Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Thực trạng và giải pháp thị trường sân khấu kịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.19 KB, 18 trang )

1
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HỐ TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ HỌC VĂN HÓA

TÊN ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI
THỊ TRƯỜNG SÂN KHẤU KỊCH TẠI HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Người thực hiện

: Phan Thanh Thùy

Lớp

: 21DLTQLVH

MSSV

: D21.LTQL28

GVHD

: TS. Phạm Phương Thùy

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


1
MỤC LỤC


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG SÂN KHẤU
KỊCH TẠI HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
MỤC LỤC ...............................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU .....................................................................................................................2
1. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...........................................................................................2
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .....................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................3
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................................................................3
1.1.

Khái niệm kịch nói ..................................................................................................3

1.2.

Thể loại kịch ............................................................................................................4

2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG SÂN KHẤU KỊCH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ...................................................................................................................................5
2.1.

Thị trường sân khấu kịch tại Thành phố Hồ Chí Minh ...........................................5

2.2.

Điểm sơ qua nét đặc trưng của những sân khấu tại Thành phố Hồ Chí Minh ........7

2.3.

Thực trạng của thị trường kịch tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay....................8


3. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG KỊCH NĨI TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................................11
3.1.

Đánh giá chung ......................................................................................................11

3.2.

Các giải pháp quản lý ............................................................................................15

KẾT LUẬN ...........................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................17


2
PHẦN MỞ ĐẦU
Với cái nhìn tồn cảnh sân khấu hơm nay, có thể thấy Thành phố Hồ Chí Minh đã thực
sự có một đời sống văn nghệ năng động và sáng tạo. Biểu hiện đầy đủ nhất của lời đánh giá
này là hoạt động biểu diễn thường xuyên, hàng đêm của sân khấu thành phố.
Cơng chúng khán giả, ngồi các phương tiện giải trí hiện đại được trang bị trong gia
đình, hiện nay vẫn có thể đến xem sân khấu kịch, cải lương hoặc rối nước, xiếc hoặc vào một
quán cà phê, ngồi bệt xuống sàn nhà coi kịch…
Hiện thực sôi động của các sân khấu biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có
được đời sống văn nghệ như hiện tại là do sân khấu có khán giả - không phải khán giả giấy
mời mà là khán giả mua vé - Người xem đích thực của mọi sân khấu. Bằng tấm vé mua, bằng
thái độ tích cực hướng về sân khấu người xem đã nuôi dưỡng sân khấu cả về vật chất lẫn tinh
thần. Dù họ là người lao động bình thường hay người trí thức, mọi tầng lớp khán giả đều được
người làm sân khấu quan tâm tìm hiểu để có cơ sở đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
thành phần.
1. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Về nội dung: Xã hội hóa sân khấu đã có từ lâu, nhưng đến bây giờ lần đầu tiên mới có
liên hoan tồn quốc dành cho mơ hình sân khấu có thể thống nhất tính mốc sân khấu được xã
hội hóa từ năm 1989, khi sân khấu thể nghiệm 5B Võ Văn Tần tổ chức liên hoan sân khấu
nhỏ, bắt đầu tạo nên một “thị trường kịch” mới mẻ với khán giả xếp hàng mua vé xem kịch,
điều chưa từng có trước đó trong lịch sử sân khấu cả nước.
Khái niệm thị trường vốn lạ lẫm với nghệ thuật đã được chấp nhận một cách hiển nhiên.
Để tồn tại trong thời buổi cạnh tranh, các sân khấu buộc phải tự mình đi tìm đối tượng khán
giả - “khách hàng” riêng của mình. Và thị trường sân khấu, vì thế, cũng được phân khúc rạch
rịi.
- Về khơng gian: Phạm vi khu vực Thành phố Hồ Chí Minh.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Hoạt động thị trường sân khấu Kịch nói tại Thành phố Hồ Chí Minh.


3
PHẦN NỢI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nghệ thuật kịch nói ra đời rất sớm ở phương Tây và đạt tới trình độ cao ngay từ thời cổ
đại. Sau đó phát triển mạnh và trở thành một loại hình nghệ thuật có tính cách thế giới bắt đầu
từ thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Nhiều đạo diễn đã cho ra mắt những vở diễn hồnh tráng, cơng
phu với dàn diễn viên tài năng, gây được ấn tượng sâu sắc trong lòng cơng chúng. Có những
vở huy động lên sân khấu tới hàng trăm diễn viên với những trường đoạn rất hấp dẫn về chiến
tranh, tâm lý xã hội…
Ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, văn hóa phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp xâm nhập
vào ngày một nhiều. Cùng với các loại hình văn học, nghệ thuật khác, kịch nói cũng được du
nhập và từng bước phát triển. Giai đoạn này, các bộ môn sân khấu truyền thống của nước ta
như tuồng, chèo, cải lương… với những hình thức và ước lệ gị bó khó thể hiện được hết
những vấn đề bức xúc trong xã hội đương đại. Hơn nữa, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của
một bộ phận cơng chúng ở thành thị có những địi hỏi mới và kịch nói tại Việt Nam đã ra đời
nhằm đáp ứng những yêu cầu đó.

