Họ và tên:
Mã số sinh viên:
Lớp: POL1001 1
Đề bài: Sự sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến: Ban giám
hiệu trường Đại học giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội vì đã tạo điều kiện về cơ sở
vật chất với hệ thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuật lợi cho
việc tìm kiếm, nghiên cứu thơng tin. Xin cảm ơn giảng viên bộ môn – Thầy Nguyễn
Văn Thắng đã giảng dạy tận tình, chi tiết để chúng em có đủ kiến thức và vận dụng
chúng vào bài tiểu luận này. Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như
những hạn chế về kiến thức, trong bài tiểu luận chắc chắn khơng tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Thầy để
bài tiểu luận được hồn thiện hơn. Lời cuối em chúc thầy nhiều sức khỏe, thành công
và hạnh phúc.
Em xin trân thành cảm ơn!
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành với ý chí mãnh liệt, lịng u thương dân tộc sâu sắc đã quyết
tâm ra đi thực hiện hồi bão giải phóng nước nhà khỏi ách nơ lệ của thực dân, đế
quốc. Với sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam nổ ra từ cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX đã làm cho cách mạng Việt Nam khủng hoảng về con đường giải
phóng dân tộc. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận thấy con
đường do những người đi trước mở ra sẽ khơng giải phóng được dân tộc. Việc khơng
lặp lại thất bại của những người đi trước là một điều khó khăn nhưng tìm ra một con
đường mới phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử để dân tộc giành được độc lập,
tự do là một điều cịn khó khăn hơn nhiều lần. Với một sự nhạy cảm đặc biệt, Nguyễn
Tất Thành không đi sang nước Nhật, khơng tìm về châu Á mà Người sang nước Pháp,
đến tận nơi nước đang cai trị mình, đến tận châu Âu, nơi đang có sự phát triển vượt
bậc về kinh tế, về văn hóa, về chính trị để tìm hiểu xem người ta làm như thế nào rồi
trở về cứu giúp đồng bào. Bác ra đi, hành trang chỉ là lịng u nước, thương dân sâu
sắc, quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân. Với tầm nhìn rộng lớn, phân tích
các xu thế tư tưởng và cách mạng của thời đại, Người đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin và quyết tâm đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, con đường cách
mạng vô sản thế giới,
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận
và thực tiễn cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc để trực tiếp lãnh
đạo cuộc đấu tranh cách mạng. Người chỉ ra rằng, trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam, con đường duy nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập
dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, mang theo một tài sản
vơ cùng q báu, đó là con đường cách mạng, con đường giải phóng dân tộc Việt
Nam. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã
vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian đưa đất nước và dân tộc ta
vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thốt khỏi nước kém phát triển, từng bước tiến lên “sánh vai
với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh.
PHẦN II: PHÂN TÍCH NỘI DUNG
1. Giới thiệu bộ sách “Hồ Chí Minh tồn tập”
Bộ sách “Hồ Chí Minh toàn tập” gồm 15 tập vừa được Nhà xuất bản (NXB)
Chính trị quốc gia Sự thật giới thiệu, tập hợp khoảng 3.300 tác phẩm, bài nói, bài viết,
điện, thư... của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1969.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật vừa xuất bản bộ sách “Hồ Chí Minh tồn
tập” (15 tập). Bộ sách xuất bản lần này có nhiều điểm mới mẻ hơn trước so với bộ
sách đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ ba năm 2011;
như một số sự kiện được đối chiếu, sắp xếp thống nhất với các sự kiện của bộ sách
"Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử" (10 tập), xuất bản năm 2016; phần Phụ lục các sự
kiện, nhân vật ở mỗi tập sách được trình bày một cách thống nhất xuyên suốt cả bộ.
Bộ sách tập hợp khoảng 3.300 tác phẩm, bài nói, bài viết, điện, thư... của Chủ tịch
Hồ Chí Minh từ năm 1912 đến năm 1969 đã được xác minh và thẩm định, cung cấp
nhiều tư liệu làm sáng tỏ sự nghiệp, những giá trị lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam; đồng thời cho thấy những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với cách mạng thế giới, sự cống hiến xuất sắc của Người vào cuộc đấu tranh chung
của nhân loại vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong bối cảnh những chuyển biến trên thế giới ngày càng nhanh chóng và phức
tạp, các vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải được
giải đáp, thì việc nghiên cứu, vận dụng, bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
đáp ứng yêu cầu của thực tế cuộc sống trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong
cơng tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta.
