BÁO CÁO
Kết quả thực hiện môt số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2
I. SƠ YẾU LÍ LỊCH
- Họ và tên: Chau Som Nang ; Nam, nữ: : Nam
- Đơn vị công tác: Tiểu học B Cô Tô
- Chức vụ hiện nay (Môn/lớp): Giáo viên chủ nhiệm lớp 2
II.TÊN BIỆN PHÁP
Một số Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2
III. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU NỘI DUNG
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng biện pháp
Năm học này tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2F . Qua tuần đầu tiên làm
quen và khảo sát thì tơi thấy học sinh lớp tơi có 26 học sinh còn đánh vần chậm, 9 học
sinh phát âm sai nhiều; 5 học sinh đọc nhưng ngắt nghỉ chưa đúng. Cho dù trên lí
thuyết thì học sinh sau khi đã hồn thành chương trình lớp 1 thì phải thông thạo phần
vần, đọc trơn được tiếng, từ ngữ, câu văn, đoạn văn. Nhưng đối với học sinh lớp tôi
đang dạy có rất nhiều hồn cảnh khác nhau: 3 học sinh cha mẹ bỏ nhau phải ở với ông
bà, 100% học sinh là dân tộc Khmer, đa số các gia đình đều làmruộng và cơng nhân
nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc học hành của các em, ba mẹ khơng
có nhiều thời gian cho việc kiểm tra và hướng dẫn các em học ở nhà. Dẫn đến kiến
thức, kĩ năng đọc của học sinh chưa đạt yêu cầu. Mặt khác do năm học 2020 – 2021
các em nghỉ học nhiều để phòng chống dịch bệnh covid 19. Sau khi đi học lại thì lại
điều chỉnh nội dung học tập, ơn tập theo cơng văn của Phịng giáo dục đào tạo nên kiến
thức học sinh học ít, ôn tập ít so với những năm trước. Nhiều em cuối lớp 1 đọc ở dạng
trung bình, qua một tháng rưỡi nghỉ hè hầu như không làm quen với sách vở, khơng có
điều kiện sách báo, truyện để đọc, chính vì vậy vào đầu lớp 2, kĩ năng đọc các em giảm
sút. Xuất phát từ thực tế trên nên tôi chọn “Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh
lớp 2” để nâng chất lượng giảng dạy môn Tập đọc.
2. Nội dung biện pháp: Tiến trình, thời gian thực hiện, biện pháp tổ chức
Như đã trình bày thì việc dạy đọc cho học sinh là một việc làm rất cần thiết và
quan trọng ở bậc tiểu học. Nhưng dạy như thế nào để mang lại hiệu quả cao, đồng đều
đối với học sinh quả là một vấn đề không hề đơn giản. Với mỗi đối tượng học sinh lớp
mình thì tơi có biện pháp rèn đọc cụ thể.
Đối với học sinh đọc cịn chậm, đánh vần
Học sinh đọc chậm thường có tâm lí chung là ngại đọc, lúng túng khi được gọi
đọc hoặc kiểm tra đọc. Do vậy cần chú ý tới tạo tâm thế cho học sinh trước khi đọc: tư
thế đọc của học sinh, đứng hoặc ngồi cần ngay ngắn, cầm sách bằng hai tay, sách phải
được mở rộng, khoảng cách từ mắt đến tay phải từ 30 - 35cm. Khi cơ gọi đọc phải bình
tĩnh, tự tin, khơng hấp tấp đọc ngay. (Phụ lục 1)
Học sinh đọc chậm là học sinh đọc còn ê a ngắc ngứ, đọc lí nhí, đọc cịn sai
nhiều ở chữ cái và âm tiết Tiếng Việt, chưa có khả năng đọc đúng các thể loại văn bản
khác nhau. Học sinh dân tộc thường đọc chậm, thêm dấu, bỏ dấu không đúng với văn
bản.