Lúc đầu các nghệ sĩ Việt Nam phải dựa vào vở kịch “Người bệnh tưởng” của Molière
và biểu diễn tới hàng năm trời ở Hà Nội và một số thành phố lớn. Từ năm1920 trở đi, những
vở kịch nói Việt Nam đã lần lượt ra đời và từ đó ln giữ vai trị chủ thể của sân khấu kịch
nói nước nhà.
1.1. Khái niệm kịch nói
Kịch là thể loại đặc biệt, nó nằm vừa thuộc lĩnh vực sân khấu, vừa thuộc lĩnh vực văn
học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, kịch được hiểu theo hai cấp độ khác nhau, cấp độ loại
hình và cấp độ loại thể. Ở cấp độ loại hình, kịch là một trong ba phương thức cơ bản của
văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Ở cấp độ loại thể, kịch (có thể hiểu là kịch nói) là một thể
loại tồn tại bên cạnh các loại hình nghệ thuật sân khấu khác như kịch múa, kịch hát.
Sân khấu là một hình thức hợp tác của nghệ thuật sử dụng biểu diễn trực tiếp, thường
bao gồm việc các diễn viên trình bày những trải nghiệm của một sự kiện có thật hay tưởng
tượng trước những đối tượng khán giả tại chỗ ở một nơi cụ thể, thường là nhà hát, một vài
loại trình diễn được xem là sân khấu - như một nghệ thuật trình diễn, nó thường được xem


4
là những buổi biểu diễn trực tiếp mang tính kịch. Một sự trình diễn mang tính kịch tạo ra sự
ảo tưởng trong khán giả. Theo định nghĩa trên, sân khấu đã tồn tại từ buổi bình minh của
lồi người, như một sự phát triển của quá trình kể chuyện.
Sân khấu phương Tây hiện đại chủ yếu bắt nguồn từ nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại.
Sân khấu hiện đại đã kế thừa các thuật ngữ, cách phân loại, chủ đề, nhân vật và cách xây
dựng mâu thuẫn của nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Nghệ sĩ sân khấu Patrice Pavis định
nghĩa sân khấu, ngôn ngữ sân khấu, viết kịch bản sân khấu, và đặc trưng của sân khấu như
các biểu hiện đồng nghĩa nhằm phân biệt sân khấu với nghệ thuật biểu diễn, văn học,
và nghệ thuật nói chung.
Sân khấu hiện đại ngày nay được định nghĩa rộng là các buổi biểu diễn của các vở kịch
và nhạc kịch. Có kết nối giữa sân khấu và các hình thức nghệ thuật ba lê, opera (có sử dụng
màn trình diễn được dàn dựng với trang phục đi kèm hát và nhạc đệm của dàn nhạc) và các
hình thức trình diễn khác nhau.

1.2. Thể loại kịch
Xung đột kịch
Có thể xem xung đột là khởi đầu của kịch. Người đầu tiên đưa ra lí thuyết xung đột kịch
hồn chỉnh là Hegel (trước đó Aristole cũng đã nhắc đến nhưng chưa thực sự đầy đủ và rõ
ràng, mang tính khu biệt). Sau đó, những tên tuổi gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển
của thể loại kịch như Stanislavski, Arthur Miller, ... khẳng định vai trò của xung đột trong
kịch. Xung đột kịch phải được tổ chức trên cơ sở của phương thức điển hình hóa, nó bao gồm
nhiều cặp phạm trù đối lập nhau. Xung đột kịch bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong cuộc
sống, những những mâu thuẫn đó phải gay cấn và kịch tính, có chiều sâu mới trở thành xung
đột và được thể hiện trên sân khấu.
Hành động kịch
Hành động trong kịch khơng chỉ thể hiện tính cách của nhân vật trong qua các cử chỉ,
lời nói, động tác mà hành động còn biểu hiện cho sự cảm nhận và tư duy của nhân vật trước
các tình huống xảy ra trong cốt truyện. Có hai loại hành động, đó là hành động bên trong (là
những yếu tố nội tâm, thường có sự thay đổi do sự tác động của xung đột kịch, tạo nên chiều


5
sâu tâm lý cho nhân vật) và hành động bên ngoài (là điệu bộ, cử chỉ, động tác di chuyển, cách
ăn nói… của nhân vật).
Ngơn ngữ kịch
Ngơn ngữ là thành phần đầu tiên của văn bản nghệ thuật, là điểm nhấn quan trọng của
phong cách viết. Đối với một tác phẩm kịch, tất cả những vấn đề về ngôn ngữ đều được đặt
vào ngơn ngữ nhân vật. Đó chính là điểm khác rõ rệt nhất so với với ngôn ngữ tự sự và ngơn
ngữ trữ tình. Văn bản kịch là văn bản đối thoại, hồn tồn khơng có khái niệm “người kể
chuyện” như trong các tác phẩm tự sự.
Nhân vật kịch: Luôn ở trạng thái căng thẳng (xúc động, xao xuyến, chờ đợi, lo lắng),
được xây dựng bằng ngôn ngữ và mối quan hệ: Xung đột kịch được cụ thể hóa thành hành
động kịch. Nhân vật kịch là người thực hiện các hành động kịch.
Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột giữa các thế lực

xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhống, giả tạo bên ngồi. Tính hài
kịch tạo ra từ sự mất cân xứng, hài hòa của nhân vật. Trong một số hài kịch, có những nhân
vật tích cực thể hiện lí tưởng tiến bộ, nhưng nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật
tiêu cực có nhiều thói hư tật xấu. Tiếng cười trong hài kịch có tác dụng giải thóat cho con
người khỏi những thói xấu, có tác dung trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.
Chính kịch cịn gọi là kịch drame, đề cập đến mọi mặt của đời sống con người, đó là con
người tồn vẹn, khơng bị cắt xén hoặc chỉ tô đậm ở nét bi hoặc hài. Shakespeare là người đầu
tiên đã thể hiện thành công cho loại kịch có sự pha trộn giữa bi và hài này. Dần dần chính
kịch phát triển mạnh vì thích hợp hơn với cuộc sống và con người hiện đại.
Lời của các nhân vật gọi là thoại, bao gồm ba dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG SÂN KHẤU KỊCH TẠI THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
2.1. Thị trường sân khấu kịch tại Thành phố Hồ Chí Minh
Con đường phát triển của sân khấu kịch dễ thấy trước năm 1975, sức sống tân thời của
các sân khấu kịch chính là những tiếng nói phản ánh sự mong mỏi của người dân.
Thời điểm đó, có khơng q 10 sân khấu kịch tồn tại, làm nên tên tuổi của nhiều nghệ
sĩ như kỳ nữ Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Vân Hùng, Túy Hoa, Túy Hồng…