Bộ sách cũng cung cấp nhiều tài liệu nêu lên những đóng góp to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với cách mạng thế giới và làm thế giới đổi thay bằng sự cổ vũ, đoàn kết
các dân tộc thuộc địa cùng nhân dân tiến bộ trên thế giới đấu tranh loại bỏ sự thống
trị, áp bức của chế độ thực dân dưới mọi hình thức, cống hiến to lớn vào cuộc đấu
tranh chung vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những giá trị phong phú và tồn diện nói trên đã làm cho bộ “Hồ Chí Minh tồn
tập” xuất bản lần thứ ba trở thành bộ sách có giá trị lý luận và thực tiễn cao về cách
mạng Việt Nam
2. Giới thiệu tác phẩm
2.1 Hai tác phẩm “Đông Dương”
Năm 1921 của thế kỷ trước, khi đang bôn ba ở nước ngồi tìm đường cứu dân,
cứu nước, Hồ Chí Minh đã viết bài báo quan trọng với nhan đề “Đông Dương”, được
đăng lên Tạp chí Cộng sản (Cahiers du Communisme) của Pháp liền trong hai số 14
và 15 năm 1921
Trong tác phẩm thứ nhất Hồ Chủ tịch đã nêu lên sự cấm đốn, vây hãm mà
những kẻ khai hóa “lởm” đó lại coi đó là sự cải tiến, cân bằng đối với con người. Bác
đã có sự phản bác một cách rõ ràng bằng việc đưa ra hàng chục các dẫn chứng điển
hình là mốc tích của Trung Quốc đến An Nam làm rõ hình ảnh “Người châu Á tuy bị
người phương Tây xem là lạc hậu - vẫn rất hiểu về sự cần thiết một cuộc cải cách toàn
diện xã hội hiện tại”
Trong tác phẩm thứ hai người lại nêu lên sự lố bịch đến ngu xuẩn của thực dân
Pháp. Khi Nam kỳ bị cai trị bởi một viên Thống đốc do sắc lệnh của Tổng thống nước
Cộng hòa bổ nhiệm trong đó 18 ủy viên Hội đồng là người Pháp – 6 ủy viên của Hội
đồng An Nam. Hồ chí Minh đã coi “Cái cơ quan q hóa ấy – Hội đồng thuộc địa
Nam Kỳ - chẳng phải là một trò hề thực sự sao”
2.2 Tác phẩm Báo cáo Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
Tháng 7-1920, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và tìm thấy
trong đó “cái cần thiết cho chúng ta, con đường giải phóng chúng ta”. Tại Đại hội Tua
(12-1920) của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc
tế III và từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Từ đây, trong những hoạt động
thực tiễn và lý luận sơi nổi và phong phú của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Ban
Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu và tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin về Việt Nam và các nước thuộc địa. Nhận thức của Người về con đường
cứu nước và giải phóng dân tộc ta theo con đường cách mạng vơ sản từng bước hình
thành.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp sang Mátxcơva (Liên Xơ) để tham gia
những sinh hoạt chính trị quốc tế quan trọng ở đây. Người được theo học một khoá
ngắn hạn của Trường Đại học Phương Đông, tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng
sản và nhiều đại hội các đoàn thể quần chúng khác như Quốc tế Nông dân, Quốc tế
Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ và Quốc tế Công hội đỏ, v.v.. Tại các diễn đàn,
Nguyễn Ái Quốc đã tham gia các cuộc tranh luận về các vấn đề chiến lược và sách
lược của cách mạng vơ sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Ở đây người nhận thức thêm được nhiều vấn đề lý luận quan trọng, nhưng cũng nhận
thấy Quốc tế Cộng sản hiểu biết rất hạn chế về tình hình thuộc địa. Như vậy, trước khi
rời Mátx-cơ-va về phương Đông cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành Báo
cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản để trình
bày nhiều vấn đề về thuộc địa ở Việt Nam
Tồn văn tác phẩm được trình bày ngắn gọn, rõ ràng với bốn phần. Phần 1 “Tình
hình người bóc lộ” nêu khái qt chính sách bóc lột của người Pháp ở thuộc địa. Phần
2 “Tình hình người bị bóc lột” chia làm bốn mục về các giai cấp trong xã hội; cuộc
đấu tranh giai cấp; cuộc xung đột giữa hai thế hệ nhà Nho cũ và thanh niên An Nam
đã Âu hoá, hai nền văn minh châu Âu (nhất là Pháp) và châu Á (nhất là Trung Hoa),
chủ nghĩa dân tộc, v.v.. Phần 3 “Cương lĩnh của chúng tôi”. Phần 4 “Tương lai” bao
gồm ba mục người bị bóc lột có thắng nổi người bóc lột khơng, Đơng Dương có đi
theo chủ nghĩa Bơnsêvích được khơng; thực dân Pháp làm gì để ngăn cản tun truyền
Bơnsêvích. Cuối cùng là kết luận, nêu khả năng và điều kiện của khởi nghĩa vũ trang
ở Đơng Dương
3. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong q trình giải phóng dân tộc qua hai
