MỤC
LỤC
Trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ
MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ
Họ và tên: Cù Minh Phúc – MSSV: 2051150170 – Mã nhóm HP:010100510610
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
TÊN ĐỀ
TÀI
HỒN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Minh Tuấn
TP. Hồ Chí Minh - Năm
2021
MỞ ĐẦU
Thể chế kinh tế thị trường được xem là động lực của phát triển kinh tế và xã
hội, thúc đẩy tăng trưởng. Ở một khía cạnh khác, với sự ghi nhận rộng rãi về tầm
quan trọng của thể chế kinh tế thị trường, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào
việc xác định các nhân tố giữ vai trò quyết định đối với thể chế kinh tế thị trường,
với những bối cảnh khác nhau. Với sự đóng góp ngày càng lớn của các nền kinh tế
thị trường và nền kinh tế toàn cầu, một số nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được
ghi nhận như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và chất lượng thể chế trở thành những
yếu tố quyết định. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thể chế kinh tế thị trường ở các
nước xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đi sâu vào phân tích các nhân tố quan trọng này.
Bên cạnh đó, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thoát khỏi những
khủng hoảng ban đầu, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân cũng
dần được cải thiện một cách đáng kể, chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng
được giữ vững. Từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp, nước ta đã từng bước chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên quy luật giá trị và
cung cầu của thị trường. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế có mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau. Trong thực tiễn xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại nhiều vấn đề: nhận thức
lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm so với thực tiễn
phát triển, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra còn chưa kịp tổng kết, giải quyết kịp thời;
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và hoạt động của doanh nghiệp
chưa được giải quyết hiệu quả, làm giảm hiệu lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội;
mối quan hệ giữa vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, nhất là về mặt
lợi ích kinh tế chưa được xử lý tốt, chưa phát huy được
Trên cơ sở đó, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam giai
đoạn hiện nay” để viết tiểu luận.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1
Khái niệm cơ bản về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các
chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất và quan hệ kinh tế. Theo Douglas C.North, nhà
kinh tế học người Mỹ định nghĩa thể chế là những luật lệ được hình thành trong đời
sống xã hội, đó là luật do con người tạo ra nhằm điều tiết và định hình các quan hệ
con người bao gồm những ràng buộc phi chính thức, những quy tắc chính thức hay
theo một tác giả khác cho rằng thể chế gồm quy định, quy tắc, luật pháp, điều lệ và
các chế tài xử lý vi phạm; các yếu tố tâm lý, văn hố, trình độ tri thức, thói quen.
1.1.2 Khái niệm về thể chế kinh tế thị trường
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử
mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới kỳ vọng cao hơn trên con
đường phát triển và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai
đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để đến được giai đoạn này, nền kinh tế thị
trường phải phát triển hết mức trong đời sống kinh tế - xã hội.
Thể chế kinh tế thị trường là thể chế kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh
hoạt động giao dịch trao đổi trên thị trường, là hệ thống các thể chế có mối quan hệ
chặt chẽ và đồng bộ bao gồm: thể chế sở hữu, thể chế pháp lý, thể chế tài chính, thể
chế cạnh tranh … Trong đó, thể chế sở hữu là là yếu tố quan trọng nhất trong cấu
trúc thể chế kinh tế thị trường. Việc xác lập, bảo hộ sở hữu tài sản của các chủ thể
kinh tế là nền tảng cho nền kinh tế thị trường được xác lập và phát triển. Thể chế
kinh tế thị trường bao gồm: quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường, cách
thức thực hiện các quy tắc và các thị trường.