Đối với dạng học sinh sai kiểu này tôi thường chú trọng đến việc luyện đọc và
phát âm đúng. Tức là phải thường xuyên luyện theo mẫu (mẫu của cô và mẫu của bạn),
thông qua cách phát âm của giáo viên học sinh được trực tiếp quan sát và bắt chước
theo, học sinh sẽ nhanh chóng học được cách phát âm đúng tiếng, đúng từ và tròn câu.
Trong tiết tập đọc, tôi cho các em đọc từng cụm từ, những câu ngắn, chú ý rèn
cho các em phát âm chuẩn, rõ ràng. Nếu đọc quá chậm, tôi gọi một học sinh bên cạnh
đọc lại, sau đó lặp lại câu bạn vừa đọc. Ngồi ra tơi thường tạo nhóm: một học sinh đọc
tốt cùng nhóm một học sinh đọc chậm. Qua đó học sinh đọc tốt giúp cho bạn mình đọc
khi phát âm sai. Giải pháp giúp cho cùng một thời gian ngắn mà được nhiều học sinh
luyện đọc. Trong lớp tôi cũng thành lập đôi bạn cùng tiến để giúp bạn đọc trong 15
phút đầu giờ. (Phụ lục 2)
Bên cạnh đó, đối với những học sinh này, tôi không giao bài về nhà nhiều mà
mỗi ngày tôi chỉ giao rèn đọc một đoạn văn ngắn khoảng 3 – 4 câu, yêu cầu các em đọc
nhiều lần, giúp các em ôn lại cách đọc nhớ lại các âm vần mà các em quên ở lớp dưới.
Kiểm tra hàng ngày, em nào đọc có tiến bộ, thì tun dương trước lớp.
Luyện đọc với những học sinh đọc chậm không chỉ qua tiết tập đọc, mà tơi cịn
tích hợp ở các mơn học khác như tập làm văn, tốn ,... thơng thường cho các em đọc đề
tốn mục đích rèn đọc cịn giúp các em hiểu đề.
Đối với những học sinh có mức đọc tương đối đạt về tốc độ so với học sinh lớp
2. Tuy nhiên, vẫn cịn một số sai sót về phát âm. Do tiếng Việt có nhiều phương ngữ,
nhiều địa phương có cách phát âm khác nhau ít nhiều ảnh hưởng đến cách phát âm
đúng chuẩn của học sinh.
Ví dụ: Học sinh đọc sai các âm vị là phụ âm đầu trong tiếng Việt như “rõ ràng”
đọc thành “ gõ gàng”; “cây tre” đọc thành “cây che”,… là sai do không phân biệt được
cặp phụ âm r/g; ch/tr.
Đọc không phân biệt được các thanh điệu ?/~.
Ví dụ: “lãng đãng” đọc thành “lảng đảng”, “ngựa gỗ” đọc thành “ngựa gổ”,…
Đối với những học sinh thường đọc sai theo các dạng đã nêu trên việc rèn cho
học sinh là tương đối khó, vì đây là những lỗi sai do cách phát âm ảnh hưởng phương
ngữ. Tuy nhiên, giáo viên cần rèn luyện cho mình cách đọc đúng chuẩn để làm mẫu và
sửa sai cho học sinh. Ngồi ra, giáo viên cũng có thể dùng những học sinh đọc tốt phát
âm chuẩn làm mẫu cho học sinh này noi theo. Khi học sinh đọc sai giáo viên cần sửa
sai ngay tại chỗ, nếu học sinh làm chưa thật tốt giáo viên ghi vào sổ ghi chép hàng
ngày để có biện pháp hỗ trợ vào dịp khác.
Những đối tượng phát âm sai, tôi kết hợp rèn đọc tích hợp trong dạy chính tả, vì
theo ngun tắc, học sinh đọc như thế nào, viết như thế ấy. Chính vì vậy các em viết sai
chính tả, rèn đọc trong tiết chính tả ngồi nâng cao khả năng đọc cho học sinh mà cịn
giúp các em viết đúng chính tả.
