Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG XÃ TRƯỚC YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.87 KB, 15 trang )

Học viện Ngoại Giao
Khoa Truyền thơng và Văn hố đối ngoại
——— *** ———

BÀI TẬP NHĨM
Mơn học : Văn hố Việt Nam và hội nhập quốc tế
Đề tài
ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ THAY
ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA LÀNG XÃ TRƯỚC YÊU CẦU XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên :

TS. Đào Ngọc Tuấn
TS. Trần Hồng Thuý

Sinh

viên thực

Nguyễn Phạm Tâm Nguyên

hiện :
Lớp:

TTQT48C1(B)

Hà Nội, 12/2021


Mục lục
Mục lục



2

I.ĐẶC TRƯNG LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
1.Đôi nét về làng xã Việt Nam truyền thống
2.Quá trình hình thành và phát triển làng xã qua các thời kỳ lịch sử
a.Thời kỳ hợp tác hóa
b.Thời kỳ sau đổi mới
3.Các đặc trưng tính chất của làng xã Việt Nam truyền thống
a.Tính cộng đồng:
b.Tính bảo thủ
c.Tính tự quản tự trị
d.Chủ nghĩa cục bộ địa phương

3
3
4
4
5
5
5
7
7
8

II.SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG LÀNG XÃ TRƯỚC NHỮNG
YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
9
1.Sự thay đổi trong những đặc trưng làng xã truyền thống
9

a.Tính cộng đồng
9
b.Tính bảo thủ
10
c.Tính tự quản, tự trị
11
d.Chủ nghĩa cục bộ địa phương
11
2.Công cuộc xây dựng nông thôn mới
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


I.ĐẶC TRƯNG LÀNG XÃ VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
1.Đôi nét về làng xã Việt Nam truyền thống
Làng xã là đơn vị tụ cư truyền thống của người dân Việt ở nông thơng; có khu vực
địa lý, cơ sở hạ tầng, cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán, quan niệm nếp sống và cả
thổ ngữ, giọng địa phương, hay còn gọi là giọng làng riêng tương đối hoàn chỉnh và
ổn định trong quá trình xây dựng và phát triển lịch sử. Tương tự như một bộ luật thu
nhỏ, để duy trì sự ổn định và an toàn, mỗi làng xã sẽ có một bộ hương ước riêng.
Hương ước là các lệ làng (các tục lệ đã trở thành tập quán của mỗi làng) được viết
thành văn bản, được quy định chặt chẽ về cơ cấu, được công khai minh bạch cho
người dân của làng. Hương ước chủ yếu quy định về các chức vụ trong làng; các loại
thuế má, phân chia ruộng đất canh điền; các giấy tờ khai sinh khai tử và xử lý cái vi
phạm;... Hương ước sẽ do chính dân làng soạn thảo và được cơng khai, vậy nên mỗi
hương ước sẽ phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hay chính trị của từng làng. Hằng
năm, hương ước sẽ được đọc một lần ở đình làng để dân làng kịp nhớ, kịp thuộc, cũng
như để đưa ra bàn bạc sửa đổi về những điều luật không còn phù hợp với bối cảnh xã

hội bấy giờ.
Làng xã chính là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của người dân, đại diện và kết
tinh cho sức mạnh dân tộc. Trong thời kỳ lịch sử chiến tranh chống giặc ngoại xâm,
làng là cơ cấu chính yếu cung cấp lao động, nhân công, lương thực, giúp dân tộc ta
bảo toàn lực lượng, phục hồi sức mạnh và vùng lên phá tan giặc. Cư dân trong làng
gắn bó với nhau với nhiều mối quan hệ như: mối quan hệ huyết thống, mối quan hệ
láng giềng, mối quan hệ nghề nghiệp,... Dù là mối quan hệ nào thì người dân trong
làng vẫn luôn tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau, tạo nên đặc trưng chủ nghĩa cộng đồng.
Mỗi làng thường có đình làng thờ Thành hồng, có các cơ sở sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng như miếu, am, đền, qn. Tóm gọn lại, làng xã là một cộng đồng đa chức
năng liên kết với nhau bằng nhiều mối quan hệ chặt chẽ và có sự phát triển lâu đời qua
từng thời kỳ lịch sử.