6
Sau 1975, chỉ có vài ba sân khấu kịch hoạt động. Mãi đến khi CLB Kịch thể nghiệm của
Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh ra đời, sàn diễn này đã trở thành bà đỡ cho một lực
lượng nghệ sĩ trẻ hùng hậu, nhiệt huyết, tài năng. CLB đã tạo được uy tín và được nâng tầm
lên thành Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ, mở ra một bước ngoặt lớn cho sân khấu Thành phố Hồ
Chí Minh nói chung và sân khấu kịch nói riêng. Tiếp bước hoạt động và phát triển của nhà
hát, những năm sau đó, hàng loạt sân khấu kịch xã hội hóa (XHH) ra đời với những tiêu chí
nghệ thuật riêng như 5B, Idecaf, Phú Nhuận - Hồng Vân, Sài Gịn, Hồng Thái Thanh, Thế
Giới Trẻ… Có một khoảng thời gian dài, mơ hình sân khấu kịch Xã hội hoá đã khẳng định
được tên tuổi, vị thế, vai trò trong hoạt động và phát triển, thể hiện sự gắn bó, đi vào những
góc cạnh của đời sống xã hội, tâm lý con người thời đại mới.

Xét về yếu tố thị trường, sự cạnh tranh hoàn tồn lành mạnh và sơi nổi, đưa sân khấu
thốt ra cảnh thụ động trong một thời gian dài trước đó. Các sân khấu kịch nói đã góp phần
khơng nhỏ hướng dẫn thẩm mỹ trong thưởng thức nghệ thuật cho khán giả; giáo dục nhân
sinh quan, thế giới quan; hình thành một diện mạo mới cho sân khấu kịch Thành phố Hồ Chí
Minh. Một yếu tố của mơ hình hoạt động SK XHH là cộng đồng trách nhiệm nên tiềm năng
sáng tạo dồi dào của đội ngũ văn nghệ sĩ thành phố được kích thích, đồng thời cũng hình
thành những nhà quản lý sân khấu năng động, bản lĩnh. Khán giả Thành phố Hồ Chí Minh
được cung cấp một “thực đơn” đa dạng với đủ bi kịch, hài kịch, lịch sử, dã sử, tâm lý, viễn
tưởng, truyền thống, ngụ ngôn, kinh dị,... phát triển mạnh cả về lượng lẫn chất. Từ đó cho
thấy, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ trương XHH SK rất nhanh chóng và chủ động,
mà động cơ chính là khát vọng sáng tạo, khát vọng làm nghề của đội ngũ văn nghệ sĩ thành
phố.
Tuy nhiên, sau thời hoàng kim, các sân khấu kịch rơi vào cảnh hoạt động bấp bênh.
Trong khi các loại hình giải trí hiện đại xuất hiện rầm rộ, đa dạng, đáp ứng kịp thời nhu cầu
của cơng chúng, thì các sân khấu kịch cứ quanh quẩn với phong cách phục vụ lối mịn, khơng
gian khán phịng cũ kỹ, cơ sở vật chất xuống cấp, thiếu những tác phẩm có chiều sâu nghệ
thuật và đậm chất giải trí.
Với nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, khiến cho khán giả đến với sân khấu
cứ thưa dần. Để duy trì, xu thế kịch thị trường, viết theo thị hiếu của công chúng ra đời với
hàng loạt tác phẩm được công diễn, song tác phẩm hay khơng nhiều. Sau mơ hình sân khấu


7
kịch xã hội hố, thị trường kịch nói lại xuất hiện thêm mơ hình kịch cà phê, là hình thức kịch
tư nhân, tự phát.
2.2. Điểm sơ qua nét đặc trưng của những sân khấu tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1.

Thị trường cung của sân khấu Kịch Thành phố Hồ Chí Minh


Sân khấu Kịch 5B : đến với 5B vì sự trẻ trung, thanh xuân trong biểu diễn phù hợp với
khán giả trí thức, lớn tuổi, đằm tính. Ở sân khấu này khơng có nhiều kỹ xảo mà diễn xuất
dùng tiếng nói thật của diễn viên đã hạn chế nhiều cái giả - nhất là cái giả âm thanh.
Sân khấu Idecaf : Dành cho khán giả trẻ cá tính, dân làm văn phòng, các em thiếu nhi
và một lượng lớn fan của NSƯT Thành Lộc. có đủ các loại kịch từ nghiêm túc đến khôi hài,
từ huyền thoại đến lịch sử, từ nhạc kịch đến kịch thần tiên Khán giả của Idecaf lại thích thưởng
thức sự điêu luyện của nghề biểu diễn chuyên nghiệp cao. Họ đến với sân khấu này trước hết
vì tài năng của nghệ sĩ biểu diễn rồi mới đến cái phong phú của những câu chuyện kể từ kịch
thiếu nhi đến những vở chính luận, lịch sử. Người ta thích sự phóng khống của nghệ thuật
diễn với đủ thứ tìm tịi, mới lạ
Sân khấu Hồng Thái Thanh: Cơng chúng bắt đầu u sân khấu Hồng Thái Thanh vì
ở đây khơng có kịch giải trí đơn thuần; mà xem kịch với nhiều câu chuyện tình cảm gia đình
xúc động và thấm đẫm nhiều nghĩ suy về con người, về cuộc đời.
Sân khấu Phú Nhuận - Hồng Vân : Làm kịch mang phong vị Bắc nhắm vào đối tượng
khán giả ở quận Phú Nhuận, Gò Vấp với khá nhiều người gốc Bắc. Đến với sân khấu Phú
Nhuận là được “giải trí” theo cách xử lý âm thanh ánh sáng đưa người xem vào thế giới ma
quái, kinh dị hoặc trở về thế giới văn học, được đưa lên sân khấu qua tài diễn của diễn viên
Sân khấu Nụ Cười Mới lại chủ yếu khai thác tối đa “yếu tố hải ngoại” với lượng khán
giả hâm mộ danh hài Hoài Linh, Chí Tài bằng các vở kịch dài, kịch ngắn, live show.
Khán giả trẻ thành phố cũng sẵn sàng ngồi bệt dưới sàn để thưởng thức cà phê kịch một loại hình khơng mới nhưng lạ. Trước hết là nó cho phép người đam mê sân khấu thỏa
mãn khát khao được diễn, được sáng tạo. Do vậy mà thành phố hiện nay có thêm một số điểm
cà phê sáng đèn diễn kịch.