1.1.3 Khái niệm về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vừa tuân theo
các quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối của các yếu tố bảo đảm tính
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một kiểu tổ
chức nền kinh tế của một xã hội đặc biệt – xã hội đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp chịu tác động bởi hai hệ thống quy luật: quy
luật kinh tế của nền kinh tế thị trường và quy luật đặc thù của định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển theo
hướng nuôi dưỡng và tạo điều kiện để các nhân tố mới xã hội chủ nghĩa ngày một
lớn mạnh và phát triển. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình đấu tranh
gay go, quyết liệt cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một khái niệm
không mới ở nước ta nhưng lại là một vấn đề lý luận khá mới trên thế giới. Thực
tiễn đã chứng tỏ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa
chọn đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội toàn quốc lần thứ
XIII, Đảng ta khẳng định rằng kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc
phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực
quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt
động theo cơ chế thị trường, áp dụng quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế, lấy
hiệu quả kinh tế làm mục tiêu chủ yếu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc và kết
quả triển khai là cần thiết để Việt Nam được các thành viên WTO và các đối tác thế
giới công nhận là nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là
trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được cấu
thành bởi hệ thống các bộ phận khác nhau mà mỗi bộ phận cũng là một hệ thống
phức tạp gồm nhiều yếu tố. Các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam gồm: Các văn bản quy phạm pháp luật, các quy tắc điều
hành nền kinh tế; các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế.
1.2 Các mơ hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
1.2.1 Mơ hình kế hoạch hóa tập trung
Mơ hình xây dựng và phát triển kinh tế theo phương thức vận hành của nền
kinh tế kế hoạch (còn gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế chỉ
huy) là mơ hình kinh tế trong đó Nhà nước kiểm sốt tồn bộ các yếu tố sản xuất và
giữ quyền phân phối về thu nhập (để bảo đảm tính xã hội). Mơ hình này đặc biệt có
ưu thế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, vì có thể huy động tối đa các nguồn
lực kinh tế, có tính thống nhất cao về hệ tư tưởng, tập trung chiến đấu, sản xuất. Tuy
nhiên, những hạn chế về cạnh tranh, quan liêu, triệt tiêu sáng tạo làm cho mơ hình
này khơng có sức sống trong thời bình.
1.2.2 Mơ hình phát triển kinh tế thị trường
Mơ hình kế hoạch hóa tập trung tồn tại những hạn chế, với tinh thần đổi mới
tư duy và đổi mới tồn diện cơng cuộc xây dựng đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường trong việc xây dựng và phát
triển đất nước, một mơ hình vốn là kết quả của nền văn minh nhân loại đã đạt đến
và là con đường tất yếu mà các dân tộc, buộc phải đi theo để phát triển. Trong khi
đó, ở Việt Nam, mới chỉ đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - một thời
kỳ quá độ đang hướng đến mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa. Nước ta cần một quá
trình phấn đấu và phát triển lâu dài, Việt Nam mới có thể xây dựng được mơ hình
chủ nghĩa xã hội hồn chỉnh theo đúng nghĩa. Để phù hợp và tương thích với hồn
cảnh và đặc điểm của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn xây dựng
mơ hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mơ hình này
được Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và thực hiện xây dựng từ những năm 90
của thế kỷ XX đến nay và tên gọi này chính thức được dùng từ Đại hội IX của Đảng
(năm 2001), đối với Việt Nam, mơ hình này có ý nghĩa quyết định đến tương lai đất
nước.
Trong quá trình hồn thiện mơ hình này, Đảng ta đã đưa ra cách tiếp cận tổng
thể về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa ra các quan điểm chỉ đạo
đến xác định mục tiêu, lộ trình và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện,
trong đó, đã thể hiện khá đầy đủ, sát hợp, khoa học, có hệ thống, vừa mang tính
tổng qt, vừa có tính cụ thể về nội hàm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục ghi nhận: “Hoàn thiện toàn diện,
đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Điều này đã khẳng định việc định hướng xã hội chủ nghĩa “không phải là cái đuôi”
được gán ghép chủ quan, áp đặt của những bộ óc “giáo điều”như một số người đang
dùng mà chỉ rõ tính chất của nền kinh tế thị trường mà nước ta đang xây dựng.