Cơ cấu tổ chức làng xã truyền thống ngày xưa khá đơn giản, nhưng chặt chẽ và
được hệ thống rõ ràng. Bộ máy hệ thống tổ chức bao gồm Hội đồng hương chính và
Lý trưởng do dân làng tự bầu, do Nhà nước phê duyệt. Nếu có chức vị nào khơng cịn
phù hợp hoặc người giữ chức vị khơng hồn thành trách nhiệm, khả năng làm việc
kém cỏi sẽ bị dân làng phế truất và bầu người đương nhiệm mới. Ngồi ra, làng cịn có
đội ngũ tuần phiên, giữ vai trò đảm bảo an ninh trật tự trong làng và cả ngoài đồng;
chuyên xử lý cái sự vụ trộm cắp tài sản hoặc lúa thóc, gây mất trật tự cộng đồng. Nếu
đội tuần phiên lơ là, để tình trạng trên xảy ra nghiêm trọng, thì phải bị phạt và đền cho
gia đình nạn nhân 100% tài sản bị mất cắp.

2.Quá trình hình thành và phát triển làng xã qua các thời kỳ lịch sử
a.Thời kỳ hợp tác hóa
Trong thời kỳ này, do phải đáp ứng các yêu cầu phát triển của thời vụ canh tác, nên
người nông dân giúp đỡ nhau trong một số công việc, gọi là đổi công cho nhau. Sự
hợp tác này dựa trên nhiều mối quan hệ, nhưng chủ yếu vẫn là mối quan hệ láng
giềng. Vì gần nhau và thân thiết cho nên người nơng dân hiểu rõ tính chất cơng việc

của nhau, hơm nay anh giúp tơi thì ngày mai tơi giúp anh, lấy đơn vị “ngày công” làm
cơ sở. Đặc biệt, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hoạt động đổi công được chú
trọng và phát triển mạnh mẽ hơn vì nhiều gia đình có con ra trận tham gia chiến tranh.
Lấy làng xã làm cơ sở đơn vị, dần dần hình thành nên các tổ đổi công, tức là trao đổi
công việc giữa các làng và thành viên trong làng, gọi là “vần cơng”.
Trong thời kỳ đầu của q trình xây dựng hợp tác xã nơng nghiệp, hình thức tổ đổi
cơng được duy trì và đổi mới, tạo bước đệm dịch chuyển từ hình thức sản xuất cá nhân
thành hình thức sản xuất tập thể trong quá trình phát triển kinh tế. Sau đó, khi hợp tác
xã nơng nghiệp hình thành, người dân cũng dùng làng xã để quy định cho quy mơ của
mình; cứ mỗi làng hay mỗi xã sẽ là một hợp tác xã nông nghiệp. Ruộng đất của hợp
tác xã của chia thành hai loại: công điền và tư điền (lấy từ ruộng đất của người dân
đóng góp sau khi đã giữ lại 5% diện tích đất phục vụ cho kinh tế cá thể). Như vậy, sau


khi hình thành các hợp tác xã, người dân trở thành xã viên hợp tác và vừa canh tác
trên đất cá nhân, vừa canh tác trên ruộng chung của làng.
Tóm gọn, trong thời kỳ phát triển hợp tác hóa, làng xã cũng đã được củng cố và đổi
mới bằng cách có thể các cơng việc điều hành sản xuất, quản lý và khai thác ruộng
đất. Như vậy, sự tồn tại của làng xã càng ngày càng quan trọng và không thể bị xóa
bỏ.

b.Thời kỳ sau đổi mới
Dựa theo chính sách đổi mới trong sản xuất nơng nghiệp. hộ gia đình là đơn vị cơ
sở cơ bản, tự cá nhân kinh doanh, được giao trực tiếp ruộng đất để quản lý và sử dụng.
Có 2 yếu tố được xét để chia ruộng cho các hộ gia đình: nhân khẩu trong hộ và diện
tích canh tác bình qn đầu người của cả làng xã. Khi tiến hành chia ruộng, các hộ gia
đình đều nhận ruộng, và chỉ áp dụng với ruộng đất canh tác. Ngồi ra, địa bàn cư trú
và diện tích đất ở hoàn toàn được giữ nguyên.
Qua thời gian, cơ cấu và cách vận hành này đã thể hiện được tốt vai trị của mình,
chứng minh đây là một tổ chức hình thức phù hợp với bối cảnh xã hội nông thôn. Tuy

nhiên, làng xã vẫn phát sinh một số vấn đề cần được giải quyết như tư tưởng cục bộ,
quanh quẩn trong phạm vi xã hoặc xóm. Khơng ít các xóm sau khi xây dựng đường đã
sử dụng biện pháp hạn chế lưu thơng vì cho rằng “đây là đường của xóm ta”. Do số
lượng dân cư ở mỗi xã là khác nhau, vậy nên diện tích ruộng đất chia bình qn giữa
các xã cũng khác nhau, từ đó nảy sinh một số hiện tượng quan liêu, tiêu cực ở các xã
nhằm thu về nhiều ruộng đất hơn.

