TIỂU LUẬN
VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ
TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN – TRÀ CHIỀU ANH QUỐC
MỤC LỤC
A.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................2
B.
NỘI DUNG ...............................................................................................................2
1. Trà đạo Nhật Bản: ...................................................................................................2
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển trà đạo Nhật Bản: .....................................2
1.2. Không gian thưởng trà: ....................................................................................3
1.2.1. Trà viên: .........................................................................................................3
1.2.2. Trà thất:..........................................................................................................3
1.3. Những nguyên tắc trong trà đạo Nhật Bản: ...................................................4
2. Trà chiều Anh quốc: ................................................................................................5
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển trà chiều Anh quốc: ..................................5
2.2. Không gian thưởng trà: ....................................................................................6
2.3. Những nguyên tắc trong trà chiều Anh quốc: ................................................6
3. So sánh văn hóa thưởng trà giữa Nhật và Anh: ...................................................7
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................8
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH ......................................................................................................9
1
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trà – một loại thức uống khơng cịn xa lạ gì với chúng ta nữa. Trà là nước giải
khát, có thể làm thuốc và cịn trở thành hạt nhân của văn hóa thưởng thức đặc sắc ở
nhiều quốc gia. Trong đó có trà đạo Nhật Bản và trà chiều nước Anh khiến tôi vô
cùng ấn tượng. Có thể thấy một bên đại diện cho phương Đông, một bên thay mặt
cho phương Tây. Một bên khi nhắc đến sẽ nghĩ ngay đến hình tượng người phụ nữ
mặc bộ Kimono đang ngồi quỳ gối, tay thoăn thoắt lại nhẹ nhàng khuấy trà. Bên cịn
lại khi nói đến sẽ hiện lên hình ảnh bộ ấm trà, tách trà với những hoa văn tinh xảo
cùng tháp bánh ngọt hấp dẫn, đẹp mắt. Từ đó mà tơi mới tị mị về nguồn gốc hình
thành của hai nét văn hóa thưởng trà này, thắc mắc rằng giữa chúng có gì giống hay
khác nhau khơng. Vì thế mà tơi đã chọn đề tài ‘VĂN HÓA THƯỞNG TRÀ. TRÀ
ĐẠO NHẬT BẢN – TRÀ CHIỀU ANH QUỐC’ để đi tìm hiểu sâu hơn, giải đáp
những thắc mắc của mình. Do dung lượng bài tiểu luận có hạn nên nội dung nghiên
cứu ngồi lịch sử hình thành và phát triển thì sẽ nói đến những điểm nổi bật, thể hiện
rõ sự khác nhau giữa hai nền văn hóa thưởng trà đó là: khơng gian thưởng trà, một
số nguyên tắc trong buổi tiệc trà.
B. NỘI DUNG
1. Trà đạo Nhật Bản:
1.1.
Lịch sử hình thành và phát triển trà đạo Nhật Bản:
Trà đạo trong tiếng Nhật là sadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật
thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản.
Lịch sử trà đạo Nhật Bản có từ rất lâu. Vào khoảng thế kỉ XII, vị cao tăng
người Nhật là sư Eisai (1141-1215) sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở
về nước, ông mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính
Eisai đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi
lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.
Nghệ thuật trà đạo Nhật Bản mãi tới thế kỉ XIV mới xuất hiện. Do nhà sư
Murata Juko đã tìm thấy vẻ đẹp giản dị trong văn hóa thưởng trà hịa cùng với tinh
thần Zen (Thiền) trong Phật giáo. Người ta thường gọi là Zentea tức trà thiền. Từ đó
hình thành lên văn hóa Trà đạo – một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật.
Thế kỷ XVI, Trà sư Senno Rikyu là người tạo ra bước ngoặt quan trọng, tạo
nên văn hóa trà đạo trong giới Samurai (võ sĩ đạo). Senno Rikyu là thầy dạy trà đạo
cho Oda Nobunaga (Shogun – người đứng đầu giới võ sĩ) của thời Azuchi. Sau khi
2
Oda Nobunaga chết, Toyotomi Hideyoshi lên thay thế (thời Momoyama) thì Senno
Rikyu tiếp tục dạy cho ơng này. Hoạt động của Senno Rikyu rất phổ biến và có sự
ảnh hưởng sâu rộng trong tầng lớp võ sĩ, ảnh hưởng mạnh đến chính trị thời kì đó.