tác phẩm “Báo cáo Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” và hai tác phẩm “Đông
Dương”
3.1 Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc
Thứ nhất, Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản:
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là
một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vịi bám vào thuộc địa. Muốn
đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vịi của nó đi, tức là phải kết
hợp cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa;
phải xem cách mạng ở thuộc địa như là "một trong những cái cánh của cách mạng vô
sản"; mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn dân trên
cơ sở liên minh cơng nơng. Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nơng
dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần
cùng hóa nên họ ln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó,
cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là sự
nghiệp của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nơng dân là một lực lượng
rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn
kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào
lực lượng của nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng
nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực,
vừa là lực lượng đơng đảo, nịng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí Minh ln
khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo
xây dựng khối liên minh cơng - nơng làm nịng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận
Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh
giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối
với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ sung
kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách
mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng
tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
Thứ ba, người ln ln khẳng định tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin lấy
nó làm cơ sở làm động lực để phát triển. Rồi chính từ đó mà các tư tưởng về chủ
nghĩa về giải phóng dân tộc được xây dựng và hình thành. Nguyễn Ái Quốc đề xuất
vận dụng sáng tạo lý luận của Mác vào thực tiễn các nước từ thực tiễn phương Đông
và các nước thuộc địa điển hình như Việt Nam, từ đó bổ sung, phát triển vấn đề của
chủ nghĩa Mác. Các nhà phê bình của Marx dựa trên lý thuyết của ông dựa trên một
triết lý lịch sử nhất định hơn là lịch sử châu Âu, nhưng châu Âu khơng phải là tất cả
nhân loại. Vì vậy, cần phải “nhìn nhận lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó và
tích hợp nó với dân tộc học phương Đơng”. Từ góc độ thực trạng của các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa ở phương Đông, ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đặt ra nhiều
câu hỏi lý luận làm cơ sở cho đường lối và phương thức giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vơ sản.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang;
thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác
định phương pháp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng
con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu
tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi
hoàn tồn.
Cách mạng giải phóng thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính nhưng đương
nhiên phải có những điều kiện khác nữa như tổ chức hạt nhân lãnh đạo cách mạng,
quân đội cách mạng, các tổ chức quần chúng, thời cơ thuận lợi và chắc thắng cho cách
mạng, vấn đề đoàn kết quốc tế… Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc trên đây rõ
ràng có vai trị rất to lớn trong tổ chức và chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh khơng hề đối lập với tinh thần
u chuộng hịa bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối
truyền thống nhân nghĩa của cha ơng ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh
chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng
nhằm mục đích hịa bình: “Dụng việc binh là việc nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu
nước”. Theo Người, hịa bình phải là nền hịa bình thật sự, gắn liền với độc lập, chủ
quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó khơng được đáp
ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là
nghệ thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của
Người.
