Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

KIẾN TRÚC CỔ ĐẠI VIỆT TRUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.7 KB, 7 trang )

ĐỀ TÀI:

KIẾN TRÚC CỔ ĐẠI VIỆT - TRUNG

NĂM 2020


KIẾN TRÚC CỔ VIỆT – TRUNG
I. PHẦN TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, do chịu ảnh hưởng chung của nền văn hóa phương Đơng và
nhiều yếu tố tương quan (như: khí hậu, nếp sống, phong tục tập quán,…) mà
tồn tại nhiều đặc trưng giống nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đặc biệt
đáng kể đến là nét tương đồng trong kiến trúc cổ đại giữa hai quốc gia. Đề tài
này được lựa chọn liên quan đến hai nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc
nhằm tìm hiểu cũng như tách biệt được sự khác nhau trong xây dựng, thẩm mỹ
và được những đặc trưng, ý nghĩa riêng của từng quốc gia thơng qua các cơng
trình kiến trúc.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sự tương đồng và dị biệt trong kiến trúc cổ đại của Việt Nam
và Trung Quốc nhằm chỉ ra và nhận biết được những đặc điểm giống nhau,
đồng thời phân biệt được sự khác biệt mang ý nghĩa riêng của hai nền khác
nhau.
3. Đối tượng nghiên cứu
Kiến trúc cổ đại của Việt Nam và Trung Quốc
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích thơng qua các phương tiện truyền thơng, sách
báo, internet,…
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu
Dựa vào mục đích nghiên cứu, những kết quả mong muốn nhận được sẽ bao
gồm tổng hợp những đặc điểm giống nhau và dị biệt trong kiến trúc cổ đại của


người Việt Nam và Trung Quốc, tìm hiểu được ý nghĩa và đặc trưng riêng thơng
qua các cơng trình xây dựng của tiền nhân giữa hai nền văn hóa khác biệt.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Sự tương đồng trong kiến trúc cổ đại Việt Nam – Trung Quốc


Ảnh hưởng bởi sự giao thoa trong ngàn năm lịch sử, chịu nhiều yếu tố ảnh
hưởng của các đới khí hậu và miền tự nhiên đã tạo ra nhiều nét tương đồng
trong kiến trúc dân gian của người Việt Nam và Trung Hoa cổ đại. Đồng thời,
việc ảnh hưởng chung nền văn hóa phương Đơng cũng là một trong những
ngun nhân hình thành những đặc điểm chung giữa hai nền văn hóa nói chung
và trong kiến trúc dân gian nói riêng: như hình dáng mái, chất liệu xây dựng,…
Các kiến trúc cổ đại của hai nền văn hóa đều có sự tương đồng trong việc tận
dụng các nguyên vật liệu làm từ: gỗ, tre, gạch, đá, ngói… để xây dựng và trang
trí bằng tạo hình của các con vật rồng, lân… cũng như tạo dựng bố cục đối
xứng.
Tuy nhiên, việc giao thoa lịch sử trong hàng nghìn năm khơng ảnh hưởng đến
q trình hình thành nên bản sắc văn hóa và tính chất độc lập chứng minh kỹ
năng tiếp nhận và tự cường riêng của cả hai nước. Kiến trúc dân gian của Việt
Nam và Trung Quốc đã chứng minh điều này khi không tương đồng nhau trong
bố cục xây dựng và trang trí. Có thể nói, kiến trúc của mỗi nước đều có nền bản
sắc riêng biệt.
2. Dị biệt trong kiến trúc cổ đại của Việt Nam và Trung Quốc
2.1.