Thế kỉ XVII, Trà sư Furuta Oribe đã mang sự tinh tế của nghệ thuật Trà Đạo
hịa vào mạch sống của người bình dân. Chính điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến
đời sống văn hóa, tinh thần và tâm linh sâu sắc của người Nhật về sau.
Đến cuối thời Edo (1603 -1868) thưởng thức trà đạo là đặc quyền của nam
giới. Cho đến đầu thời Meiji (1868 – 1912) thì phụ nữ mới chính thức được tham dự
tiệc trà.
Từ đơn giản là uống trà đến cách pha trà và uống trà, dần có những nghi thức
thưởng thức trà và cuối cùng đúc kết thành trà đạo. Đây là sản phẩm của một tiến
trình khơng ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng đến đó là
cải biến tục uống trà du nhập từ Trung Quốc thành một bộ môn nghệ thuật của chính
dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực. Hiển nhiên, đối với họ trà đạo không
đơn thuần là con đường, là phép tắc uống trà mà trên hết là một phương tiện hữu
hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách trước tiên là hịa nguyện mình với
thiên nhiên đất mẹ, để từ đây tu sửa tâm tính, ni dưỡng tâm hồn và đạt tới giác
ngộ, một duy độ tinh quang cao hơn.
1.2. Không gian thưởng trà:
Về khơng gian thưởng trà của trà đạo Nhật Bản thì có yêu cầu rất cao. Để có
thể tiến hành những nghi thức trà đạo đúng nghĩa, phải có một khơng gian thanh tịnh
và hài hòa với cảnh sắc thiên nhiên. Dần dần hình thành hai khơng gian thưởng trà
chính, đó là trà viên và trà thất để đáp ứng những tiêu chuẩn đó.
1.2.1. Trà viên:
Trà viên là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng
thức trà. Trà viên đòi hỏi bố cục phải tinh tế, khu vườn vẫn giữ được những nét tự
nhiên thuần chất, không bị can thiệp quá nhiều bởi con người. Trong Trà viên, mọi
người thường ngồi trên thảm cỏ để thưởng thức trà.
1.2.2. Trà thất:
Trà thất là một căn phòng nhỏ được sử dụng riêng cho việc thưởng trà, nó cịn
được gọi với một cái tên khác là “nhà khơng”. Kích thước của nó khá nhỏ vào khoảng
3x3m. Trong căn phòng này được trải thêm những tấm đệm hay chiếu tre và được
đặt thành hình vng trơng rất đẹp và trang nhã.
Trà thất thường được thiết kế trong các khu vườn có diện tích nhỏ. Một tảng
đá lớn được đặt trên con đường dẫn đến trà thất, mặt tảng đá được khoét như một
cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống. Ở đây người ta rửa tay trước khi
vào trà thất nằm ở cuối con đường.
3
Trà thất làm ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Khơng có
một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với Thiền – sự cân đối
là chết, là thiếu tự nhiên, nó q tồn bích khơng cịn chỗ nào cho sự phát triển và
đổi thay.
Điều thiết yếu là ngôi trà thất phải hài hòa với cảnh vật tự nhiên xung quanh
như cây cối và những tảng đá. Ngay trong trà thất cũng thể hiện một bầu khơng khí
lặng lẽ cơ tịch, khơng có màu sắc sặc sỡ, chỉ có màu vàng nhạt của tấm thảm rơm và
màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.
1.3. Những nguyên tắc trong trà đạo Nhật Bản:
Nói một cách đơn giản thì trà đạo là một nghi thức được thực hiện theo một
tuần tự nhất định vừa chuẩn bị trà, vừa thưởng trà. Cả về phía người chuẩn bị và
người thưởng thức đều phải theo một số quy tắc nhất định.
Bốn nguyên tắc cơ bản trong trà đạo : Hịa (Wa) – Kính (Kei) – Thanh (Sei)
– Tịch (Jaku). “Hịa” có nghĩa là sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, sự hòa
hợp giữa trà nhân với các dụng cụ pha trà. “Kính” là lịng kính trọng, sự tơn kính đối
với người khác, thể hiện sự tri ân cuộc sống. Khi lòng tơn kính với vạn vật đạt tới
sự khơng phân biệt thì tấm lịng trở nên thanh thản, n tĩnh, thể hiện sự thanh tịnh,
đó chính là ý nghĩa của chữ “thanh”. “Tịch” có nghĩa là sự vắng lặng, tĩnh lặng mang
đến cho con người cảm giác yên tĩnh, vắng vẻ.