3.Các đặc trưng tính chất của làng xã Việt Nam truyền thống
a.Tính cộng đồng:
Tính cộng đồng xuất phát từ việc được sinh ra và lớn lên ở làng quê, bằng những
con sông, bằng những lũy tre làng trong sự quan tâm và tình thương của cả gia đình và
hàng xóm láng giềng. Vì thế, tính cộng đồng tạo nên văn hóa u thương và giúp đỡ


lẫn nhau trong một tập thể. Tuy nhiên, tính cộng đồng chỉ thể hiện rõ trong những tập
thể đã có quen biết và gần gũi với nhau. Vậy nên, khi bước vào xã hội cơng nghiệp,
nơi mà ít khi qn biết thân thiết hết với nhau, tính cộng đồng đã tạo cho dân làng thói
quen la cà trị chuyện rồi can thiệp vào chuyện riêng của người khác, gây cảm giác
khó chịu. Ngồi ra, tính cộng đồng cịn gây nên hệ lụy cào bằng. Dân làng ta không
muốn người khác giỏi hơn hay có nhiều thứ hơn mình, vậy nên sẽ tìm cách phá hoặc
dìm họ xuống bằng lời nói xấu sau lưng khi thấy ai hơn mình.
Truyền thống cộng đồng dân Việt cịn ít thấy các mối quan hệ trực tiếp giữa cá nhân
và tập thể, mà hầu hết là mối quan hệ giữa cá nhân và gia đình hay gia tộc; mối quan
hệ giữa gia đình hay gia tộc với làng, với nước. Cho nên, trong mối tương quan giữa
tập thể lớn và cá nhân, thì vai trị của cá nhân dễ bị bão hòa. Điều này bắt ép cá nhân
phải thay đổi thích nghi để hịa vào tập thể và cộng đồng phải được tổ chức công bằng
bình đẳng để duy trì các mối quan hệ giữa các cộng đồng. Biểu hiện dễ thấy nhất là sự
đóng góp ý kiến của dân làng trong những quyết định hệ trọng của làng.
Làng xã thường là nơi ở của cả một họ hoặc các dịng họ lớn, thường có mối gắn
kết lâu đời và bất biến, biểu hiện rất rõ cho chủ nghĩa tập thể và tự quản rất cao. Đây

chính là nơi gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống, quan hệ cộng đồng và quan hệ
sản xuất nghề nghiệp. Với nền tảng văn hóa nơng nghiệp, phát triển nghề trồng lúa
nước mà người Việt hay có xu hướng đẻ nhiều con để phụ giúp cha mẹ, đổi cơng giữa
các nhà, từ đó mà phát triển văn hóa giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhua.
“Tắt lửa tối đèn có nhau” hay “bán anh em xa mua láng giềng gần” là những câu ca
dao tục ngữ thể hiện cho vai trị quan trọng của hàng xóm xung quanh dù khơng có
mối liên hệ huyết thống. Như vậy, bà con lối xóm là mối quan hệ cộng đồng gắn kết
quan trọng thứ hai sau quan hệ huyết thống dòng tộc.
Tóm gọn lại, tính cộng đồng là ngun tắc quan trọng tạo nên văn hóa làng xã.