1.3
Vai trò thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành
và phát triển trên cơ sở phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng lãnh đạo. Nhà nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần
vai trò chủ thể về kinh tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định
hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội bằng pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch, chiến lược, chính sách bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy
luật của kinh tế thị trường; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo đảm an sinh xã
hội. Giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp chưa có tiền lệ trong lịch sử
và là một q trình mở, địi hỏi sự sáng tạo và bản lĩnh cách mạng của Đảng, trên cơ
sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1 Những mặt tích cực của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta từng bước
được hoàn thiện và mang nhiều đặc điểm của nền kinh tế hiện đại, đồng bộ và hội
nhập. Qua quá trình thực hiện mở cửa, đổi mới nền kinh tế đất nước, Đảng ta luôn
quan tâm công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trên cả thực tiễn và lý luận để tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ
chế chính sách và hệ thống pháp luật khơng ngừng được hồn thiện và đổi mới phù
hợp hơn với pháp luật quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để giao thương hàng hóa,
thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta cụ thể là việc ban hành Hiến
pháp năm 2013 và tập trung sửa đổi, hoàn thiện các luật, pháp lệnh và văn bản quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư kinh doanh, phát
triển doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo vệ môi trường, kiểm soát
độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp...
Thể chế môi trường đầu tư kinh doanh đã được hồn thiện và bước đầu tiệm
cận với thơng lệ quốc tế tốt. Môi trường đầu tư kinh doanh chuyển biến rõ nét;
quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh, tiếp cận cơ hội kinh doanh được cải thiện;
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh và danh mục
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp
hơn với cơ chế thị trường. Thể chế nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đã
được hoàn thiện với quy định về vai trò của nhà nước được đổi mới phù hợp hơn
với cơ chế thị trường; đổi mới phương thức quản lý; cải cách hành chính; phịng
chống tham nhũng, lãng phí; giảm đáng kể chi phí cho doanh nghiệp. Việc tổ chức
thi hành pháp luật từng bước được tăng cường, nhất là trong những năm gần đây.
Các bộ, ngành, địa phương bước đầu đã tạo sự chuyển biến trong cơng tác cải cách
hành chính.
Thực hiện q trình đổi mới đất nước đã góp phần đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, đời sống
của nhân dân khơng ngừng được nâng cao. Cơng tác củng cố quốc phịng an ninh,
đối ngoại, hội nhập quốc tế được nâng cao và mở rộng. Môi trường đầu tư kinh
doanh được cải thiện tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, các
thành phần kinh tế.
2.2 Một số bất cập trong việc áp dụng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa
theo kịp yêu cầu đổi mới
Sự minh bạch và ổn định trong môi trường kinh doanh chưa cao, chưa đảm
bảo được đầy đủ quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Còn gặp nhiều vướng
mắc trong việc xác lập giá cả của một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, cơ chế vận
hành thị trường còn chậm và kém hiệu quả. Gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, cơng
bằng và tiến bộ xã hội chưa được đảm bảo thực thi trên thực tế.
Kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém phát
triển làm cho các vùng bị chia cắt làm cho nhiều tiềm năng của các vùng không thể
được khai thác, khơng thể chun mơn hố sản xuất để phát huy thế mạnh. Cơ sở
vật chất - kỹ thuật cịn ở trình độ thấp làm cho phân cơng lao động kém phát triển,
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng
thấp. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng
như thị trường nước ngồi cịn rất yếu do sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc
hậu, nên năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu.
2.2.2 Quản lý Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội còn nhiều bất cập,
chưa đạt hiệu quả cao
Công tác xử lý những cán bộ sai phạm trong công tác quản lý vẫn chưa kịp
thời, để lại nhiều hậu quả, thiệt hại về kinh tế khó khắc phục. Việc xử lý tranh chấp
thương mại quốc tế và phòng ngừa rủi ro vẫn còn thiếu tính chủ động. Một số cơ
chế, chính sách cịn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả
thi. Do tư duy bao cấp vẫn còn ảnh hưởng đến việc đưa ra các chính sách phát triển
kinh tế, nhận thức về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chậm và chưa đầy đủ.
