SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG
******
Bài tiểu luận:
TRẦM CẢM Ở TUỔI
VỊ THÀNH NIÊN
Thực hiện bởi: Nhóm 1 - Lớp 12CV1
1. Trần Phúc Phương Anh (03)
2. Đào Lê Tịnh Giang (13)
3. Trần Tuấn Kiệt (17)
4. Nguyễn Phương Nam (19)
5. Nguyễn Bùi Hồng Ngọc (22)
6. Nguyễn Thị Hồng Nhung (23)
7. Lê Hà Diệu Phương (24)
8. Phạm Nguyễn Hoàng Phương (25)
9. Nguyễn Ngọc Hoài Thương (28)
10. Khổng Trúc Anh Vy (33)
Năm học: 2021 - 2022
MỤC LỤC
I. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI………………………………………………3
II. THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM………………………………………………4
III. BIỂU HIỆN, THỰC TRẠNG…………………………………………….5
IV. NGUYÊN NHÂN………………………………………………………….7
V. TÁC HẠI……………………………………………………………………9
VI. GIẢI PHÁP……………………………………………………………….11
VII. MỞ RỘNG………………………………………………………...…….12
VIII. TỔNG KẾT…………………………………………………...………..14
2
I.
LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Trầm cảm từ lâu đã là một căn bệnh về mặt tinh thần được các nhà khoa học và nhà
tâm lý học công nhận. Điều đó đồng nghĩa với việc đây là căn bệnh cần được tư vấn, hỗ trợ
và điều trị chuyên sâu, trong quãng thời gian dài tùy vào tình trạng người bệnh. Điều đáng
nói hơn, căn bệnh này khơng chỉ đến với riêng người lớn, chịu áp lực công việc mà ngày
càng có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt là ở tuổi vị thành niên.
Tuy nhiên, dù đã có rất nhiều những bài nghiên cứu khoa học hay bài báo cảnh báo
mọi người về mức độ nghiêm trọng của căn bệnh này, không phải ai cũng đều ý thức được
hệ quả tồi tệ mà nó đem lại cũng như cảm giác đau khổ của người phải chịu đựng căn bệnh
ấy. Đặc biệt là khi đối tượng chính ta bàn đến ngày hơm nay là tuổi vị thành niên - một độ
tuổi vô vàn những áp lực vơ hình. Các em cần nhiều sự quan tâm nhất về mặt tinh thần từ
phụ huynh mình, nhưng đáng buồn thay khi chẳng mấy ai nghĩ được như vậy.
Từ đó, chúng em quyết định chọn đề tài “Trầm cảm ở tuổi vị thành niên”, phần vì
đây là vấn đề mà một bộ phận người trẻ đã, đang và sẽ luôn phải trải qua mỗi ngày mà
không có sự đủ sự quan tâm từ gia đình lẫn xã hội. Mặc khác, chúng em hi vọng dù chỉ một
chút thơi, mọi người có thể nhận ra tiếng lịng của mỗi một người trẻ, để chúng ta có dịp
được lắng nghe, thấu hiểu nhau nhiều hơn.
3
II.
THUẬT NGỮ, KHÁI NIỆM
1.
Tuổi vị thành niên
Tuổi vị thành niên được gọi là những năm nền tảng để phát triển. Đó là giai đoạn
mà một cá nhân bắt đầu có những sự chuyển biến đáng kể về tâm lý và thể chất, hoặc như
mọi người thường nói, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang tuổi trưởng thành. Cho đến
nay, vẫn khơng có bất kỳ sự thống nhất nào giữa các chuyên gia về độ tuổi bắt đầu và kết
thúc của giai đoạn thanh thiếu niên, nhưng hầu hết là trải dài từ những năm 13 tuổi đến
khoảng 21 tuổi.
Ở giai đoạn này, một người sẽ trải qua những thay đổi lớn về não bộ và mặt tâm lý
cho phép họ bắt đầu hình thành những suy nghĩ và quan điểm cá nhân về cuộc sống xung
quanh. Bên cạnh đó, những trải nghiệm về mơi trường, gia đình và giáo dục xảy ra trong
thời kỳ thanh thiếu niên sẽ trực tiếp ảnh hưởng vào việc hình thành nhân cách, cụ thể là
những phản ứng cảm xúc của một cá nhân đối với những vấn đề và sự kiện xảy đến trong
suốt quãng đời còn lại của họ.