b.Tính bảo thủ
Bảo thủ là hành động và tư tưởng tin tuyệt đối vào một điều đã cũ và không chịu
thay đổi, nhất quyết bài trừ sự đổi mới hay sự khác biệt. Tính bảo thủ được ví như một
sợi dây buộc chặt, kìm nén và ngăn cản sự phát triển của người dân Việt Nam. trong
một xã hội hay cộng đồng mà có nhiều người mang tư tưởng bảo thủ, đặc biệt là người
lãnh đạo, thì tập thể đó sẽ mãi mãi dậm chân tại chỗ và không thể đi lên.
Do điều kiện và tư tưởng kinh tế xã hội được duy trì hàng nghìn năm vậy nên xuất
hiện tính bảo thủ và sức ỳ rất lớn. Biểu hiện trước nhất có lẽ là người Việt ít khẳng
định cái tơi cá nhân của mình, thường xác định vị thế hịa tan trong cộng đồng, vậy
nên Tiếng Việt có rất nhiều tư xưng như: anh, em, con, cháu,...; trong khi Tiếng Anh
hầu như chỉ dùng “tôi’. Cái cá nhân gần như bị hòa tan, gần như bị che lấp bởi con
người cộng đồng. Đặc điểm văn hóa này có ở mỗi người dân, bám vào họ một cách
bền chặt và dai dẳng trở thành một đặc điểm tâm lý Việt bền vững.
Ngoài ra, nền kinh tế làng – xã mang tính tự cung, tự cấp, vậy nên mọi sinh hoạt
trao đổi sản xuất đều bị bó buộc bên trong lũy tre làng, cộng thêm tính khép kín trong
phương thức sản xuất dẫn đến tư duy của dân làng khơng có tầm nhìn, khơng có chiến
lược cụ thể, ngại tiếp nhận cái mới. Tư duy này cùng sự rụt rè thiếu tự tin của dân làng
là điều kiện phát sinh tư tưởng bảo thủ, nảy sinh tâm lí bám làng, thích sự ổn định an
phận, ngại đi xa, ngại thay đổi cả suy nghĩ lẫn hành động. Ví dụ như ta hay có câu

“An cư lạc nghiệp”.

c.Tính tự quản tự trị
Sự độc lập của các làng khi mới hình thành được gọi là sự tự trị. Tính tự trị được
thể hiện trong việc: chế độ quân điền, hay ruộng đất của làng nào thì thuộc quyền
quản lý của làng ấy, nhà nước không trực tiếp phân chia hay can thiệp. Làng xã cịn
mang đậm văn hóa tự quản, làng nào tự quản làng đấy, tồn tại khá biệt lập với nhau và
cả với triều đình phong kiến. Mỗi làng là một đất nước thu nhỏ với luật lệ riêng hay
còn gọi là hương ước và chế độ quản lí riêng. Tính tự trị tự quản khiến cho người dân
chỉ được đảm bảo bằng lệ làng khi được công nhận là thành viên chính thức hợp pháp.


Nếu có người khơng đủ tư cách chính thức để coi là dân của làng, người đó sẽ bị sống
ngồi lệ làng.
Tính tự quản và tự trị của làng xã thể hiện qua biểu hiện nổi bật nhất là lũy tre làng.
Lũy tre làng từ xưa đến nay được xem như một biểu tượng bất biến, là cổng thành của
làng. Sau lũy tre làng chính là một cộng đồng làng xã khép kín, chặt chẽ, tách biệt với
thế giới bên ngoài. Dù hiện tại, làng xã đã mở ra, lũy tre làng khơng cịn là tường
thành nữa, nhưng vẫn là nét văn hóa truyền thống có giá trị lâu đời, được thể hiện
trong hầu hết các tác phẩm về làng xã truyền thống.

d.Chủ nghĩa cục bộ địa phương
Để chống lại thiên tai, hay thú dữ, nước ta từ xa xưa đã thành lập nên ý thức cộng
đồng, khiến người dân làng phải gắn kết với nhau tạo nên sức mạnh tập thể, lâu dần
trở thành một nét văn hóa truyền thống của người Việt. Vậy nên, ngồi tình cảm gia
đình, người Việt cịn mang nặng tình cảm dịng họ, q hương, họ đặt “tình” lên trên
ngun tắc, chế độ, chính sách lấy đó làm phương châm ứng xử hàng đầu “Nhất thân,
nhì quen”, “giọt máu đào hơn ao nước lã”. Điều đó trở thành bệnh cục bộ địa phương,
đem lại nhiều tác động xấu đến sự phát triển và hội nhập hiện nay.
Người Việt đã hội nhập thế giới, đi làm ăn, học tập và sinh sống ở khắp nơi, và có

cả người nước ngồi đến cư trú. Tuy nhiên, tư tưởng địa phương cục bộ vẫn tồn tại và
tác động xấu đến tư duy con người. Nếu không vượt qua được tư tưởng cục bộ thì đất
nước chưa thể phát triển, hội nhập thực sự.
Như vậy, chính đặc trưng này đã làm cho sự tiếp nhận các quy định chung của nhà
nước trở nên bê trễ, hoặc chỉ mang tính hình thức, hoặc bị áp dụng và giải thích sai
lệch về nội dung, bị “uốn nắn” theo quan điểm địa phương chủ nghĩa: “Phép vua thua
lệ làng”. Trong không gian làng – xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu, và mọi
vấn đề phát sinh đều có thể quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”.


