Việc truy cứu trách nhiệm cần căn cứ vào mức độ lỗi. Tuy nhiên, trước
tiên, phải truy cứu người có trách nhiệm ban hành quyết định không hợp pháp,
không hợp lý. Xử lý các quyết định hành chính được thực hiện theo cơ chế tài
phán, tức là đưa ra tòa án để xét xử chứ không phải là kiểm điểm, rút kinh
nghiệm nội bộ.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp khơi phục lại tình trạng cũ do việc thực hiện
quyết định trái pháp luật gây ra. Nếu quyết định quản lý không hợp pháp đã
được thi hành, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân xâm phạm thì công
dân được bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, tăng cường công tác giám sát kiểm tra hoạt động xây dựng, ban hành
và tổ chức thực hiện các quyết định hành chính. Tăng cường giám sát và phản
biện xã hội trong hoạt động này.
Trong xây dựng, ban hành quyết định hành chính, phải kết hợp hài hòa giữa
chi tiết và kết quả của mỗi văn bản, giúp văn bản dễ dàng và nhanh chóng đi
vào cuộc sống
Trong tổ chức thực hiện quyết định hành chính, cần tăng cường phối hợp giữa
những cơ quan như ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân,
các tổ chức chính trị xã hội khác, góp phần đảm bảo cho quyết định hành chính
được thực hiện một cách nghiêm minh trên thực tế. Cụ thể:
Trong hoạt động thực thi quyết định hành chính cần tăng cường sự chỉ đạo
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý hành chính
Nhà nước cũng như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện các
quyết định hành chính.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về xây dựng các quyết định hành
chính trên phương tiện thơng tin đại chúng để mọi người hiểu rõ ý nghĩa và tác
16
động của quyết định hành chính để từ đó nâng cao tinh thần pháp luật của người
dân.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các quyết định hành chính để kịp thời
thơng báo tình hình, kết quả thực hiện, đánh giá mặt làm được, những vấn đề
tồn tại để có biện pháp chấm dứt và khắc phục giúp tạo điều kiện thuận lợi, giải
quyết kịp thời các yêu cầu chính đáng cảu người dân.
Ngoài ra, cần cải cách tổ chức bộ máy hành chính và đổi mới cơ chế hoạt
động của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp; cải cách thủ tục hành chính,
đơn giản hóa các thủ tục hành chính trên mọi lĩnh vực, thực hiện các qui định về
kiểm sốt thủ tục hành chính, cơng khai hóa thủ tục hành chính nhằm đảm bảo
tính cơng khao minh bạch; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
C. Kết luận.
Tóm lại, trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quyết định hành chính
giữ vai trị vơ cùng quan trọng, không thể thay thế, với công dụng và sức ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác nhau. Để phát huy tối đa
vai trò của quyết định hành chính, cần quan tâm tới tính hợp pháp của nó. Để
đảm bảo tính hợp pháp của quyết định hành chính, cần nâng cao kiến thức và
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, cơng chức bởi họ chính là những người trực
tiếp áp dụng quy phạm pháp luật vào đời sống. Chỉ như vậy, quyết định hành
chính mới có khả năng tác động tích cực đến quản lý hành chính nhà nước và
tồn xã hội.
D. Tài liệu kham khảo.
1. Trường đại học kiểm sát Hà Nội, giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2014.
17
2. Trường đại học luật Hà Nội, giáo trình luật hành chính Việt Nam,
Nxb.CAND, Hà Nội 2008.
3. Luật tổ chức chính phủ 2015.
18