2.
Trầm cảm
Trầm cảm là một thuật ngữ y học được sử dụng để mơ tả một trạng thái mà tại đó
một người sẽ trải qua những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực nghiêm trọng. Họ có thể sẽ liên
tục cảm thấy buồn bã, chán nản và hụt hẫng, đồng thời bị giảm đi sự hứng thú vào những
hoạt động thể chất và tinh thần thường ngày. Bên cạnh đó, trầm cảm cũng làm ảnh hưởng
đến thế giới quan, tư duy và niềm tin của cá nhân vào những giá trị cốt lõi, những thế mạnh
và điều tốt đẹp mà bản thân thường mang lại.
⇨ Như vậy, trầm cảm ở tuổi vị thành niên có thể được hiểu là một trạng thái hoặc triệu chứng
rối loạn tâm lý, tinh thần xảy ra ở giai đoạn thanh thiếu niên và được đặc trưng bởi những triệu
chứng liên quan được kể ở trên. Tuy nhiên, các triệu chứng này của bệnh trầm cảm đôi khi lại
không được chú ý hoặc bị nhầm lẫn với những hành vi bình thường của thanh thiếu niên. Đó
cũng chính là điều làm cho trầm cảm dần trở thành một căn bệnh nguy hiểm đối với người trẻ
hiện nay.
4
III.
BIỂU HIỆN, THỰC TRẠNG
1.
Biểu hiện
- Bệnh nhân thường xuyên ở trong trạng thái buồn bã, đơi khi sẽ khóc
- Mất động lực, giảm hứng thú với mọi thứ, thậm chí là những hoạt động trước đây người
bệnh u thích
- Khơng thể tập trung vào một việc gì đó nhất định và thường xuyên suy nghĩ đến những
chuyện tiêu cực lẫn cái chết
- Có những hành vi làm tổn thương đến chính bản thân mình
- Đơi lúc sẽ khơng thể tự cất lên tiếng nói, chần chừ và suy nghĩ xem bản thân có làm đủ
tốt hay chưa và dễ tự phán xét bản thân
- Sợ đám đông, hạn chế đến nơi đông người, thường xuyên trốn vào những chỗ tối
- Thường xun bị rối loạn hệ tiêu hố
- Ngồi ra, cịn có thể xuất hiện những triệu chứng như: rối loạn giấc ngủ, thay đổi khẩu vị,
mệt mỏi, chậm chạp, dễ kích động, khó khăn trong việc tập trung hoặc giải quyết những
vấn đề thường nhật, có cảm giác tội lỗi, thất vọng đối với bản thân và thường xuyên suy
nghĩ đến cái chết
2.
Thực trạng
- Ở bệnh viện tâm thần trung ương, tổng số 5000 người đến khám và nhận tư vấn thì tỉ lệ
học sinh - sinh viên chiếm đến 30%. Tại một số trường học, có tới khoảng 20% số lượng
học sinh có dấu hiệu của bệnh trầm cảm.
- Theo kết quả của một cuộc khảo sát với 1727 học sinh cấp hai ở Hà Nội, có 25.76% học
sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Với các học sinh lớp 1, khoảng 20.65% các em có
sự lo âu ở mức độ vừa.
- Thống kê của Viện Sức khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai cho thấy tại Việt Nam, hiện
có khoảng 30% dân số có rối loạn tâm thần, trong đó tỉ lệ trầm cảm chiếm 25%. Mỗi
năm, số người tự sát do trầm cảm ở nước ta từ 36.000 - 40.000 người.
- Đa số các vụ tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng được
sống. Phần lớn các trường hợp trầm cảm có khuynh hướng trở thành mãn tính và tái diễn
cũng như phục hồi khơng hồn tồn giữa các giai đoạn.
- Theo bác sĩ Nguyễn Dỗn Phương, nếu trước đây chỉ có khoảng 20-30 bệnh nhân đến
khám/ngày thì những năm gần đây, tỉ lệ bệnh nhân đến khám ngày càng tăng. Có ngày
viện tiếp nhận khoảng 300 lượt bệnh nhân đến khám về các vấn đề tâm lý, tâm thần,
trong đó có rất nhiều bệnh nhân ở lứa tuổi thanh - thiếu niên.