II.SỰ THAY ĐỔI TRONG NHỮNG ĐẶC TRƯNG LÀNG XÃ
TRƯỚC NHỮNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Sự thay đổi trong những đặc trưng làng xã truyền thống
a.Tính cộng đồng
Chủ nghĩa tập thể - tính cộng đồng là một trong những bản tính nguyên thủy của
con người. Con người cũng là động vật cấp cao sống theo bầy đàn, dựa vào nhau để
phát triển, nhìn vào nhau để chứng tỏ bản thân. Cũng nhờ chủ nghĩa tập thể mà dân
tộc Việt Nam dễ tập hợp thành một tập thể đại đoàn kết để bảo vệ và xây dựng đất
nước từ thời kỳ các vua Hùng cho đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Mặt trái của tính cộng đồng là nếu bị hiểu lệch lạc sẽ khơng xác định được vai trị
của yếu tố cá nhân. Một cộng đồng q coi trọng tính tập thể thì yếu tố cá nhân bị lu
mờ, vai trò và lợi ích của cá nhân bị gạt bỏ để phục vụ tập thể.
Điểm dễ thấy ở người Việt là tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể, cá nhân không dám
nhận trách nhiệm: “Cha chung khơng ai khóc”, “Đắm đị chết chung”, “Có lụt thì lút
cả làng”. Một khi sống dựa vào tập thể thì ý thức cá nhân bị mờ đi, có xấu thì cả làng
đều xấu. Từ tâm lý dựa dẫm ỷ lại vào tập thể mà nảy ra tư tưởng cào bằng, nó dìm con
người trong cái ao tù “trung bình chủ nghĩa” khơng tạo điều kiện cho những sáng tạo
cá nhân bứt phá.
Sau thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp của nhà nước bị xóa bỏ thì văn hóa làng xã

và chủ nghĩa tập thể có những thay đổi tích cực.
Văn hóa làng – xã là một trong những tiêu chí hàng đầu để xác định và phân biệt
diện mạo của làng này với làng khác. Người sáng tạo ra những giá trị văn hóa của làng
xã chính là những thành viên của làng. Họ chính là những người vừa tham gia sáng
tạo, vừa tổ chức thực hiện và cũng đồng thời là người chiêm ngưỡng, hưởng thụ
những giá trị văn hóa do chính bản thân mình gây dựng nên. Chính vì vậy, tính nhân


dân của văn hóa làng càng được tơ đậm ở tính chất cộng đồng, tính tập thể của nó.
Trong tính cộng đồng của làng xã hiện nay, người làng thường rất coi trọng học vấn,
dạy bảo con cháu trong làng cách làm người, biết ăn ở có tình có nghĩa in đậm tính
nhân bản trong văn hóa làng xã. Giáo dục truyền thống cho con cháu chính là một yếu
tố quan trọng để tính cộng đồng có thể phát huy được những đặc điểm tích cực của nó.
Như vậy, tính cộng đồng làng xã hiện nay đã có những sự biến đổi tích cực phù hợp
với xã hội hiện đại, song nó vẫn đóng một vai trị quan trọng trong văn hóa làng xã,
kinh tế ở làng, giáo dục truyền thống cho thế hệ sau và tô đậm đặc điểm của văn hóa
làng xã Việt Nam.

b.Tính bảo thủ
Kinh tế thị trường thay đổi, đời sống tâm lý của người dân cũng trải qua một cuộc
cải biến cách mạng sâu sắc. Kinh tế kế hoạch hóa với cơ chế bao cấp đã làm nảy sinh
và phát triển tinh thần tập thể cũng như ý thức trách nhiệm và tính tổ chức kỷ luật,
nhưng cũng phát triển tâm lý bình quân, “cá mè một lứa”, thụ động và ỷ lại.
Trong điều kiện hội nhập và hiện đại hóa cơng nghiệp hóa thì một bộ phận nơng
dân có tâm lý “sùng ngoại”, có lối sống thực dụng, coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền
thống. Thực chất, đặc điểm tâm lý người nơng dân là yêu quê hương đất nước, gắn bó
với lũy tre làng, trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, người nông dân vừa
phải cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và chống giặc ngoại xuân dù hoàn
cảnh nào họ vẫn bám trụ quê cha đất tổ đồn kết gắn bó cộng đồng, u thương đùm
bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy chung đã trở thành lẽ sống của người nơng dân.