8
2.2.2.

Thị trường cầu của sân khấu Kịch Thành phố Hồ Chí Minh

Cần đầu tư cho việc lựa chọn chủ đề, sáng tác kịch bản, bồi dưỡng nghiệp vụ diễn viên.

Bên cạnh đó là đầu tư cải tạo, nâng cấp và hiện đại hóa sân khấu hiện có; khơng ngừng đổi
mới các hình thức, phương thức thể hiện tác phẩm, sao cho chuyên nghiệp, hiện đại hơn, đáp
ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của khán giả; đẩy mạnh công tác quảng
bá để vở diễn đến với đông đảo cơng chúng.
2.2.3.

Hàng hóa

Các vở diễn tại sân khấu Kịch nói.
2.3. Thực trạng của thị trường kịch tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Tiếng lịng chung của bao nghệ sĩ đang nỗ lực làm nghề chính là nỗi niềm mong mỏi
nhà nước, các cơ quan quản lý văn hóa phải có sự quan tâm nhiều hơn đến mơ hình nghệ thuật
đặc biệt này. Cần thiết phải tạo điều kiện để các sân khấu hoạt động, tổ chức biểu diễn tốt
hơn, từ đó mới có thể địi hỏi các sân khấu phải có những tác phẩm chất lượng. Nhất thiết,
TPHCM cần có ngay một chiến lược để củng cố sân khấu XHH, có sự định hướng kịp thời
khơng để hệ thống sân khấu này bị lụi tàn, tự sinh tự diệt trong sự tiếc nuối của công chúng.
Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 cịn diễn biến phức tạp, chưa biết đến khi nào
có thể kiểm sốt được hồn tồn, đã đến lúc đơn vị sân khấu cần tính đến những phương thức
hoạt động phù hợp, từng bước khôi phục hoạt động bên cạnh việc thực hiện nghiêm ngặt các
biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Chẳng hạn như triển khai các chương trình khuyến mại,
giảm giá vé, quảng bá, đưa sân khấu đến gần hơn với công chúng, nhất là với giới trẻ, học
sinh, sinh viên. Hay ứng dụng công nghệ in-tơ-nét và nền tảng kỹ thuật số, lập các kênh
YouTube, tạo sân khấu biểu diễn trực tuyến. Đây là hướng đi thiết thực và hiệu quả của sân
khấu hiện đại bên cạnh hình thức sân khấu truyền thống, nhằm tiếp tục duy trì và phát triển
thị trường khán giả, chờ đợi sân khấu sáng đèn trở lại sau dịch bệnh.
Với đơn vị có điều kiện hơn thì tập trung vào việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật rạp hát,
dàn dựng, nâng cao chất lượng các chương trình, vở diễn mới và chuẩn bị cho các kế hoạch
dài hơi hậu Covid-19. Đồng thời tích cực tìm việc cho các nghệ sĩ, diễn viên như tham gia
các dự án văn hóa, nghệ thuật, tham gia vào các chương trình, vở diễn mang ý nghĩa cộng
đồng, tuyên truyền và cổ động cho cơng tác phịng, chống dịch bệnh. Mặc dù trước đây, Bộ



9
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có những gói kích cầu dành cho một vài nhà hát, đơn vị sân
khấu kịch thông qua việc xây dựng những chương trình, vở diễn nghệ thuật chất lượng cao,
nhưng thật sự thì sự hỗ trợ đó là q nhỏ so với nhu cầu thực tế và chỉ mang tính trước mắt.
Về lâu dài, đồng thời cũng là xu thế chung, nên có một chiến lược dài hạn với kinh phí từ
ngân sách nhà nước để giúp các nhà hát, đơn vị nghệ thuật sân khấu có khả năng chuyển đổi
và xây dựng phương thức biểu diễn trực tuyến, từng bước tạo nguồn thu từ tài trợ và quảng
cáo như nhiều lĩnh vực nghệ thuật đã và đang thực hiện.
2.3.1.