5
⇨ Những con số trên đã cho chúng ta thấy một hiện thực đáng báo động về căn bệnh trầm cảm
trong môi trường học đường.
6
IV.
NGUYÊN NHÂN
Với sự gia tăng về số lượng trẻ vị thành niên mắc bệnh và mức độ nghiêm trọng của
bệnh, đâu là những nguyên nhân gây ra hiện tượng trầm cảm ở nhóm đối tượng này?
1.
Nguyên nhân khách quan: Trầm cảm có thể đến từ yếu tố di truyền, sự suy giảm
serotonin và mất cân bằng các chất dẫn truyền thần kinh như norepinephrine, dopamine
và acetylcholine trong não.
- Yếu tố di truyền: Nguy cơ bị trầm cảm ở những trẻ có người thân từng bị trầm cảm cao
hơn đáng kể so với các trẻ khác.
- Nguyên nhân sinh học: Những chất dẫn truyền thần kinh đóng vai trị dẫn truyền tín
hiệu thần kinh đến từng thành phần khác nhau của bộ não và cơ thể. Khi chúng bị biến
đổi hoặc phá hủy, chức năng thụ cảm của hệ thần kinh cũng bắt đầu thay đổi nghiêm
trọng. Đây chính là nguồn cơn của căn bệnh trầm cảm.
+ Ví dụ: Thuốc an thần, thuốc ngủ có tác dụng ức chế hoạt động của thần kinh đưa
người bệnh vào trạng thái buồn ngủ. Rất nhiều người tìm đến những thuốc này để trị
chứng mất ngủ. Tuy nhiên việc lâm dụng thuốc an thần và thuốc ngủ sẽ gây quen nhờn
thuốc, ảnh hưởng đến não bộ, dẫn đến tình trạng mất ngủ trầm trọng hơn.
- Sự thay đổi tâm sinh lí: Khi trẻ bước vào giai đoạn dậy thì, tâm sinh lý của các em thay
đổi nhanh chóng. Tuy nhiên, trẻ vẫn chưa thể nhận thức đầy đủ và toàn diện về những
vấn đề trong cuộc sống. Trong khoảng thời gian này, các em có thể dễ dàng bị ảnh hưởng
bởi những suy nghĩ, hành vi tiêu cực xung quanh. Nếu không được định hướng đúng đắn,
những yếu tố bất lợi đó sẽ ám ảnh tâm trí bé, từ đó sinh ra cảm xúc, suy nghĩ lệch lạc và
dẫn đến hành động đáng tiếc.
+ Đối với phụ nữ sau sinh (đặc biệt là ở độ tuổi vị thành niên), hormone sinh sản của
phụ nữ tăng gấp 10 lần trong giai đoạn mang thai. Cùng với những thay đổi về
hormone, những thay đổi về xã hội và tâm lý liên quan tới việc có con làm tăng nguy
cơ trầm cảm.
- Tổn thương trong quá khứ: Những chấn thương tâm lý thời thơ ấu như bị lạm dụng,
ngược đãi, cô lập, bắt nạt, người thân qua đời… ở các mơi trường khác nhau có thể tạo
nên những thay đổi lớn trong não bộ, khiến trẻ vị thành niên dễ mắc bệnh trầm cảm hơn.
Tình trạng bạo lực học đường, bắt nạt bạn cùng lớp, cùng trạng hiện nay khá phổ biến
trong bối cảnh xã hội hiện nay. Hay trường hợp bêu xấu, nói xấu bạn trong lớp; trong
trường, đăng lên những video xấu làm ảnh hưởng đến đời sống của các em. Một số
trường hợp trường hợp khác cũng gây nên tình trạng trầm cảm ở học sinh như trẻ bị cô
lập, bị đánh tập thể,….
- Tác động của công nghệ:
+ Sự xuất hiện thường trực của các thiết bị điện tử trong cuộc sống hàng ngày khiến trẻ
vị thành niên cảm thấy thế giới thực và thế giới ảo dường như tương đồng. Các em
7
thường dành quá nhiều thời gian trong ngày để truy cập vào mạng xã hội và các ứng
dụng trực tuyến sinh động, hấp dẫn.
+ Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sự gia tăng tình trạng trầm cảm và tự tử trong giới trẻ
có liên quan đến xu hướng kết nối với các phương tiện truyền thông và mạng xã hội.
Ví dụ, nhiều thanh thiếu niên tự đánh giá giá trị bản thân dựa trên số lượt thích và bình
luận từ những người bạn ảo. Nếu phụ thuộc vào “thước đo” này, các em sẽ dễ dàng
lung lạc, thất vọng và bế tắc khi gặp phải những nhận xét không hay đến từ thế giới ảo.
- Ảnh hưởng của gia đình và xã hội:
+ Gia đình: Vị thành niên là lứa tuổi vô cùng nhạy cảm gắn liền với hàng loạt biến đổi
về cảm xúc và tính cách của trẻ. Thế nhưng, trong giai đoạn “bản lề” này, cha mẹ đã
vơ tình đặt lên đơi vai con trẻ những áp lực khơng cần thiết về điểm số, thành tích. Các
bậc phụ huynh còn chưa dành nhiều sự chú ý cho con dẫn đến mất kết nối trong gia
đình. Các em khơng muốn trị chuyện hay chia sẻ cùng ai những vấn đề mình đang gặp
và có xu hướng từ chối sự giúp đỡ từ người khác.
+ Xã hội: Trong bối cảnh COVID-19 hiện nay, UNICEF cảnh báo rằng đại dịch có thể
sẽ tác động đến sức khỏe tâm thần và thể chất của trẻ em và thanh thiếu niên trong
nhiều năm tới. Tháng 10/ 2021, giám đốc điều hành UNICEF Henrietta Fore chia sẻ:
“18 tháng qua là khoảng thời gian dài đằng đẵng đối với tất cả chúng ta, đặc biệt là trẻ
em. Những đợt phong tỏa toàn quốc và việc hạn chế di chuyển liên quan đến đại dịch
đã khiến các em phải trải qua những năm tháng cuộc đời khó qn khi phải rời xa gia
đình, bạn bè, trường lớp, việc vui chơi – những yếu tố then chốt của tuổi thơ. Đại dịch
đã gây ra tác động đáng kể, song đó mới chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Từ trước
khi đại dịch bùng phát, đã có quá nhiều trẻ em phải gánh chịu những vấn đề sức khỏe
tâm thần chưa được giải quyết. Đầu tư của các chính phủ vào việc đáp ứng những nhu
cầu cấp thiết này còn quá hạn chế. Mối liên hệ giữa sức khỏe tâm thần và kết quả cuộc
sống trong tương lai chưa được quan tâm đúng mức”.
2.
Nguyên nhân chủ quan
- Lối sống khơng lành mạnh: Những thói quen xấu như ăn uống không điều độ, thức
khuya, nghiện chơi game, lười vận động, sử dụng chất kích thích… là nguyên nhân phổ
biến khiến các em suy nhược thần kinh và suy giảm thể chất.
- Ngủ không đủ giấc: Chất lượng giấc ngủ đóng vai trị đặc biệt quan trọng đối với sức
khỏe tinh thần của mỗi chúng ta. Giấc ngủ ngon có thể đảm bảo thể chất khỏe mạnh, tâm
lý ổn định và nhận thức sáng suốt. Ngày nay, vì bận rộn học hành, thi cử, đa số trẻ vị
thành niên không ngủ đủ giấc hoặc ngủ không ngon giấc. Điều này dẫn đến tình trạng
chán nản, cáu gắt, ủ rũ.
8
V.
TÁC HẠI
1.
Đối với bản thân người mắc bệnh
- Bệnh nhân bị tổn thương từ tâm hồn đến cả cơ thể mình:
+ Việc suy tưởng ra nhiều vấn đề tiêu cực trong thời gian dài khiến người bệnh đánh mất
giá trị bản thân, khơng tìm thấy mục tiêu hay lý do cho sự tồn tại của mình
+ Mất cảm giác hứng thú, chán ăn hoặc ngừng làm những hoạt động yêu thích khiến
khơng muốn giao tiếp xã hội, thờ ơ
+ Rất khó tập trung, khó đưa ra quyết định và dễ quên, điều này gây nhiều trở ngại cho
tiếp thu học tập
+ Ngồi ra trẻ vị thành niên có thể có những hành vi quậy phá, chống đối xã hội, làm
những việc trái pháp luật và ảnh hưởng xấu đến chính họ.