Tuy nhiên hồn cảnh xã hội và sự phát triển chung thay đã làm nảy sinh và ni
dưỡng tư duy mì ăn liền, chỉ thấy và quan tâm cái lợi trước mắt, không nghĩ về cái lâu
dài, phát triển thói lười biếng trong suy nghĩ cũng như bảo thủ, ý lại và coi thường giá
trị truyền thống của dân tộc.


c.Tính tự quản, tự trị
Thứ nhất, làng xã mở, khơng cịn đóng kín như trước trong bối cảnh của nền kinh tế
thị trường giúp cho các làng xã có cơ hội đón nhận những cơ hội để phát triển, phát
triển đa dạng ngành nghề. Thực tế hiện nay ở nhiều địa phương, các cơng ty nước
ngồi mọc lên ngày càng nhiều, giải quyết được vấn đề việc làm cho người dân làng
xã.
Thứ hai, giao lưu văn hóa, trao đổi thơng tin giữa làng với bên ngồi được mở rộng
khơng làm mất đi bản sắc văn hóa làng xã, mà ngược lại càng làm cho bản sắc đó
được khẳng định và phát triển. Bởi vì, khi tham gia vào quá trình giao lưu văn hóa,
trao đổi thơng tin, những người dân làng sẽ thấy rõ hơn các giá trị văn hóa làng mình
bên cạnh các giá trị văn hóa các làng khác. Đó chính là điều kiện để tạo ra sự đa dạng,
phong phú của bản sắc văn hóa làng xã trong môi trường xã hội hiện nay.
Thứ ba, sự biến đổi về hương ước giúp giảm đi được những hủ tục lạc hậu ở các
làng xã hiện nay.
Tuy nhiên, tính chất mở của làng xã sẽ giúp những cộng đồng này dễ tiếp thu cái
mới, phát triển nhanh hơn nhưng tính chất khép kín sẽ khó có thể chọn lọc được
những ảnh hưởng tốt xấu. Các làng xã cần một sự thay đổi, cần một diện mạo mới
nhưng cũng cần giữ lại những nét văn hóa đặc sắc, tốt đẹp. Q trình mở “cổng làng”,
có sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai làm cho văn hóa truyền thống có thể bị mai
một. Điều này, đặt ra thách thức giữa vấn đề bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
làng xã truyền thống của người Việt trong bối cảnh đương đại.

d.Chủ nghĩa cục bộ địa phương
Do hoàn cảnh lịch sử quy định, ai cũng có thể có tư tưởng cục bộ địa phương với

những mức độ khác nhau. Chúng ta xuất thân từ làng quê, chịu ảnh hưởng tư tưởng
nông dân của nền sản xuất nhỏ, tự túc, tự cấp lâu đời, khơng quen với tầm nhìn xa,
trơng rộng, mặc dầu có học tập nhiều, rèn luyện nhiều cũng khó mà gột rửa hết tư
tưởng cục bộ địa phương.