Những người không hiểu về trà đạo thường sẽ là người đón nhận việc thưởng
thức trà trong các buổi tiệc trà. Có nhiều quy tắc khác nhau tùy theo từng phái nhưng
đa số các phái thì với người thưởng thức trà thường sẽ có quy tắc chung là "Osakini".
Trong buổi tiệc trà, trước tiên sẽ có bánh truyền thống Nhật. Sau khi ăn bánh xong,
chén trà với matcha bên trong sẽ được xoay vịng theo thứ tự như vị trí ngồi. Khi
bánh và trà xoay vịng đến vị trí của mình, người thưởng trà sẽ nói "Osakini" rồi
nhận lấy. Câu này có nghĩa là "Tơi xin phép trước" thể hiện sự chu đáo với người
ngồi cùng.
Hãy bẻ từng chút bánh một để có thể ăn hết trước khi trà xoay vịng đến vị trí
của mình. Khi đó lưu ý khơng uống từ phía chính diện của chén trà mà phải xoay
chén trà hướng phía chính diện về phía khách. Người nhận sẽ xoay chén trà để lệch
khỏi phía chính diện khi uống sao cho có thể vừa thưởng thức các hình vẽ, hoa văn
ở phía chính diện, vừa khơng được làm dây bẩn phía chính diện của chén trà rất quan
trọng này. Nói một cách cụ thể là bạn sẽ cầm chén trà bằng tay phải, đặt lên lòng
bàn tay trái. Tiếp đó các bạn sẽ xoay chén trà trên tay từng chút một theo chiều kim
đồng hồ. Sau đó uống trà ở vị trí lệch khỏi phía chính diện. Các bạn cũng lưu ý là
không uống hết 1 hơi mà thông thường sẽ uống làm 3 ngụm rồi trả lại chén trà.
4
2. Trà chiều Anh quốc:
2.1.
Lịch sử hình thành và phát triển trà chiều Anh quốc:
Mặc dù hình ảnh hồng trà được gắn liền với Anh quốc, nhưng thực tế thói
quen uống trà bắt đầu từ nước Pháp vào thế kỉ 17. Tới năm 1600, cùng với sự thành
lập của công ty Đông Ấn, trà bắt đầu được nhập khẩu và phổ biến rộng rãi hơn tại
Anh. Bữa trà chiều chính thức bắt đầu vào khoảng đầu thế kỉ 19 bởi nữ cơng tước
Bedford, Anna mà ngun nhân chính là do sự “nhàn nhã” của bà. Vào thời bấy giờ,
thông thường trong ngày chỉ có hai bữa ăn, bữa sáng và bữa tối vào khoảng 8 giờ.
Vì khoảng cách giữa hai bữa khá xa, người ta nói rằng nữ cơng tước đã phàn nàn về
“cảm giác uể oải” vào khoảng 4 giờ chiều, vì thế đã yêu cầu một ấm trà và vài món
ăn nhẹ để thưởng thức trong phịng riêng. Dần dần, bà bắt đầu mời một vài người
bạn tới và hoạt động này trở nên rất được yêu thích. Vì vậy bà quyết định mang nó
theo về London, gửi thiệp mời tới những người bạn cùng tham gia “uống vài tách
trà và cùng nhau đi dạo”.
Những vị nữ chủ nhân khác cũng nhanh chóng tiếp thu hoạt động này, chuyển
nó vào phịng khách và bữa trà chiều chính thức trở thành một sự kiện xã giao của
tầng lớp thượng lưu.
Trà chiều khi mới ra đời giữa thế kỷ 19 gần như chỉ dành cho những nhóm
quý bà thuộc tầng lớp thượng lưu tại Anh. Khi Nữ hoàng Victoria bắt đầu tham gia
vào nghi lễ Trà chiều và phổ biến khắp nơi, thì nó đã trở thành một hoạt động bình
dân hơn, được gọi với tên thơng dụng hơn là "Tiệc trà". Mỗi buổi thưởng trà này có
khi tới 200 khách, diễn ra suốt từ 4h chiều đến 7h tối. Số người tham gia có thể đến
và đi tự do trong buổi tiệc trà, không cố định người tham dự từ đầu đến cuối. Ngày
nay, Trà chiều ở Anh được coi như một sở thích, đam mê hoặc là hình thức tổ chức
những sự kiện đặc biệt như sinh nhật, tiệc trước đám cưới hay vui vẻ với nhóm bạn
bè.