- Đặc biệt, tác hại nghiêm trọng nhất của chứng trầm cảm là hành vi tự làm hại bản thân
và tự tử.
+ Ở mức độ đầu trẻ chỉ mới có suy nghĩ về cái chết, nếu can thiệp được sớm ta sẽ ngăn
chặn được trường hợp xấu có thể xảy ra. Nếu nguy hiểm hơn, bệnh nhân nhiều lần làm
đau bản thân, tự làm mình bị thương bằng dao hay thuốc,… lên kế hoạch tự kết thúc
đời mình.
+ Trên thế giới, tự tử là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 đối với lứa tuổi 15 –
29 (chỉ sau tai nạn giao thông). Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) cơng
bố cứ trung bình mỗi ngày, khoảng 3.000 trẻ vị thành niên chết do tự tử. Tại Việt Nam,
tình trạng tự tử ở tuổi vị thành niên cũng đang ngày càng gia tăng, tình trạng đáng báo
động nhưng vẫn bị nhiều người xem nhẹ.
2.
Đối với xã hội
- Làm tăng nguy cơ mắc các hành vi nguy hiểm như nghiện ma túy hoặc rượu, dẫn tới các
tệ nạn xã hội, gây hại cho cộng đồng
+ Trong một nghiên cứu trên gần 600 thanh thiếu niên có sử dụng ma túy độ tuổi 16 - 24
tại Hà Nội, Hải Phịng, TP Hồ Chí Minh do Dự án Bảo vệ Tương lai thực hiện, cho
thấy chỉ riêng với trầm cảm có tới 43% người tham gia cho biết có những dấu hiệu
trầm cảm ở mức độ từ trung bình đến nghiêm trọng.
- Khơng ý thức được hành vi của mình dẫn đến rạn nứt, hủy hoại các mối quan hệ
- Giảm hiệu quả công việc, ảnh hưởng xấu đến tập thể
- Tạo nên bầu khơng khí u ám, căng thẳng áp lực cho người khác
9
- Nghiêm trọng hơn, họ cho rằng người khác có thể là tác nhân dẫn đến trạng thái trầm
cảm của mình nên sinh ra tâm lý muốn trả thù. Có khơng ít sự việc đau lịng như sát hại
nhau vì trầm cảm.
⇨ Ở tuổi vị thành niên, căn bệnh trầm cảm có thể gây ra những hậu quả khơn lường. Việc xem
nhẹ những biểu hiện ban đầu có thể khiến bệnh ngày càng trầm trọng, khó điều trị, ảnh hưởng
sâu sắc đến người bệnh và xã hội. Cảm xúc của người trẻ tích tụ từ lâu một ngày bỗng vỡ tung,
con người có giới hạn chịu đựng, đến khi mọi chuyện đi quá xa, ta mới thấy ân hận vì đã khơng
hành động, khơng giúp đỡ họ. Chỉ cần có sự quan tâm, sự tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của
những người mắc bệnh trầm cảm, ta có thể giúp đỡ họ vượt qua khó khăn này, để họ khơng phải
một mình đối mặt với căn bệnh qi ác ấy.
10
VI.
GIẢI PHÁP
Mức độ nghiêm trọng của trầm cảm có thể suy giảm khi được phát hiện kịp thời và
thực hiện các biện pháp trị liệu hợp lí.
1.
Tâm lý trị liệu
- Là hình thức sử dụng giao tiếp, lời khuyên, tư vấn từ bác sĩ tâm lý để tháo gỡ những khúc
mắc rối ren, xoa dịu nỗi đau từ quá khứ ám ảnh. Cuộc trị chuyện chủ yếu giúp người
bệnh nói chung, trẻ vị thành niên nói riêng, xác định được cách thức đối mặt với thế giới
quan tiêu cực, thay đổi góc nhìn và dần đặt niềm tin vào bản thân và cuộc sống của họ.