Nguồn nhân lực

Sân khấu thành phố cho thấy chúng ta đang có một lực lượng diễn viên trẻ được đào tạo
khá bài bản từ nhà trường văn hóa nghệ thuật, sân khấu điện ảnh và một số lớp đào tạo do các
công ty kinh doanh nghệ thuật mở để tạo nguồn. Chúng ta đang có những thương hiệu sân
khấu có sức cuốn hút từ các ngôi sao sân khấu, từ những đạo diễn tài năng và chúng ta đang
có một cơng chúng lý tưởng.
Bằng sự sáng suốt tự phát, công chúng cũng đã tham gia vào công việc định hướng của
các nhà quản lý. Người xem đã biết lựa chọn cái hay, loại bỏ cái dở của sân khấu. Một tín
hiệu gần đây nhất là khán giả thích kịch chính luận, kịch nghiêm túc nếu hay. Số đông khán
giả không hưởng ứng cái cười giải trí đơn thuần, cái hài rẻ tiền… Báo chí, cơng luận vẫn uốn
nắn những lệch lạc qua cơng tác phê bình trên các tờ nhật báo lớn, tên tuổi và khơng thể khơng
nhắc tới vai trị của tạp chí chuyên ngành sân khấu là hai tờ sân khấu Trung ương và sân khấu
Thành phố trong công việc định hướng dư luận, sáng tạo của diễn viên và sáng tác của các
tác giả.
Số lượng thí sinh đăng ký học ngành diễn viên và đạo diễn sân khấu tại Trường Đại học
Sân khấu - Điện ảnh, Đại học Văn hóa, Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP.HCM, Cao đẳng
Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gịn… Cũng như khóa học ngắn hạn tại các sân khấu vẫn

được các bạn trẻ nhiều ngành nghề và độ tuổi ghi danh. Sự tăng trưởng này cũng là một tin
đáng mừng cho ngành sân khấu. Hơn nữa, Sân khấu nhỏ 5B đã trình làng CLB Diễn viên trẻ
do NSƯT Việt Anh phụ trách, quy tụ 80 diễn viên, sinh viên, đạo diễn trẻ xuất thân từ các
trường nghệ thuật. Hoạt động chính của CLB là tập huấn cho các tác giả trẻ viết kịch bản, đạo
diễn dàn dựng vở trong không gian nhỏ với dàn diễn viên trẻ làm chủ lực. Từ chiếc nôi của


10
“5B”, hình thành những tên tuổi được xem là thế hệ vàng của sân khấu kịch nói TP.HCM
trưởng thành sau ngày đất nước thống nhất
Điều đáng mừng hơn chính là cơng tác lý luận phê bình sân khấu kịch đã được vực dậy,
tích cực thúc đẩy sân khấu xã hội hóa phát triển. Chính tính chất năng động, sự nhanh nhạy
trong giới thiệu, đánh giá tác phẩm của người làm cơng tác lý luận phê bình và báo chí thời
đại 4.0 đã động viên và thúc đẩy những nỗ lực phát triển sân khấu, đồng thời làm tốt việc
hướng dẫn dư luận. Qua đó, góp phần phản ánh kịp thời đời sống sân khấu, cung cấp thông
tin về thị hiếu người xem để người làm sân khấu bắt nắm thị hiếu của công chúng.
Bằng tất cả nhiệt huyết, ông bà “bầu” các sân khấu kịch đã nỗ lực tự thân vận động, đầu
tư, tổ chức biểu diễn, làm nên những thương hiệu nghệ thuật, thu hút khán giả đến với sân
khấu. Nhưng sau giai đoạn đầu hoạt động tích cực và hiệu quả, nhiều sân khấu thể hiện sự
đuối sức.
2.3.2.

Về nội dung

Nguồn kịch bản khan hiếm dần các đề tài mà người dân quan tâm. Những câu chuyện
cứ được kể từ hào quang cũ, từ sự “an toàn” khi ngại bị kiểm duyệt, dẫn đến việc chạy theo
thị hiếu khi xuất hiện kịch ma, kịch quỷ, kịch đồng tính… lạm dụng và thiếu kiểm soát, một
thời gian dài nhiều sàn diễn kịch xã hội hóa rơi rụng. Bên cạnh đó, trên đà phát triển sân khấu
kịch TP.HCM đã thiếu chiến lược đầu tư nền tảng, đó là thiếu sự đào tạo đối với công tác
quản lý, tức ông bà bầu của sân khấu kịch.

Nhà nước đặt hàng vở diễn cho sân khấu để phục vụ cho các công tác tuyên truyền
nhưng nội dung bị giới hạn và kén khán giả.
Các vở diễn đã khơng cịn hấp dẫn như trước. Mặt khác, kịch bản đầu tư bài bản dường
như vắng bóng, thiếu sự tươi mới và yếu tố độc đáo nên các vở diễn khơng cịn mang dấu ấn
trong ký ức của tôi như thời kỳ trước”
Không thể phủ nhận sự đi xuống về chất lượng vở diễn, thời gian tập vở mới ngắn, diễn
viên ít đổ cơng sức cho sàn diễn; người làm cơng tác sáng tạo lại thích ăn sẵn khơng chịu đào
sâu; đội ngũ đạo diễn có nghề cũng ngày một thưa thớt, thiếu những cây viết sân khấu giỏi
nghề, nhiều kinh nghiệm, nhanh nhạy nắm bắt thị hiếu và xu hướng giải trí mới. Tất cả những
tồn tại ấy đã ảnh hưởng đến chất lượng các sân khấu và lượng khán giả đến với kịch nói.


11
Mặt khác, không thể chỉ làm những vở kịch theo xu hướng thị trường, mà sân khấu còn
phải sáng tạo những vở diễn có chất lượng nghệ thuật và định hướng quan điểm thẩm mỹ”.
Tuy nhiên, những vở kịch có chất lượng và mang tính thẩm mỹ rất khó bán vé, ảnh hưởng lớn
tới nguồn thu của sân khấu.
2.3.3.