Một nhầm lẫn phổ biến là việc sử dụng khái niệm “High tea” thay cho
“Afternoon tea”. Trên thực tế, High tea là bữa ăn gần giống như bữa tối của tầng lớp
trung lưu và lao động. Bữa ăn này gồm món chính, bánh mì, bơ, pho mát và trà được
dùng vào khoảng 6 giờ chiều sau một ngày làm việc dài và mệt mỏi. Tên gọi High
tea bắt nguồn từ việc bữa ăn này được dọn trên bàn ăn tối cao, trái ngược với
Afternoon tea được dọn trên bàn trà thấp. Vì vậy Afternoon tea cịn được gọi với cái
tên khác là Low tea. Có ba loại trà chiều chính:
Cream tea: chỉ gồm trà, scone kèm mứt và kem.
Light tea: gồm trà, scone và bánh ngọt.
Full tea: gồm đầy đủ trà, bánh sandwich nhỏ hoặc món khai vị, scone và bánh ngọt.
5
Theo truyền thống, bữa trà chiều được dùng vào khoảng 4 đến 5 giờ, và không
kéo dài quá 7 giờ tối, nhưng ngày nay, phần lớn phòng trà phục vụ trà chiều từ 3 giờ
tới 5 giờ.
2.2.
Không gian thưởng trà:
Mô hình trà chiều được phục vụ rộng khắp nước Anh từ những nhà hàng,
khách sạn sang trọng đến những phòng trà bình dân. Khác với khơng gian thưởng
trà của trà đạo Nhật Bản là ở một căn phịng, một khn viên tại gia, có phần biệt
lập và tĩnh lặng thì không gian trà chiều Anh quốc lại theo hướng mở, nơi quán xá
công cộng, nhộn nhịp và lộng lẫy như thiết kế trong những tòa lâu đài. Điều gây ấn
tượng khi nhìn vào khơng gian đó là bộ đèn trần vơ cùng lung linh, hồnh tráng và
tốt ra vẻ xa xỉ. Thường có những gam màu chủ đạo là trắng, xám, đỏ đô sang trọng
của những bức tường cao, ánh sáng vàng từ những chùm đèn. Theo truyền thống,
người Anh sẽ pha trà trong những chiếc ấm sứ với họa tiết hoa văn cổ điển và thanh
lịch. Tách uống trà cũng làm bằng sứ và phải đi theo bộ. Bên cạnh đó cịn có những
ấm trà bằng bạc và những chiếc cốc bằng gốm xương tinh xảo. Một thứ không thể
thiếu cùng với bộ trà đó là tháp bánh ngọt đầy màu sắc và hấp dẫn. Để không gian
trở nên nghệ thuật hơn thì người ta có đặt những bình bông cỡ lớn, những bức tranh
sơn dầu...
2.3.
Những nguyên tắc trong trà chiều Anh quốc:
Trà sử dụng trong bữa trà chiều là trà lá (loose tea). Trà nên được pha trong
bình sứ để giữ được hương vị tốt nhất. Trà luôn ln chỉ được rót tới 3/4 tách. Trà
có thể được dùng trực tiếp, với chanh hoặc sữa, được thêm vào sau khi rót trà, khơng
dùng đồng thời sữa và chanh. Có một câu nói rằng có thể biết được bạn thuộc tầng
lớp nào dựa vào việc thêm sữa trước hay sau trà.
Trái ngược với quan niệm phổ biến, đừng chĩa ngón út của bạn khi cầm tách
trà.
Khi thưởng thức full tea cũng cần có trình tự đúng: sandwich, scone và cuối
cùng là bánh ngọt. Scone là một loại bánh mì, vì thế khơng được cắt bằng dao mà
phải bẻ, sau đó phết kem và mứt tùy sở thích.
Khăn ăn cần được gấp đôi và đặt trên đùi, với nếp gấp quay về phía mình. Khi
muốn tạm thời rời bàn, hãy đặt khăn ăn trên ghế, còn khi kết thúc bữa ăn, hãy đặt
khăn ăn trên bàn, phía bên trái đĩa ăn.
Người Anh khơng thích bạn nói chuyện khi bạn đang ăn đầy mùi hoặc cắn
một miếng lớn nên đợi đến khi bạn nuốt hết thức ăn rồi mới nhấp trà.
Không đặt các vật dụng dư ra như chìa khóa, kính, điện thoại trên bàn. Ngồi ra cũng
khơng để muỗng trong tách mà đặt ra đĩa. Không di chuyển đĩa của bạn hơn 1 inch
cạnh bàn và cũng không đẩy đĩa bạn ra xa khi bạn ăn xong.