- Trẻ vị thành niên khi được áp dụng biện pháp này đúng cách sẽ có cơ hội cao thốt khỏi
trầm cảm, nguy cơ tái pháp cũng thấp hơn. Thế nhưng, liệu pháp là quá trình dài, cần sự
kiên trì, nỗ lực từ người bệnh và sự giúp đỡ từ gia đình, bạn bè, thầy cơ.
2.
Liệu pháp nhóm:
- Là hình thức trẻ mắc trầm cảm tham gia vào các hoạt động nhóm, hoạt động ngoại khóa
nhằm giao lưu với bạn bè đồng trang lứa, hình thành liên kết chặt chẽ hơn giữa trẻ và môi
trường xung quanh.
- Đây là liệu pháp được đánh giá rằng hiệu quả nhất ở độ tuổi vị thành niên. Trẻ vị thành
niên mắc bệnh khi thực hiện liệu pháp này có thể củng cố sự tự tin, cảm nhận sự hỗ trợ
vững chắc từ gia đình, xã hội.
3.
Sử dụng thuốc:
- Đối với trẻ vị thành niên, thuốc được sử dụng kết hợp với các liệu pháp tâm lý nhằm tăng
tính hiệu quả của liệu trình, tránh việc lạm dụng thuốc quá mức.
- Khi sử dụng thuốc chống trầm cảm, trẻ cần được giám sát bởi bác sĩ và gia đình.
11
VII.
MỞ RỘNG
1.
Những áp lực xưa - nay với thanh niên
- Thời xưa: Những áp lực xa xưa chủ yếu phân định theo giới tính
+ Với giới nam: Mọi người thường trông mong về công danh, sự nghiệp, đã là nam nhi
thì phải trả nợ non sơng, lập danh rồi lập nghiệp, đã là nam nhi thì phải là trụ cột gia
đình. Trong thời chiến tranh, những thanh niên trẻ tuổi phải là những người xông pha
trận mạc, là người đi đầu chống giặc, để lại gia đình, cha mẹ, vợ con phía sau.
+ Với giới nữ: Người con gái xưa phái hồn thiện bản thân theo chuẩn “Cơng dung
ngơn hạnh”, phải hồn thành bổn phận theo đúng “Tam tịng, tứ đức”
- Thời nay: Thanh thiếu niên ngày nay chịu áp lực chủ yếu từ những yêu cầu của cuộc
sống hiện đại
+ Yêu cầu ngày càng cao về trình độ học vấn → Áp lực học tập ngày càng gia tăng ở cả
nam và nữ
+ Một số bạn trẻ do nhu cầu hồn thiện bản thân đã vơ tình tạo nên khái niệm “Peer
pressure - Áp lực đồng trang lứa”
2.
Hiện tượng nhầm lẫn giữa khái niệm "trầm cảm" với “buồn chán” và
“rối loạn lo âu”
Ngày nay nhiều bạn trẻ thường dùng từ “trầm cảm” để diễn tả sự mệt mỏi trước áp
lực học tập, công việc quá lớn. Một số bạn hiểu rõ khái niệm trầm cảm và chỉ dùng theo
phong trào. Nhưng cũng có một số bạn trẻ thực sự khơng hiểu thế nào là trầm cảm từ đó dẫn
đến sự nhìn nhận nhầm lẫn giữa “trầm cảm” với “buồn chán” và “rối loạn lo âu”.
- Trầm cảm: một trạng thái tâm lý bất thường làm ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi của
con người. Người mắc trầm cảm thường cảm thấy buồn về mọi thứ và luôn cảm thấy
cuộc đời mình chìm trong một màu đen tối. Trầm cảm khơng nhất thiết phải sinh ra do
những áp lực, khó khăn trong cuộc sống mà có thể được hình thành từ sự vắng mặt, thay
đổi của bất kì yếu tố nào trong cuộc sống.
- Buồn chán: trạng thái cảm xúc, tâm lý bình thường của con người. Nó thường xuất hiện
khi người ta phải đối mặt với một tình huống khó khăn. Nhưng một khi những khó khăn
ấy qua đi, tình trạng buồn chán sẽ gần như biến mất
- Rối loạn lo âu: trạng thái tâm lý khiến cho người ta cảm thấy lo lắng quá mức về mọi
việc trong cuộc sống. Chỉ một việc rất bình thường cũng khiến họ bồn chồn không yên.