Chủ nghĩa cục bộ địa phương còn thể hiện ở thái độ khơng quan tâm đến lợi ích
chung, chỉ nhăm nhăm tìm cách mang lợi cho địa phương mình, cơ quan mình, dịng
họ mình, cho dù việc làm đó khơng hợp lý. Nó cịn được thể hiện trong cách nghĩ
“một người làm quan cả họ được nhờ”. Khi dòng họ, địa phương có người được “làm
to” tìm mọi cách “chăm lo” cho họ hàng, dòng tộc, địa phương, làm ảnh hưởng khơng
tốt tới quyền, lợi ích chính đáng của số đông. Đây là minh chứng rõ nhất cho thấy tư
tưởng cục bộ địa phương ăn sâu, ngấm lâu trong tiềm thức, lời nói và hành động của
khơng ít cán bộ, thậm chí cả người dân ở vùng sâu, vùng xa.
Có thể nhận thấy rằng, trong bối cảnh hiện nay, sức sống tiềm tàng của văn hóa
làng xã đang từng ngày được hồi sinh và phát triển phù hợp với nguyện vọng chính
đáng của mỗi người dân nói riêng và cả cộng đồng dân tộc nói chung. Sức sống bền bỉ
của văn hóa làng xã là dịng chảy khơng bao giờ cạn trong tâm thức của mỗi con
người.
Nói tóm lại, làng – xã Việt Nam có sức mạnh dẻo dai, bền vững đó là nhờ văn hóa
làng, văn hóa làng vẫn tồn tại đến ngày nay với sự ngưng kết đậm đà biểu hiện ở
phong tục tập quan, kho tàng văn hóa dân gian, tín ngưỡng, tơn giáo. Văn hóa làng –
xã cịn có một cơ sở vật chất là đình, chùa, miếu, lũy tre, giếng nước, cây đa… đã tạo
nên một tổng thể văn hóa làng – xã vững chắc, hịa quyện vào nhau.

2.Cơng cuộc xây dựng nơng thơn mới
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và là một cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư ở nơng thơn đồng lịng xây dựng thơn, xã, gia đình của mình khang trang,
sạch đẹp. Đồng thời, phát triển sản xuất tồn diện về nơng – cơng nghiệp và dịch vụ.
Người dân có nếp sống văn hóa, mơi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo, thu

nhập và đời sống vật chất – tinh thần của người dân được nâng cao.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện chủ trương xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
để hịa nhập mà khơng bị hịa tan trong thời kì mở cửa hiện nay. Để xây dựng nền văn


hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì chúng ta phải đẩy mạnh việc xây dựng phát
triển nông thôn (tức xây dựng và phát triển làng xã Việt Nam).
Xây dựng nơng thơn mới hiện nay có nhiều nội dung nhưng nội dung chính là xây
dựng các làng văn hóa. Vì làng là một trong 4 đơn ngun lưu giữ kho tàng văn hóa
vật chất và tinh thần của văn hóa Việt Nam, đất nước Việt Nam. Trong 4 đơn ngun
đó thì làng là đơn ngun văn hóa mang đủ các yếu tố; kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, qn sự, … đóng vai trị khâu trung gian, cầu nối giữa con người, gia đình với đất
nước. Vì vậy việc xây dựng làng văn hóa có quan hệ mật thiết với xây dựng con người
văn hóa, gia đình văn hóa cũng như xây dựng nền văn hóa chung của cả dân tộc Việt
Nam. Mà muốn xây dựng làng văn hóa thì phải có tiêu chí. Theo quan điểm được
thống nhất của Hội nghị “xây dựng văn hóa làng” năm 1996 với sự tham gia của 14
tỉnh, thành phố thì xây dựng làng văn hóa phải theo 4 định hướng lớn:
-

Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển

-

Có đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển

-

Có mơi trường cảnh quan đẹp


-

Thực hiện tốt phát luật và chủ trương chính sách của nhà nước

Làng – xã đồng lịng trong xây dựng nơng thơn mới hiện nay nhiều thơn, làng đang
xây dựng và hồn thiện hương ước, quy ước kế thừa những mặt tích cực của hương
ước cũ, phù hợp với pháp luật hiện hành, hướng tới điều thiện, tình đồn kết xóm
làng, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân trong xây dựng nơng thơn mới.
Làng – xã vẫn giữ cho mình được những hằng số văn hóa. Đó là sinh hoạt văn hóa
mang đậm nét dấu ấn, phong vị văn hóa văn minh nông nghiệp trồng lúa nước với cơ
cấu tổ chức xã hội thơn làng tương đối khép kín, là sự bền vững phong phú, da dạng
của các hoạt động văn hóa giao thơn làng kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều của
các hình thức sinh hoạt. Dân trí cao hơn, mức sống tăng, tạo điều kiện học hỏi tiếp thu
và nhiều nét đẹp trong văn hóa ứng xử, thực hành văn hóa của người dân …
Trong thực tiễn bên cạnh những mặt tốt đẹp khi xây dựng “Nông thôn mới” bên
cạnh những kết quả khả quan, đang bộc rất nhiều sự bất cập, vô lý cả về lý thuyết và