6
Mặc dù trước đây, bữa trà chiều là hoạt động chỉ dành cho tầng lớp thượng
lưu, ngày nay nó có thể được thưởng thức bởi bất kì ai. Nhưng dù đã trở nên phổ
biến hơn rất nhiều, vượt ra khỏi khuôn khổ nước Anh, trà chiều vẫn luôn giữ bản
chất của nó là hoạt động xã giao dành cho những người u thích nét đẹp văn hóa
thanh lịch, và vì thế nó đã trở thành một phần quan trọng trong lối sống của bất kì
một một người dân nào.
3. So sánh văn hóa thưởng trà giữa Nhật và Anh:
Sau khi tìm hiểu về hai nền văn hóa thưởng trà là trà đạo Nhật Bản và trà chiều
Anh quốc thì rất dễ dàng nhìn ra sự khác biệt rõ ràng giữa hai lối thưởng trà này. Về
nguồn gốc, không gian thưởng trà, các nghi thức pha trà và uống trà thì khác nhau
rồi, có thể khơng bàn tới. Sự khác nhau đáng đề cập ở đây đó là tinh thần thưởng trà,
giá trị mang lại khác nhau. Nguyên nhân của sự khác nhau đó là vì có khởi nguồn
khác nhau, mục đích để hai nền văn hóa thưởng trà này xuất hiện khác nhau.
Trà đạo của người Nhật hướng tới một thế giới thiền định, khơng gian thanh
tịnh hịa vào thiên nhiên để thơng qua đó mà con người ta tìm về lại với chính mình.
Người Nhật cho rằng trà đạo giáo dục cho mỗi người đức tính giản dị, sự hồn nhiên
và tác phong chững chạc. Thông qua việc tiếp thu các nghi lễ nghiêm ngặt, người
Nhật còn học được sự ngăn nắp, trọng kỷ luật và tuân thủ các quy chế xã hội. Trà
đạo là một trong những nền tảng vun đắp tình cảm dân tộc trong tâm thức người
Nhật. Họ cho rằng thơng qua trà đạo có thể phát hiện được giá trị tinh thần cần có
của bản thân. Có một câu nói tâm đắc đó là: “Chỉ một ly trà xanh nho nhỏ nhưng
với người Nhật đó lại là một ốc đảo trong tầm hồn”.
Còn đối với trà chiều Anh quốc, nó đa phần thiên hướng giải trí, nghỉ ngơi,
thư giãn. Điều này thể hiện qua câu nói: “At haft past three, everything stops for
tea” ("Mọi thứ đều dừng lại vào lúc ba giờ rưỡi chiều để dành thời gian cho việc
thưởng trà"). Trước đó trà chiều được coi như là một hoạt động xã giao của giới
thượng lưu. Bữa trà chiều dần mang tính xã hội và thời trang vào những năm 1880.
Theo đó, những người phụ nữ quý tộc sẽ mặc váy dài lộng lẫy, đeo găng tay và đội
mũ khi uống trà cùng nhau. Trà chiều phát triển như một sự kiện xã giao chỉ dành
riêng cho những phụ nữ quý tộc đang muốn leo lên vị trí cao hơn trong xã hội. Ngày
nay, khơng chỉ q tộc, trà chiều cịn phổ biến trong tầng lớp thường dân và nhiều
nước trên thế giới. Không giống với trà đạo Nhật Bản hướng tới sự giản đơn và cơ
tịch thì trà chiều Anh quốc có phần phức tạp, sang chảnh và tươi tắn hơn.
Qua hai cách thưởng trà thể hiện được tư duy, quan điểm sống của con người
ở hai quốc gia. Nhưng dù là văn hóa phục vụ cho mục đích gì thì nó vẫn mang lại
bản sắc riêng biệt, giá trị tốt đẹp riêng biệt phù hợp với từng môi trường.
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Laura C Martin. Lịch sử của trà. NXB Dân Trí, 2019. Nguyễn Huyền Linh
dịch.
2. Okakura Kakuzo. Trà Đạo Tiểu Luận. NXB Lá Bối dịch, 1967.
3. />4. />5. />6. o/vi/tim-hieu-nghe-thuat-tra-dao-nhat-ban/
7. />E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n
8. />9. />10. />11. />12. />
8
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Trà đạo Nhật Bản
Nguồn ảnh: Internet
9
Trà chiều Anh quốc
Nguồn ảnh: Internet
10