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất
nước bằng pháp luật. Nhiều nội dung quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới kinh
tế – xã hội chậm được thể chế hoá như: vấn đề quản lý nhà nước đối với tài sản
thuộc sở hữu nhà nước; về đăng ký kinh doanh bất động sản; cạnh tranh trung thực;
kiểm soát độc quyền,.. Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu
lực thực thi chưa cao. Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật cịn thấp:
Những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra. Việc công bố, đăng tải, hướng
dẫn các văn bản quy phạm pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành
kịp thời và nghiêm chỉnh. Quy trình xây dựng pháp luật cịn thiếu tính dân chủ: cịn
nhiều cứng nhắc và nhiều bất cập, cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo
dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương.
Sự suy thối về đạo đức chính trị, tình trạng quan liêu, tham những, hối lộ
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm chậm quá trình đổi mới, phát triển kinh
tế. Ở các cấp, các ngành việc quán triệt tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước còn chưa được thực hiện nghiêm túc.
2.2.3 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường có trình độ thấp
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà
còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân với nhiều hình thức sở hữu như:
hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản…
và chế độ sở hữu xã hội với các hình thức sở hữu như: sở hữu tồn dân, sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể… đồng thời cịn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở
hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Do vậy nền kinh
tế
ở
nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hố cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó
sản xuất hàng hố nhỏ phân tán còn phổ biến.
2.2.4 Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối
ngoại chưa được như kỳ vọng
Hiệu quả hợp tác, ngoại giao đa phương chưa phát huy hết các lợi thế, chưa
tận dụng tốt các cơ hội để kinh tế nước ta hội nhập quốc tế nhanh và sâu hơn, cơng
tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại chưa ngang tầm
với tiềm năng quan hệ giữa Việt Nam và đối tác. Về mặt chính sách, Việt Nam đang
thiếu một Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tăng cường hiệu
quả và tính chủ động trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.
Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại vẫn còn nhiều hạn
chế, cần tiếp tục được nâng cao năng lực và trang bị những kỹ năng cần thiết, nhất
là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế, kỹ năng thương lượng, đàm
phán, vận động… Đội ngũ các DN hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số
lượng và chất lượng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay. Hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hồn cảnh trình độ
phát
triển
kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
Tồn cầu hàng hố và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước
cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Đổi mới kịp thời cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước nước ta hiện nay
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
phát triển bền vững, tiến bộ cơng bằng xã hội, bảo vệ mơi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu, cần ban hành cơ chế, chính sách
gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển bền vững, triển khai
chiến lược tăng trưởng xanh. Phát triển thị trường hàng hóa và
dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh;
xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý
giá. Phát triển mạnh thương mại trong nước, tăng nhanh xuất
khẩu, nhập khẩu. Phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao
gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ
cấu hồn chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng thị trường vốn và
thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường bất động sản, bao
gồm
thị
trường
quyền
sử
dụng
đất
và
bất
động sản gắn liền với đất. Phát triển thị trường sức lao động trong
mọi khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xuấu khẩu lao động, đặc biệt là
xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề.
3.2 Nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về phát triển kinh tế – xã hội
Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước. Tập trung tạo dựng thể chế,
luật pháp, cơ chế, chính sách và mơi trường, điều kiện ngày càng minh bạch, an
toàn, thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tự do sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và
cạnh tranh bình đẳng trong kinh tế thị trường. Phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ của
người dân trong hồn thiện và thực thi luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội. Bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân. Xây dựng nền hành chính
hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ nhân dân và lợi ích
quốc gia là mục tiêu cao nhất.
3.3 Nâng cao trình độ đối với chủ thể tham gia kinh tế nhiều thành phần trong
bối cảnh đất nước đang ở tiến trình hội nhập quốc tế
Đổi mới và sáng tạo trong lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế-xã hội. Tập
trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy luật thị trường, cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch. Đồng thời, Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, cơng
cụ điều tiết, chính sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện
dân chủ, tiến bộ và cơng bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, từng bước nâng cao
phúc lợi xã hội, chăm lo cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo.
Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu lại công
nghiệp, tạo nền tảng cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển các ngành dịch
vụ; phát triển kinh tế biển; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và phát triển mạnh
doanh nghiệp tư nhân. Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ
động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngồi
để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao sức
cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế.
3.4 Hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối
ngoại
Tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu;
phát triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và
tiềm năng; Tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước
ngoài trong việc hỗ trợ tìm kiếm thị trường, chính sách của quốc gia sở tại, cũng
như tăng cường bảo vệ hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường khu vực
và thế giới...
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại. Trong thời
gian tới, tiếp tục cử các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn ở nước ngoài chuyên về các
quan hệ kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán quốc tế và luật pháp quốc tế. Tăng
cường đầu tư cho các trường đại học đào tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các
viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các
trường dạy những nghề phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại...
Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp
định thương mại tự do đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập khẩu,
đặc biệt là các thị trường nhỏ và thị trường ngách; đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu. Điều này càng phải
được đẩy mạnh hơn trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang tác động đến hầu hết
các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Tiếp tục sửa đổi và ban hành các quy định pháp luật phục vụ cho hoạt động
kinh tế đối ngoại, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Theo các chuyên gia
kinh tế, mức độ tín nhiệm của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng đảm bảo rằng,
hệ thống luật pháp của quốc gia đó đối với các hoạt động kinh tế phải minh bạch, rõ
ràng, tuân theo các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Việt
Nam cần có chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tăng cường hiệu
quả và tính chủ động trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.
KẾT LUẬN
Trong thời kỳ đổi mới, quan điểm, nhận thức về nền kinh tế thị trường dần
được thay đổi và hồn thiện. Việt Nam từng bước thực hiện mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế bước đầu đã đạt được những thành
tựu quan trọng làm thay đổi tình hình kinh tế - xã hội - chính trị. Có thể nói, các
khái niệm về thể chế, thể chế kinh tế nói chung được rất nhiều nhà khoa học quan
tâm. Các nước khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, kinh tế xã hội của mỗi
nước trong mỗi thời kỳ nhất định, có những mơ hình thể chế kinh tế khác nhau. Mỗi
mơ hình kinh tế thị trường đều có những nét ưu việt cũng như những hạn chế và
khuyết điểm nhất định.
Vai trò quản lý của Nhà nước ngày càng củng cố và hoạt động có hiệu quả.
Nội dung pháp luật kinh tế đã phù hợp hơn với cơ chế thị trường, đã cho phép nhà
nước có thể chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp vào nền kinh tế.
Công tác kế hoạch hoá cũng đạt được những thành tựu quan trọng, chuyển từ kế
hoạch hoá tập trung cao độ sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần
kinh tế được nhà nước khuyến khích phát triển, đều là động lực phát triển của nền
kinh tế.
Cần có những chính sách và cơ chế phù hợp để các nó hoạt động có hiệu quả
hơn nữa. Các loại thị trường là một phần hết sức quan trọng của thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vấn đề bình đẳng và công bằng trong xã hội không thể coi nhẹ trong quá
trình hình thành và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam được diễn ra trong bối cảnh thế giới thay đổi hết sức
nhanh chóng với xu thế quốc tế hố tồn cầu hoá, với sự ảnh hưởng rất lớn của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khơng chỉ và sự tìm tịi và phát kiến về
mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội mà nó cịn là sự lựa chọn và khẳng định con đường
và mơ hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2017). Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin. NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
4. Nguyễn Văn Thạo (2021). Những nội dung mới về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ
XIII
của
Đảng.
Trang
Web
Tạp
chí
Cộng
sản
< [truy cập ngày 12/04/2020].
5. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (1999). Tồn cầu hóa - quan điểm
và thực tiễn. NXB Thống kê, Hà Nội.