thực hành. Nhiều vấn đề, mối quan hệ đã bộc lộ những mẫu thuẫn, thậm chí là xung
đột. Đó là bài tốn giữa tăng trưởng với bền vững, đơ thị hóa với bảo tồn các giá trị
văn hóa, làng cổ truyền, quản lý tập trung với dân chủ làng xã, quyền lực nhà nước
với quan hệ họ tộc, giàu nghèo… Có một số hiện tượng, một số nơi do quan chức làng
– xã kém hiểu biết đã làm sai, lợi dụng việc xây dựng “Nông thôn mới” để trục lợi. Đơ
thị hóa nơng thơn ồ ạt kệch cỡm, ảnh hưởng đến không gian kiến trúc, môi trường
sống – môi trường văn hóa của người dân, Nhiều cơng trình mới xây dựng không phù
hợp nên không khai thác được ảnh hưởng đến kinh tế, lãng phí tiền bạc… Tất cả
những bất cập đó khơng những làm biến dạng bộ mặt nơng thơn, văn hóa làng xã mà
cịn dẫn đến những bất đồng, mâu thuẫn trong nông thôn, làm ảnh hưởng đến sự ổn
định và phát triển bình thường của các làng – xã.
Phát triển nông thôn theo hướng văn minh hiện đại nhưng phải bền vững và bảo tồn

được các giá trị căn cốt của văn hóa làng, của nơng dân là sự lựa chọn khách quan,
cần thiết. Để hạn chế và khắc phục được những sai lầm, bất cập…còn tồn tại trong
thời gian vừa qua, thiết nghĩ cần tôn trọng và phát huy cao hơn nữa, nhiều hơn nữa
quyền làm chủ và trí tuệ, kinh nghiệm của người dân; Huy động sức dân nhưng phải
biết khoan sức dân, bồi bổ sức dân; Thực hành mọi việc minh bạch, công khai; Đề cao
và tôn trọng, biết nâng niu và bảo vệ các giá trị truyền thống của văn hóa làng xã;
Kiên quyết xử lý các sai phạm, lựa chọn và sử dụng cán bộ có năng lực, có tâm huyết,
biết yêu q và u dân để thực hiện chương trình Nơng Thôn Mới.
Làng không chỉ là sản phẩm của một nền tổ chức chính trị nhà nước mà nó cịn là
sản phẩm văn hoá mang bản sắc người Việt. Văn hoá làng được thể hiện thơng qua
các biểu trưng văn hố mang giá trị truyền thống: cây đa, bến sông, con đê, mái đình,
giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, hội hè đình đám, những làn điệu dân ca,
dân vũ. Đó cịn là phong tục tập qn, cách ứng xử, tâm lý, tín ngưỡng tơn giáo,
phương thức hoạt động, nghề đặc trưng v.v…Có thể xem văn hố làng chính là những
khuôn thước ứng xử nằm sâu trong mỗi con người, những nhân tố tạo nên tính cộng
đồng. Và những ứng xử giữa con người với con người, con người với thiên nhiên,
giữa các cộng đồng với nhau được tổng kết qua kinh nghiệm sống đã trở thành văn
hoá. Văn hóa làng như một dịng nước ngầm khơng thể nhìn thấy nhưng lại có sức
mạnh chi phối, điều khiển mỗi người trong cộng đồng làng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phạm Thái Việt (Chủ biên), TS. Đào Ngọc​​ Tuấn, Đại cương về văn hoá
Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hố - thơng tin.
2. TS. Trần Hồng Thuý (Chủ biên), TS. Phạm Thái Việt, TS. Đào Ngọc , Bạch
Đăng Minh (2011), Đại cương Văn hoá Việt Nam, NXB Lao động - Xã , Hà
Nội.
3. Luutruvn.com, Từ làng xã truyền thống nhìn về mơ hình xây dựng nơng thơn
mới hiện nay.
4. Vietnamhoc.net, Xóm ở làng q Bắc Bộ qua các thời kỳ lịch sử.

5. Trang thông tin điện tử Trường Chính trị, Tỉnh Kon Tum, Tìm hiểu một số tính
chất tự trị của làng xã Việt cổ truyền.
6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Làng xã xưa và nay.
7. Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Bảo tàng Bắc Ninh, Văn hóa làng xã của người
Việt.
8. Cổng thơng tin điện từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia trong xây dựng nơn
thơn mới, Chương trình xây dựng Nông thôn mới sẽ đi vào chiều sâu.



×