Đối với những học sinh ngắt nghỉ sai khi đọc
Đây là dạng học sinh có khả năng đọc to, rõ từ, đọc đúng chính âm, phụ âm tuy
nhiên cịn có hạn chế về kĩ năng ngắt nghỉ chưa đúng chỗ làm cho câu từ bị gãy vụn, bị
bóp méo, biến thể về nội dung văn bản.
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong trường tiểu học hiện nay hiện tượng
học sinh đọc ngắt nghỉ không đúng làm cho nội dung văn bản bị hiểu sai không phải là
hiếm thấy mà là thường gặp, và thường gọi đó là cách đọc nhát gừng, vậy đối với
trường hợp này ta phải khắc phục như thế nào?
Như chúng ta đã biết, đọc đúng bao gồm đúng cả tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi, ngữ
điệu câu. Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu
hơn ở dấu chấm. Tôi đã dựa vào nghĩa của từ và quan hệ ngữ pháp để xác định cách
ngắt nhịp cho đúng các câu, nghỉ hơi giữa các cụm từ.
Đối với một bài thơ, bài văn, câu thơ, câu văn học sinh đọc cá nhân chưa ngắt
nghỉ hơi đúng hoặc đọc sai nhiều như dạng đọc vừa nêu ở trên tôi cho học sinh khác
đứng tại chỗ hoặc lên bảng đánh dấu lại chỗ ngắt và cho học sinh đọc đồng thanh. Việc
đọc đồng thanh trong giờ tập đọc làm cho khơng khí lớp học vui tươi, phù hợp với lứa
tuổi học sinh tiểu học. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh được đọc thành tiếng. Đồng
thời cũng giúp đối tượng học sinh trên nhận thấy những sai sót mà mình cịn vướng
phải để có điều kiện sửa chữa. (Phụ lục 2)
Tuỳ theo từng bài từng mức độ đọc của học sinh mà tôi cho học sinh đọc đồng
thanh cả bài hoặc 1 - 2 câu văn
Ngoài những học sinh đọc sai kiểu nhát gừng như đã nói ở trên cịn có những
học sinh khi cầm sách là đọc quá nhanh. Tôi thường nêu lên cho học sinh thấy rằng khi
đã đọc nhanh là đã có kĩ năng nhận diện mặt chữ tốt, cần khen ngợi tuy nhiên khi đọc
thành tiếng là đọc cho người khác nghe vậy em cần phải chú ý xác định tốc độ cho
người nghe hiểu kịp (Tốc độ cho phép tối đa là 60 tiếng/phút đối với lớp 2) và biểu đạt
đúng cách đọc của từng bài.
Tôi hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc
thầm theo. Ngồi ra, cịn dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra
lẫn nhau để có nhận xét sửa chữa. Đồng thời cho học sinh thảo luận về cách đọc sau đó
thống nhất và làm mẫu để học sinh noi theo.
Muốn học sinh đọc đúng tốc độ, có hướng diễn đạt và biểu cảm đúng nội dung
văn bản cần có sự chuẩn bị tốt bài đọc ở nhà, học sinh phải đọc trước nhiều. Em nào
còn chưa theo kịp cần rèn luyện thêm sau tiết dạy.
Khi dạy tập đọc, giáo viên cần quan tâm đến các câu dài khó đọc, hướng dẫn
cho các em cách ngắt nghỉ, nhấn giọng cho đúng trước khi tìm hiểu nội dung bài, vì tập
đọc đúng bước đầu giúp cho các em hiểu phần nào nội dung của văn bản.