Việt Nam

Các kiến trúc cố đại được xây dựng trong thời kì phong kiến trước thể kỉ 19.
Đến nay, những kiến trúc cịn sót lại đa số từ giai đoạn thể kỉ 17 đến thế kỉ 18.
Dựa vào điều kiện thời tiết mà người xưa đã lựa chọn kiến trúc thích hợp để

xây dựng nhà ở. Người Việt Nam cổ đại đã ở nhà sàn trước khi chuyển sang
đào đất dựng nhà dựa vào điều kiện tự nhiên vốn có. Nếu như kiến trúc nhà sàn
dùng nguyên vật liệu chính là gỗ thì nhà nền đất lại làm từ gỗ và tre, vách lợp
bằng tranh rạ hay lá nước dừa. Kết cấu khung gỗ lợp ngói và tường gạch (kèo
gỗ). Do mơi trường nóng ẩm, người Việt xưa đã chọn kiến trúc mở để ngơi nhà
có sàn nhà cao ráo ln có thể thơng thống, đón gió và thường tiếp cận nhiều
với khơng gian bên ngồi. Vách tường mỏng, nhiều cửa sổ mở, đặc biệt không
thể thiếu những yếu tố nước, cây xanh, … xung quanh khuôn viên nhà. Khuôn
viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ và sân vườn.


Trái với kiến trúc nhà quần thể của người Trung Hoa, người Việt Nam xưa
chuộng kiểu nhà riêng lẻ. Thông thường khi con cái lớn lên sẽ thành gia lập
thất và sống riêng biệt với thế hệ trước nên quy mơ nhà ở vừa đủ phục vụ cho
một gia đình. Người Việt cổ đã vượt khỏi cơ ấu gia đình để phát triển lên cộng
đồng làng xã mang hình tượng gần giống như “tiểu triều đình” trong cơ cấu xã
hội Việt Nam. Người dân ta từ xưa đã có mối quan hệ mật thiết với xóm giềng,
có ao chung và làng xã được bao quanh bởi các lũy tre – hình tượng gắn liền
với người Việt Nam qua bao cơng cuộc dựng nước và giữ nước từ trước đến
nay.
Kiến trúc mở được thể hiện rõ rệt bằng bố cục cân xứng, tỉ lệ với con người và
khơng gian ngồi nhà. Đồng thời thơng qua màu sắc ngơi nhà hịa nhập với
thiên nhiên và mang tính trang nhã, thanh bạch như màu gỗ, tre nứa, gạch đá…
Vận dụng môi trường xung quanh, những nguyên vật liệu cấu thành nên ngôi
nhà được sử dụng phổ biến bao gồm: gỗ, tranh, tre, nứa, đá, ngói, sành sứ,…
Hệ thống nhà kết hợp với kiến trúc khung cột: kèo, xà có qui định thống nhất
về kích cỡ, tương quan tỉ lệ đã sáng tạo nên nét đặc trưng riêng biệt trong kiến
trúc cổ và dân gian của Việt Nam. Người xưa có dùng bảy, kẻ để đỡ mái hiên
cũng như hệ đấu-củng nhưng chỉ đến hết thời Lý – Trần. Cơng trình sử dụng
hệ đấu – củng xuất phát từ Trung Quốc có phần chắc chắn và tinh tế hơn dùng

bảy, kẻ. Do đó địi hỏi tay nghề của thợ làm phải cao. Nhưng không vì vậy mà
việc sử dụng bảy, kẻ trở nên mất thông dụng. Bảy, kẻ tận dụng được các nguyên
vật liệu xung quanh, dễ làm và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của người
dân Việt Nam đương thời.
Kiến trúc cổ của Việt Nam có sự khác biệt ở từng vùng miền khác nhau.
+ miền núi: sử dụng phiến đá xanh có đẽo hoặc khơng tùy theo thẩm mỹ và
nhu cầu của gia chủ
+ trung du: dùng đá ong
+ đồng bằng: sử dụng đất, gạch hoặc vôi vữa…
Trong nền kiến trúc gỗ phương Đơng, Việt Nam có dóc mái thẳng và dùng bảy
gần diềm mái hiên, đao cong và sử dụng nhiều ngói âm dương (ngói lưu ly) và