Về công chúng

Số đông khán giả không hưởng ứng cái cười giải trí đơn thuần, cái hài rẻ tiền… Báo chí,
cơng luận vẫn uốn nắn những lệch lạc qua công tác phê bình trên các tờ nhật báo lớn, tên tuổi
và khơng thể khơng nhắc tới vai trị của tạp chí chun ngành sân khấu là hai tờ sân khấu
Trung ương và sân khấu Thành phố trong công việc định hướng dư luận, sáng tạo của diễn
viên và sáng tác của các tác giả.
Trong cơn lốc phát triển của các phương tiện nghe, nhìn, sân khấu trở nên lép vế, nếu
khơng nói là bị bỏ lại khá xa. Bài toán khán giả vẫn là bài tốn nan giải nhiều năm qua chưa
có chìa khóa để mở cho hoạt động sân khấu.“Chúng ta mải mê với kịch bản, đào tạo diễn
viên, lo lắng về các vấn đề học thuật mà chúng ta bỏ quên khán giả cho sân khấu đang ở đâu.

Một vở diễn ra mắt, dù hay đến mấy mà khơng có khán giả thì cũng khơng có nhiều giá trị,
hay chỉ để anh em trong nghề khen chê với nhau. Thực trạng đắp chiếu của các vở diễn khiến
chúng ta đau lịng. Nhìn lại, chúng ta đã làm được những gì cho sân khấu, phải bắt tay vào
làm trước khi trách khán giả thờ ơ” Theo NSND Thúy Mùi nói.
Vai trị của khán giả thực sự là một thành tố tạo nên tác phẩm sân khấu chứ không đơn
thuần là người tiêu thụ sản phẩm văn hóa đặc biệt.
Lượng khách giảm gần 50%, trong khi chi phí đầu tư cho vở diễn tốn kém, tiền thuê mặt
bằng tăng cao... khiến nhiều người làm nghề nản lòng
Nhưng hầu hết những người trẻ hiện nay đều biết sân khấu là di sản quý giá của ơng
cha, nhưng ít ai mặn mà lựa chọn.Chỉ cịn những cơ chú trung niên họ muốn tìm lại những ký
ức đã củ mà dôi lần lui tới.
3. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG KỊCH NÓI TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Đánh giá chung


12
Nếu coi sân khấu là một loại hàng hóa tinh thần đặc biệt thì muốn tiêu thụ, người làm
sân khấu phải tìm cách tiếp thị được những giá trị tinh thần của hàng hóa ấy tới người mua.
Nghĩa là để cơng chúng chủ động tìm đến với sân khấu, họ phải được hiểu, thẩm thấu vẻ đẹp,
giá trị của sân khấu gửi gắm trong từng vở diễn. Ðiều này chỉ có thể thực hiện thơng qua q
trình đào tạo khán giả, để họ từ hiểu dẫn tới yêu và hình thành nhu cầu thường xuyên được
thưởng thức sân khấu. Ngoài ra, một trăn trở, bức xúc khác của các đơn vị biểu diễn là họ
đang đứng trước nguy cơ bị mài mòn về chất của các tiết mục sân khấu, do chịu tác động tiêu
cực của hiện tượng diễn viên đóng phim truyền hình.
Mối lo thứ hai là khi sân khấu hoạt động theo thị trường thì thị hiếu của cả người xem
lẫn người làm sân khấu đều ít nhiều chạy theo sở thích giải trí đơn thuần. Chất lượng nghệ
thuật, chất lượng tư tưởng sẽ chịu sự tác động của thị trường.
Quản lý diễn viên như thế nào, định hướng sân khấu ra sao là những vấn đề cấp thiết,
nếu chúng ta không muốn sân khấu rơi vào những lệch lạc.

3.1.1.

Thành tựu

Tháng 8/1997, Chính Phủ ban hành Nghị Quyết số 90/CP về Phương hướng và chủ
trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, cùng thời điểm đó, Nhà hát kịch Sân
khấu Nhỏ được thành lập (tiền thân là Câu lạc bộ sân khấu kịch Thể nghiệm 5B Võ Văn Tần)
Đến đầu những năm 2000 sau sự thành công của mô hifnh sân khấu nhỏ đã thúc đẩy
một số nghệ sĩ - cánh chim đầu đàn của Nhà hát kịch sân khấu nhỏ tách ra làm sân khấu riêng
hy vọng xây dựng một nền sân khấu mới.
Cũng thời gian này, mỗi đơn vị dàn dựng 4 đến 7 tiết mục/năm - kịch bản đa dạng, phản
ảnh một số vấn đề xã hội; dàn dựng nghiêm túc, có tính nghệ thuật. Mỗi sân khấu tạo dựng
một vài ngôi sao, xây dựng phong cách riêng và thị phần khán giả tự động được phân chia.
Nhìn lại thời điểm đó, có thể nói, khởi đầu cho sự nở rộ các sân khấu ngồi cơng lập ở
TPHCM, chính là khát vọng làm nghề, là nhu cầu sáng tạo đáp ứng một thị trường khán giả
vừa rộng, vừa đa dạng và đầy tiềm năng trong thưởng thức nghệ thuật.
Liên hoan sân khấu xã họi hoá lần thứ nhất diễn ra từ ngày 8/10 đến ngày 3/11/2006 tại
TPHCM. Các đơn vị sân khấu kịch nói ngồi cơng lập đã hưởng ứng rầm rộ khi cả nước có


13
16 đơn vị tham gia với 25 vở diễn, trong đó có 21 vở thuộc 11 đơn vị của TPHCM, phần đơng
là các đơn vị ngồi cơng lập.
Hội diễn sân khấu kịch chun nghiệp tồn quốc năm 2009, có 26 vở diễn của 18 đơn
vị cơng lập và ngồi cơng lập. Kết quả có 2 trong 3 Huy chương Vàng Hội diễn thuộc về sân
khấu kịch Hồng Vân.
Liên hoan sân khấu kịch tồn quốc năm 2018, có 13/22 đơn vị xã hội hóa của TPHCM
tham gia. Kết quả, TPHCM có 1 vở đoạt Huy chương Vàng trong tổng số 4 Huy chương
Vàng; 4 vở đoạt Huy chương Bạc trong số 6 HCB; 1 giải tác giả xuất sắc nhất, 1 giải đạo diễn
xuất sắc nhất và nhiều giải thưởng khác,...