Ví dụ : khi dạy bài : Bà cháu ( tuần 11)
Hạt đào vừa gieo xuống đã nẩy mầm,/ ra lá,/ đơm hoa,/ kết bao nhiêu là trái
vàng,/ trái bạc.//
Dạy đọc ngắt nghỉ đúng, giáo viên phải chịu khó lắng nghe, sửa mọi lúc mọi
nơi. Trước tiên giáo viên phải đọc mẫu, tiếp đến cho học sinh đọc tốt đọc, sau đó đến
học sinh đọc chậm hơn. Vì khi giáo viên, học sinh đọc tốt đọc học sinh đọc chậm nghe
và nhẩm theo. (Phụ lục 3)
Đối với những học sinh có kĩ năng đọc khá tốt:
Đối với dạng học sinh này tôi chú trọng nâng cao kĩ năng đọc hiểu và đọc diễn
cảm.
Để nắm chắc, hiểu rõ nội dung văn bản, cảm nhận được văn bản thì cần rèn
luyện kĩ năng đọc hiểu. Luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm.
Vì đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng là có thể nhanh từ 1,5 - 2 lần. Tất cả trí tuệ
tập trung vào việc tiếp nhận và thông hiểu nội dung mà không cần chú ý đến việc phát
âm. Kết quả của đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là
tồn bộ những gì đọc được.
Tơi kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài và việc luyện đọc. Hướng dẫn tìm
hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu này.
Tôi cho 1 học sinh đọc thành tiếng đoạn 1 (cả lớp đọc thầm theo lần 1) sau đó
đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Tương tự đối với đoạn 2, 3, 4 tôi đã kết hợp cho rèn
đọc thầm được từ 2 lần và giải quyết song song cùng lúc việc rèn đọc và tìm hiểu bài.
Trong tìm hiểu bài tơi cũng phân thành đối tượng học sinh. Các câu hỏi trong một bài
tập đọc thông thường câu 1 và 2 là câu hỏi mang tính mà học sinh chỉ đựa vào sách
giáo khoa để trả lời, đó là câu hỏi nhận diện tôi dành cho đối tượng học sinh chậm. Nếu
các em trả lời cịn vấp, tơi dừng lại cho học sinh học tốt trả lời rồi các em lập lại. Các
câu hỏi vận dụng tơi dành cho học sinh học tốt.
Ví dụ: qua bài : Bà cháu : câu hỏi vận dụng dành cho đối tượng học sinh học
tốt:
- Qua câu chuyện này em rút ra được bài học gì?
Bên cạnh đó để giúp học sinh đọc hiểu tốt tơi cũng chuẩn bị hệ thống câu hỏi để
học sinh nêu lên được nội dung bài một cách khái quát, cách đọc bài. Tôi thường chú ý
đến các câu hỏi để học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ tìm các từ
gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa…..
Có làm được như vậy từ việc hiểu nghĩa của từ kết hợp hiểu nghĩa của câu và
toàn bài từ đó học sinh có thể tóm lược được nội dung, ý đoạn hoặc cả bài đọc mà các
em vừa đọc.
IV. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng biện pháp
Trước khi thực hiện biện pháp này, tôi nhận thấy kỹ năng đọc của lớp tơi cịn
yếu. Qn mặt chữ, đọc phải đánh vần, phát âm sai, ngắt nghỉ còn chưa đúng.
Với biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh như trên, tôi đã trực tiếp áp dụng
trên lớp mình phụ trách kết quả như sau:
- Học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt, mặc dù đến thời điểm kết thúc học kì I vẫn
cịn vài em đọc cịn chậm. Nhưng nhìn chung, các em đều đã đạt được yêu cầu của tốc
độ đọc là 40 tiếng/ 1 phút, đọc lưu loát, trôi chảy và đã biết ngắt nghỉ hơi ở các dấu
câu, các cụm từ.