=> Có thể thấy rằng trong cơng cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa thì quan điểm: Chỉ có thể giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vơ sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiến tiến đã trở thành một tôn chỉ duy nhât, bất di bất
dịch, bởi đó là quan điểm xuất phát từ tư tưởng Mác-Lênin. Nhưng đến Hồ Chí Minh,
Người lại khẳng định có thể xảy ra điều ngược lại. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tư
duy và tầm nhìn của mỗi người. Khơng thể đi so sánh giữa Hồ Chí Minh và MácLênin, nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng yếu tố thời đại có ảnh hưởng khơng nhỏ
đến tư tưởng của mỗi người.
3.2 Giá trị thời đại
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản
khát vọng được sống trong một nền độc lập, tự do và cơng bằng, bình đẳng của khơng
chỉ dân tộc Việt Nam mà cịn là ý chí, khát vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột
trên thế giới. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu
cầu nào khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.
Điều đặc biệt nhất là sáng tạo của Hồ Chí Minh khơng chỉ là người xây dựng cơ
sở lý luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam mà còn là
người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong q trình tổ
chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
thể hiện trách nhiệm của người đứng đầu. Người tổ chức vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc với tinh thần “Các vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước”. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, đấu tranh đi đôi với xây dựng,
cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là nét độc đáo của cách mạng Việt
Nam mang dấu ấn Hồ Chí Minh. Người xác định, kháng chiến trường kỳ gian khổ,
phức tạp, khó khăn, nhưng nhất định thắng lợi. Lý luận của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc vốn đã sáng tạo nhưng lại ngày càng sáng tạo hơn vì đã đi
vào thực tiễn, được làm phong phú bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 cũng như thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập và kháng chiến chống
chiến tranh xâm lược đã làm phong phú thêm lý luận của Người về cách mạng và
chiến tranh giải phóng. Từ đó, có thể khẳng định, những cống hiến sáng tạo của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cả thực tiễn và lý luận đã bổ sung cho kho
tàng lý luận cách mạng thế giới, kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như
truyền thống dựng nước và giữ nước đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc mang
tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ, nó đã tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thức
tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, thì thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các dân tộc ở châu Á, châu Phi và
châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với một mục tiêu duy
nhất là: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người vẫn soi sáng
con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề quan trọng
nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH.
Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững phương
thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức chính xác đặc
điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới
thành cơng trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống để giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một trong những điều kiện quan trọng
nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
PHẦN III KẾT LUẬN
Những quan điểm của Hồ Chí Minh là thành quả của một tư duy sáng tạo, thể
hiện tư tưởng cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong tiến trình đấu tranh
cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Tuyệt nhiên đó khơng phải là
sự vay mượn, hay "nhập khẩu cách mạng". Quan điểm của Người thấm đượm khát
vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh
phúc hướng tới mục tiêu phục vụ cho quyền lợi và khát vọng của dân tộc, hịa quyện
trong tình yêu giai cấp, yêu nhân loại, đượm tính nhân văn, khơng có ranh giới quốc
gia ngăn cách. Hồ Chí Minh đã sống và hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân
tộc thuộc địa, từ đó Người nhận thấy sức mạnh và lực lượng cách mạng đông đảo của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động; Người đã chỉ rõ muốn giải phóng dân tộc
phải dựa vào sức mình là chính; Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh sáng chân lý của thời đại, vũ khí tư tưởng của giai cấp
cơng nhân. Từ đó, Người đã tìm thấy con đường cứu nước mới đó là hướng cách
mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội và bằng sự tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, Người đã chuẩn
bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những quan điểm sáng tạo ấy
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thực sự đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử,
phù hợp với hoàn cảnh trong nước và xu thế thời đại, đáp ứng nguyện vọng của đại đa
số tầng lớp nhân dân, chính vì vậy nó có sức động viên, thu hút lớn lao, trở thành
“kim chỉ nam” cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể
nhân dân Việt Nam giành những thắng lợi vĩ đại trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 81945, trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 - 1975),
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập” xuất bản lần thứ ba năm 2011, do Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành đăng tải trên />2. Báo điện tử cộng sản Việt Nam />3. Lênin Toàn tập, Bản tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, M, t.4, tr.198.
4. Tạp chí tổ chức nhà nước />5. Nhà báo Nguyễn Xn Lương. “Đơng Dương, bài báo có giá trị lớn của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh!” đăng tải trên web: />6. Báo Nhân dân />