Liên hoan Sân khấu kịch nói tồn quốc 2021 có sự tham gia của 14 đơn vị nghệ thuật
chuyên nghiệp với 20 vở diễn thuộc nhiều thể loại, đề tài, từ lịch sử đến hiện đại, từ thời chiến
đến thời bình, từ nông thôn đến thành thị… đã được các nghệ sỹ dự thi thỏa sức sáng tạo,
mang đến cho khán giả nhiều cung bậc cảm xúc,có thể thấy được sân khấu Việt đang có nhiều
thay đổi, có nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức. Đề tài được phản ánh trong Liên
hoan rất phong phú, mới và có giá trị dự báo. Các đơn vị nghệ thuật đã chú trọng đến việc
đầu tư vào kịch bản, đạo diễn, diễn viên và các bộ phận kỹ thuật như âm thanh, ánh sáng…
để cho ra đời những tác phẩm sân khấu có chất lượng. Các nghệ sỹ có được điều kiện tốt nhất
để bộc lộ tài năng sáng tạo, người xem được thưởng thức nhiều vở diễn hấp dẫn.
Mặc dù ở giai đoạn xế chiều nhưng thị trường sân khấu Kịch vẫn mang lại nét đặc trưng
riêng và mang trong mình sức chảy âm ỉ trong giai đoạn thời đại 4.0
Mặt tích cực của mơ hình xã hội hố sân khấu địi hỏi các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội, phải cạnh tranh dành thị phần khán giả, buộc nghệ sĩ,
đơn vị nghệ thuật phải liên tục sáng tạo, đổi mới. Nhiều nghệ sĩ sống được bằng nghề, với lao
động nghệ thuật nghiêm túc. Sự cạnh tranh lành mạnh đã tạo cơ hội cho đội ngũ tác giả trẻ,
đạo diễn, diễn viên, thiết kế sân khấu, âm thanh, ánh sáng… tốt nghiệp từ trường chuyên
ngành sân khấu có việc làm ổn định, làm nghề đúng với sở học của mình.
3.1.2.

Hạn chế

Sân khấu Kich nói vốn đứng trước mn vàn khó khăn thử thách trong năm 2021, loại
hình nghệ thuật này tiếp tục chịu tác động lớn. Theo đánh giá của ông Trần Hướng Dương -


14
Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, đây là thời điểm rất khó khăn với nghệ thuật sân
khấu. Nhiều sân khấu đa phần phải đóng cửa, tạm dừng hoạt động vì dịch bệnh COVID-19.
Tuy khó khăn, nhưng ít ra các nghệ sĩ, diễn viên đơn vị nghệ thuật công lập còn được
bảo đảm mức lương tối thiểu của Nhà nước, đồng thời cũng được ưu tiên với những gói hỗ

trợ biểu diễn, tạo điều kiện qua các chương trình, vở diễn đặt hàng của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch. Trong khi đó, tình trạng của các đơn vị sân khấu xã hội hóa khó khăn hơn nhiều
khi khơng có doanh thu biểu diễn, đồng nghĩa với việc các nghệ sĩ, diễn viên, người lao động
sẽ khơng có thu nhập mà tiền thuê rạp, đặt cọc biểu diễn đã phải nộp trước, khơng thể bỏ.
Có lẽ vì thế mà phần lớn các đơn vị sân khấu Kịch ở TP Hồ Chí Minh vẫn phải tìm cách
tồn tại, duy trì hoạt động dù ít, dù nhiều trong điều kiện thực hiện nghiêm các biện pháp
phòng, chống dịch theo quy định. Thực ra đây là sự lựa chọn sinh tử. Ngồi chuyện “dao có
mài mới sắc” cịn là nỗi lo cơm áo gạo tiền, vượt qua thử thách chung. Ngay cả các nghệ sĩ,
diễn viên cũng khó có thể tập trung để diễn hay, diễn tốt trên sân khấu trong tâm thế lo lắng
về dịch bệnh. Nói như một lãnh đạo nhà hát, việc duy trì biểu diễn đối với họ như một “lối
thoát hiểm” giúp các nghệ sĩ, diễn viên có việc làm, giữ “lửa” với nghề trước khó khăn hiện
tại.
Ngồi yếu tố chất lượng chun mơn, một trong những nguyên nhân khiến thị trường
sân khấu kịch ngày càng khó khăn là do sự cạnh tranh quyết liệt bởi những địa điểm mới liên
tiếp ra đời, trong khi bài tốn kinh doanh hiệu quả lại khơng đạt.
Cơ sở hạ tầng khá nhiều mặt bằng sân khấu xuống cấp, điều kiện trang thiết bị kỹ thuật
hạn chế, nhưng vì chi phí đầu tư cao mà nhiều năm nay các sân khấu ln trong tình trạng bù
lỗ, khiến việc đầu tư cải tạo rất khó khăn. Mặt khác, chi phí th lại các sân khấu có sẵn, rồi
sau đó tiếp tục đầu tư thêm rất tốn kém có thể lên đến vài tỷ đồng. Cịn nếu xây mới lại hồn
tồn thì là một con số khổng lồ. Trong khi đó doanh thu của một vở diễn không đáng là bao
nên rất khó để vực dậy mảng kinh doanh này.
Để thay đổi diện mạo làng kịch TP HCM, nhiều sân khấu đã phải phối hợp với nhà hát
kịch Thành phố, nhưng sau vài tháng hoạt động phải bù lỗ liên tục. Thậm chí có sân khấu
kịch dù dùng nhiều chiêu khuyến mãi giảm giá vé nhưng tình hình vẫn khơng biến chuyển.
Một số sân khấu cịn lại thì ế ẩm thường xun và có những suất diễn mà khán giả chưa đến
10 người.