ngói hài (ngói vảy) thường thấy trong kiến trúc dân gian. Nổi bật nhất phải nói
đến ngói âm dương vì đặc tính thống mát vào mùa hè, ấm vào đơng và được
tận dụng trong các cơng trình hành chính nhà nước, nhà tầng lớp cao, quan lại,
nhà nho, kiến trúc tơn giáo,… Riềng mái thường thẳng, hếch lên ở góc mái tạo
sự thanh thoát (được truyền cảm hứng từ mũi thuyền) do dùng bảy. Trên kẻ bảy
cũng được chạm trổ tinh xảo có tính thẩm mỹ cao. Nghệ thuật trong kiến trúc
cổ đại của Việt Nam mạnh và phát triển được nét đặc trưng của mình trong lĩnh
vực hình khối, hài hịa và mang tính biểu trưng.
2.2.

Trung Quốc

Từ những thế kỉ trước, Trung Quốc được xem là đất nước có lịch sử lâu dài
nhất, có địa vực rộng nhất và phong cách rõ ràng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến
các nước lân cận như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và cả châu Âu sau thế
kỉ 17. Kiến trúc cổ đại của đất nước này nổi bật ở ba thời Tần Hán – Tùy Đường
– Minh Thanh. Đa số các kiến trúc cổ đại hiện nay còn tồn tại đều sau nhà

Đường ; nổi bật là thành Trường An (đô thành to nhất đương thời) có Đại Minh
Cung sở hữu diện tích khn viên to gấp 3 lần Tử Cấm Thành cố cung đời
Minh, Thanh.
Cũng dựa vào điều kiện thời tiết để lựa chọn kiến trúc cho phù hợp, do thời
tiết gần trung tâm cao áp Siberia lạnh giá, người cổ đại Trung Hoa xây dựng
nhà ở theo kiến trúc đóng. Khn viên xung quanh quay kín lại với nhau, đa
phần đều sử dụng khơng gian bên trong và ít tiếp xúc với khơng gian bên ngồi.
Tường nhà dày các nhiệt, ít cửa sổ và thường có các bộ phận tạo nhiệt trong
nhà: giường lị, tường lị, hầm lị… hồn toàn tương phản với kiến trúc nhà ở
của Việt Nam. Người Trung Hoa đã thay đổi từ kiến trúc đào nhà trong hang
sang nhà đất để thích ứng với khí hậu nơi mình sinh sống.
Khác với đặc điểm nhà ở riêng lẻ của đất nước láng giềng, người dân ở đây
xây dựng theo kiểu “Tứ đại đồng đường” theo dạng nhà quần thể. Khuôn viên
nhà kéo dài theo phương Nam Bắc tạo thành quần thể bố cục dạng “Việt lạc”.
Tương quan với yếu tố xã hội ảnh hưởng vào kiến trúc, màu sắc các cụm nhà


quần thể Trung Hoa có màu sắc nổi bật gây chống ngợp, lấn át đè nén khi nhìn
vào với màu sắc mạnh mẽ và cơng trình thường nổi bật giữa thiên nhiên.
Kiến trúc cổ đại của Trung Quốc thay đổi điểm nhấn qua từng giai đoạn và
thời kì nhưng nổi bật nhất phải kể đến kiến trúc gỗ được gia cơng nghệ thuật
và tạo hình kết cấu đặc sắc, thể hiện được sự tương quan giữa sức mạnh và cái
đẹp thơng qua hình tượng mái cong, cột, xà nhà,… (cơng trình nổi bật: Phật
Quang Ngũ Đài Sơn, Sơn Tây) và kiến trúc gạch đá (các cơng trình nổi bật:
tháp Đại Nhạn, tháp Tiểu Nhạn Tây An, tháp Thiên Tầm Đại Lý).
Vào đời nhà Tống, kiến trúc của người Trung Hoa tập trung vào trang trí và có
sự phát triển mới trong bố cục mở (cửa hàng mặt phố, phố theo nghề, phịng
cháy chữa cháy, giao thơng vận tải, cơ sở hạ tầng…) trong đó phải kể đến đơ
thành Bắc Tống Biện Lương như một hình thức của trung tâm thương mại. Vào
thời này, các cơng trình của người Trung Hoa tăng cường vào tầng thứ không