12
3.
Trầm cảm trong thế giới nghệ thuật
Nhưng liệu trầm cảm có thực sự tồn là tai hại?
Nạn nhân của bệnh tâm lý cũng đồng thời có thể là thiên tài sáng tạo. Không kể
những tác hại do ảnh hưởng của trầm cảm đã nêu ở trên, khi xem xét một khía cạnh khác,
những trở ngại tâm lý đơi khi mang lại cho họ khả năng phát hiện ra những điều người khác
khơng thể thấy từ đó đưa ra những góc nhìn độc đáo có khả năng khơi gợi sự đồng cảm từ
những người mắc tình trạng tương tự. Nói cách khác, trầm cảm đơi khi đóng góp một phần
đáng kể cho nghệ thuật.
- Trong số những danh họa, nhà văn, diễn viên, nhà thơ thừa nhận đã trải qua tình trạng
trầm uất. Lev Tolstoy, tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như “Anna Karenina”,
“Chiến tranh và hịa bình” cũng là nạn nhân của bệnh trầm cảm kinh niên. Chính vì thế,
ơng đã từng bật lên tiếng than, rằng nghệ thuật khơng khiến người ta dễ chịu, hay giải trí,
thậm chí cịn mang lại đớn đau - một lời nhận xét nhận được nhiều sự đồng tình và thấu
hiểu từ giới nghệ thuật.
- Edvard Munch, là một họa sĩ người Na Uy thuộc trường phái tượng trưng, một người
làm nghề in đồng thời là một nghệ sĩ tiên phong trong trường phái biểu hiện, khi hồi
niệm về khoảnh khắc thơi thúc ông vẽ bức tranh “Scream”, Munch miêu tả cảm giác âu
lo kỳ quái đến mức độ biến thể thành những tiếng gào thét hữu hình giằng xé nhân diện
người nghệ sĩ. Những ai nhìn vào bức tranh này của ông có lẽ đều cảm nhận được một sự
bức bối, khó chịu nhất định.
Mối quan hệ giữa trầm cảm nói riêng và bệnh tâm lý nói chung với nghệ thuật, có lẽ
chỉ có thể được miêu tả như q trình vận động đầy rủi ro, và tổng thể lịch sử nghệ thuật
chứng minh điều này bằng vô số kiệt tác được ra đời từ chính giai đoạn người nghệ sĩ vật
lộn với biến thể tiêu cực nội tại. Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa mọi tác phẩm nghệ
thuật đều gắn bó với trầm cảm. Tìm hiểu về những “cơn điên loạn” bộc phát trong quá trình
sáng tạo giúp ta hiểu và trân trọng hơn những mảng màu đa dạng của thế giới nghệ thuật.
⇨ Như vậy, trầm cảm ở một mặt nào đó lại có khả năng thơi thúc con người làm ra những điều
chưa bao giờ xuất hiện, nhìn nhận được những điều mới lạ. Điều này đối với những người trẻ
đơi khi lạ, đóng góp một phần đáng kể cho nghệ thuật nói chung.
13
VIII.
TỔNG KẾT
“Trong năm 2019, có 659 người Nhật từ 20 tuổi trở xuống đã tự kết liễu, tăng 60 ca
so với năm trước. Không chỉ riêng ở Nhật Bản mà ở các quốc gia khác trên thế giới, đây
là nhóm tuổi duy nhất đang có xu hướng tự tử tăng cao.” - trích từ báo tin tức thế giới
Từ trước đến nay mỗi khi nghe đến hai từ “áp lực” và “tự sát”, ta thường nghĩ ngay
đến Nhật Bản, Hàn Quốc, hay Trung Quốc, những quốc gia chưa năm nào rơi khỏi “bảng
xếp hạng” có tỉ lệ trẻ vị thành niên tự tử cao nhất thế giới. Khi nhìn vào những con số ấy,
bạn nghĩ gì? Khi mọi thứ đã dần trở nên mất cảm soát và con số quá lớn đã trở thành một
vấn nạn đủ để làm thành một bảng xếp hạng riêng, một bảng xếp hạng không quốc gia nào
muốn tên mình hiện diện trên đó, trớ trêu thay mọi người lại “lỡ” làm quen với nó mất rồi,
làm quen đến mức vô cảm và thơ ơ với sự tự kết liễu của những sinh mệnh chưa kịp nở đã
chớm tàn.