15
Cơ quan quản lý thả nổi. Các đoàn kịch của Nhà nước được cấp kinh phí nhưng lại tạo

ra những sản phẩm rời xa với nhu cầu của khán giả. Trong khi đó, các sân khấu kịch tư nhân
ln phải tự thân vận động mà khơng hề có sự kết nối hay hỗ trợ từ khu vực Nhà nước. Nhiều
diễn viên sân khấu tiền cát sê chưa đầy 300.000 đồng mỗi đêm, nhưng vì yêu nghề nên họ
vẫn diễn. Mặt khác, điều đáng lưu tâm là các sân khấu kịch tư nhân không ổn định về địa
điểm diễn, hầu hết đều thuê mướn và có nguy cơ bị lấy lại.
3.2. Các giải pháp quản lý
3.2.1.

Hệ thống pháp luật

Qua nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, qua nhiều ý kiến đề xuất như: Để đưa sân khấu kịch
phát triển đúng hướng, hàng năm, thay vì đầu tư vào các Trại sáng tác thì Nhà nước đưa ra
chủ trương, đề tài yêu cầu các sân khấu (cả cơng lập và ngồi cơng lập) lập đề án, kế hoạch
thực hiện (đặt hàng tác giả viết, dàn dựng, phục vụ,...), trên cơ sở đó, Nhà nước phân loại,
chọn lựa và đầu tư. Hoặc, xét yêu cầu của Hội chuyên ngành, của các cơ quan quản lý, Nhà
nước đặt hàng cụ thể cho tác giả, cho các sân khấu có năng lực, có điều kiện triển khai thực
hiện. Nhà nước tài trợ 100% cho tác phẩm và quảng bá đối với các dự án nghệ thuật có hiệu
quả, những dự án mang tính tun truyền, giáo dục cao, tác động tích cực đến cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần sớm có Đề án triển khai chiến lược phát triển ngành cơng nghiệp hóa
nghệ thuật biểu diễn, trong đó, chú trọng lĩnh vực XHH SK, thơng qua một số phương thức
đầu tư, hỗ trợ cụ thể về cơ sở vật chất; khuyến khích mở các Trung tâm đào tạo, các Trường
dân lập về nghệ thuật, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực ở các chuyên ngành lý luận phê bình
sân khấu, tác giả, đạo diễn, diễn viên, thiết kế sân khấu, âm thanh, ánh sáng,... Cần huy động
các nguồn lực trong xã hội, thành lập Quỹ phát triển nghệ thuật sân khấu TP để đầu tư trở lại
cho tác phẩm. Càng nhiều tác phẩm hay thì sẽ thu hút càng nhiều khán giả ủng hộ Quỹ, kích
thích nghệ sĩ sáng tạo…
3.2.2.

Cở sở hạ tầng


Hầu hết người làm sân khấu kịch xã hội hóa hiện nay là có được cơ sở hạ tầng của
mình, khơng phải vất vả th, mướn,… Nếu như trước đây, kể cả khi khơng có dịch, sân
khấu kịch nói chung và nhất là các sân khấu kịch dân tộc ln trong tình trạng loay hoay
vượt khó, “kêu cứu” vì thiếu khán giả trước sự cạnh tranh của các loại phương tiện giải trí
khác thì ở thời điểm hiện tại, cái khó lại thêm chồng chất.


16
KẾT LUẬN
Từ những năm 1990, sân khấu Kịch tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có những hiện tượng
có thể nói là huy hồng với các khán phịng thường xun đầy ắp khán giả, Sở dĩ thu hút được
khán giả là do lúc đó, sân khấu hoạt động theo thị trường, quy luật cung cầu nhưng sự cạnh
tranh với các phương tiện nghe nhìn, truyền thơng, giải trí… chưa nhiều, chưa gay gắt như
hiện nay. Sự thu hút của các kênh truyền hình giải trí chưa mạnh, chưa hấp dẫn nên khán giả
đến với sân khấu là lẽ tự nhiên. Về phía người làm sân khấu, họ đã mang lại cho khán giả
kịch nói sự hưởng thụ đúng nghĩa. Vở diễn đạt tới sự toàn vẹn của tổng hợp các nghệ thuật
viết, đạo diễn và diễn viên. Sự có mặt đông đảo khán giả là thành tố cuối cùng tạo nên một
sự trình diễn hồn chỉnh, một vở diễn đúng là một tác phẩm nghệ thuật
Có thể nói, những năm “vang bóng một thời” ấy, buổi đầu cịn bỡ ngỡ chưa biết nhiều
về cơ chế thị trường. Người làm sân khấu, bằng cảm tính nhạy bén, bằng niềm say mê tự phát
đã đến với khán giả. Họ cung cấp những sản phẩm nghệ thuật có chất lượng, giúp khán giả
nâng cao khả năng nhận biết, cảm thụ và trình độ hưởng thụ cái hay, cái đẹp của nghệ thuật
sân khấu.


17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế học văn hóa - Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh - Phó giáo sư, Tiến sĩ: Lê Ngọc Tịng - biên soạn,
năm 2013

2. />3.
4.
5.
6. />7. />8. />9.
10. Một số tài liệu khác…



×