gian, làm nổi kiến trúc chủ thể, phát triển trang trí kiến trúc và màu sắc.
Đến đời Nguyên lãnh thổ rộng lớn do người Mông Cổ lãnh đạo, kinh tế văn
hóa phát triển chậm dẫn đến kiến trúc đơn giản sơ sài, rơi vào tình trạng sa sút.
Do sùng tín tơn giáo nên kiến trúc tôn giáo phát triển, nổi bật là tháo Trắng
chùa Miêu Ứng Bắc Kinh.
Đời Minh kế thừa những tinh hoa của đời Tống về mặt kiến trúc và phát triển
ở quy mơ to, cảnh tượng hùng vĩ có thể kể đến thủ đô Bắc Kinh và Nam Kinh
làm đại diện. Ở thời này, gạch phổ biến trong xây dựng nhà ở và thịnh hành
kiểu trang trí, tranh màu, tơ điểm kiến trúc cung đình góp phần định hình hóa
kiến trúc đương thời. Đây cũng là thời điểm mà bố trí cụm kiến trúc của Trung
Quốc chin muồi. Thuật phong thủy đạt đến mức cực thịnh dẫn đến lịch sử kiến
trúc văn hóa cổ đại kéo dài đến tận cận đại.
Vào thời nhà Thanh, kế tục kiến trúc đặc sắc của đời nhà minh và tôn thờ sự
khéo léo, hoa lệ ; cộng thêm kiến trúc du nhập và sử dụng kính trở nen tự do
linh hoạt đa dạng. Kiến trúc Phật giáo khá phát triển đã phá bỏ trình tự hóa đơn
nhất dẫn đến kiến trúc phong phú hơn. Cuối thời kì, xuất hiện sự du nhập và
kết hợp phong cách Trung Hoa và phương Tây.


Trải qua nhiều giai đoạn và đa dạng các kiểu hình kiến trúc khác nhau những
quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của Trung Hoa bao gồm những điểm
sáng và khác biệt tránh nhầm lẫn với Việt Nam ở nhiều lĩnh vực. Hình thức mái
được ưa chuộng là mái giá chiêng và được đỡ bởi hệ thống đấu củng. Trái
ngược với nghệ thuật hình khối mang tính tượng trưng của người Việt cổ, người
Trung Quốc cổ xưa chuộng trang trí chi tiết hơn thảy.
3. Kết luận
Lịch sử dù trải qua hơn nghìn năm giao thoa nhưng những nét văn hóa, đặc
trưng tiêu biểu của từng quốc gia khơng hề bị trộn lẫn và đánh mất bản sắc
riêng biệt. Dù ảnh hưởng chung dịng chảy văn hóa phương Đơng nhưng từ
khác biệt khí hậu, yếu tố xã hội, hồn cảnh kinh tế và quá trình lao động sáng

tạo nghệ thuật đã định hình được phong cách riêng cho từng quốc gia và chứng
minh được văn hóa độc lập khơng bị nhầm lẫn với bất kì ai. Mỗi đất nước đều
có thế mạnh riêng và mang ý nghĩa khác nhau trong từng kiến trúc nghệ thuật
và nền văn hóa bản địa, do đó việc so sánh hơn thua giữa các nước nói chung
và Việt Nam – Trung Quốc nói riêng là khơng cần thiết và khơng thể có được
lập luận thống nhất. Văn hóa là tơn trọng sự khác biệt, đồng thời bảo tồn và
phát triển được nét đặc trưng đặc sắc văn hóa bản địa của mình. Việc so sánh
giữa kiến trúc cổ đại giữa hai quốc gia chỉ mang ý nghĩa chỉ ra sự khác biệt và
mở rộng được kiến thức về đặc trưng trong xây dựng từ thời xa xưa của hai
nước, Việt Nam và Trung Quốc, vốn có mối quan hệ hữu nghị láng giềng từ xa
xưa.



×