- Riêng đối với lớp 2F tôi phụ trách, thì kết quả khảo sát chất lượng đọc thành
tiếng của học sinh đạt được như sau:
Giai đoạn
Sĩ
Đánh vần
Phát âm sai
Ngắt giọng chưa đúng
số
SL
%
SL
%
SL
%
Đầu năm học
26 9
34,6
5
19,2
12
46,2
Cuối HKI
26 5
19,2
4
15,4
8
30,8
Giữa HKII
26 3
12
3
12
5
20
Với kết quả trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi đã nâng cao rõ rệt về chất lượng
đọc, dẫn đến chất lượng học của môn Tiếng Việt cũng đã nâng cao, đặc biệt là tiến bộ
rất rõ trong phân mơn Chính tả và Tập làm văn. Lớp chỉ cịn hai em thỉnh thoảng chép
lại bài vì sai q năm lỗi. Còn Tập làm văn nhờ đọc sách báo nhiều nên các em đã có
sự tiến bộ.
Sự tiến bộ đó của học sinh giúp tơi tự tin hơn khi vận dụng các biện pháp này
vào giảng dạy. Song bản thân tôi thấy công việc nghiên cứu các biện pháp rèn kĩ năng
đọc không dừng lại ở phân môn Tập đọc mà cần phải lồng ghép vào nhiều môn học
khác. Vì vậy, tơi nhận thấy mình cần phải học thêm rất nhiều về kinh nghiệm từ bạn bè,
đồng nghiệp và tham khảo nhiều tài liệu hơn nữa để tìm tịi, áp dụng vào việc giảng
dạy để đưa chất lượng học sinh ngày một cao hơn.
2. Khả năng áp dụng biện pháp (nêu biện pháp có thể áp dụng (nhân rộng).
Với phương pháp này có thể áp dụng ở tất cả giờ tập đọc ở lớp 2F và áp dụng
trong khối 2 khi giảng dạy phân môn tập đọc. Ở khối 2 nói chung và lớp 2F tơi đang
nghiên cứu nói riêng với phương pháp này kết hợp với phương pháp phát huy năng lực
học của học sinh đã làm cho học sinh học tập một cách tích cực, tự giác, các em yêu
thích mơn học; mặt khác cịn kích thích phong trào thi đua học tập trong lớp. Do đó kết
quả mang lại khá khả quan.
V. KẾT LUẬN
Trong giao tiếp, trong học tập, trong công tác hàng ngày, con người luôn phải
học hỏi, tiếp thu nền văn minh của xã hội loài người. Chính vì vậy dạy học là một việc
làm vơ cùng quan trọng ở Tiểu học, trong các giờ học của các mơn học nói chung và ở
phân mơn Tập đọc nói riêng việc đọc đúng, hay cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu. Bởi có đọc được thì học sinh mới có thể học các mơn khác.
Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay thì người giáo viên phải dạy cho học
sinh đọc đúng, đọc hay ngay từ những lớp đầu cấp. Giáo viên phải là người đọc mẫu
chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng. Việc đưa ra hệ thống phiếu bài tập phải
đảm bảo các yêu cầu, phải thực hiện được mục đích, học sinh phải chiếm lĩnh được
một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và trong học tập. Khi giảng dạy cần chú ý đến
nội dung bài tập đọc.
Giáo viên luôn quan tâm, động viên khích lệ học sinh trong quá trình luyện đọc
(nhất là những học sinh đọc chậm). Phải có sự đầu tư cho tiết dạy, việc điều chỉnh nội
dung dạy học theo đối tượng học sinh, không để học sinh học chậm ngồi ngồi lề lớp
học. Tránh khơng được la mắng hay trách phạt mà, động viên khuyến khích các em,
tuyên dương khi kịp thời khi các em có sự tiến bộ.
Tơi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật./.
Xác nhận của Hiệu trưởng
Người báo cáo biện pháp
Chau Som Nang
PHỤ LỤC 1
Tư thế đứng và ngồi đúng khi đọc bài của học sinh.
PHỤ LỤC 2
Đôi bạn cùng tiến để giúp đỡ bạn đọc tốt.
Học sinh lên bảng đánh dấu chỗ ngắt, nghỉ trong câu văn dài.