Các bậc phụ huynh không hiểu con mình, khơng giúp các em vượt qua cơn trầm cảm.
Mãi đến khi người ta tìm thấy nó ở đâu đó nơi dịng nước lạnh lẽo với thân hình đã trương
phồng biến dạng, mãi đến khi có tiếng la thất thanh, tiếp sau đó là tiếng cịi cảnh sát lẫn xe
cứu thương, những vị phụ huynh, những con người mang danh nghĩa người lớn hiểu chuyện
ấy mới bàng hồng vì đã mất con mình rồi. Mình mất con vì chính sự vơ tâm của bản thân.
Tháng 3/2021, hai cơ bé cịn rất trẻ, một tóc dài, một tóc ngắn, bước vào thang máy
tòa nhà chung cư cao tầng trên vai đeo ba lô và tay cầm ván trượt. Trong mấy phút ngắn
ngủi đi lên tầng 20, các em cịn bình thản trị chuyện và vuốt tóc nhau. Khơng bao lâu sau,
tiếng động mạnh do va đập dội lên, bảo vệ chung cư chạy ra đã thấy hai em nằm trên mặt
đất... Đó là những gì mà truyền thơng và mạng xã hội những ngày này đưa tin về hai thiếu
nữ cùng nhau tìm dấu chấm hết ở tuổi 16 từ độ cao chết người trên tầng thượng chung cư.
Tháng 8/ 2021, một bé gái 12 tuổi tại Hà Nội đã để lại bức thư tuyệt mệnh vỏn vẹn 4 chữ
“Hãy quên tơi đi” trước khi nhảy từ tầng cao xuống.
Đã có ai từng hỏi bạn: “Bạn ổn không?” chưa? Hay ai cũng bảo “Nhiêu đó thơi cũng
khơng chịu được”. Ta đem những áp lực mình đang phải gánh vác biến thành một thang đo
của riêng mình, rồi mặc định người khác cũng phải như thế. Ta xem nhẹ những giọt nước
mắt của bao người vì cho rằng cũng chỉ là chút cảm xúc trẻ con thôi, sẽ quên ngay ấy mà.
Để rồi từng ngày lại từng ngày, khi giọt nước đã tràn ly, nỗi buồn ứ đọng hóa thành bệnh, và
vẫn chẳng một ai chịu “bắt bệnh’ cùng, cũng là lúc mọi thứ đi đến hồi kết.
Năm 2005, minh tinh Lee Eun-ju quyên sinh ở tuổi 24
Năm 2009, siêu mẫu Daul Kim tự sát tại Paris ở tuổi 20.
Năm 2019, diễn viên, ca sĩ Sulli tự tử ở tuổi 25.
14
Xin nhắc lại lần cuối, trầm cảm là một căn bệnh và hồn tồn có khả năng xảy đến
với bất kì ai. Nếu mọi thứ thật sự ổn, và dễ dàng trở nên ổn như vậy, thế giới này sẽ là một
hành tinh hạnh phúc biết bao. Không bao giờ là công bằng và đúng đắn khi ta đem áp lực
lên bàn cân để cân đo đong đếm xem ai nhiều hơn ai. Hơn cả bệnh ung thư hay bất kì loại
bệnh nào khác, trầm cảm là căn bệnh đã lấy đi rất nhiều sinh mạng của những người trẻ. Mà
điều đáng buồn nhất là, ta hồn tồn có thể chữa lành được nó, bằng tình u thương lẫn sự
quan tâm, nhưng lại khơng ai làm điều đó cùng nạn nhân. Dù là trẻ con, thanh thiếu niên
hay cả người lớn đều sẽ có những vết thương lịng, những chấn thương tâm lý của riêng
mình. Vì vậy, xin đừng xem nhẹ hay coi một lời nói bất lực nào của con mình là vơ nghĩa.
Ta khơng bao giờ biết được giây phút một con người cất lên tiếng nói ấy là tiếng nói của
điều gì, liệu sẽ là một sự cầu cứu hay lời vĩnh biệt?
15