Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận Luật kinh tế luật doanh nghiệp đạt điểm 9.5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.43 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI (CSII)
KHOA LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
LUẬT KINH TẾ
Học kỳ: 1 Năm học : 2021
Tên đề tài: HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

Sinh viên thực hiện: Trần Hồng Anh
Lớp:

Đ20KD2

Tp. Hồ Chí Minh, tháng ...10... năm ..2021...


Mở Đầu
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh,
vốn là điều kiện khơng thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Nhu cầu về vốn là một trong những bức xúc của doanh nghiệp,
đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các doanh nghiệp đều mong muốn đầu tư
mở rộng sản xuất, đa dạng hoá dịch vụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Doanh nghiệp có nhiều hình thức để huy động vốn như phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, vay vốn ngân hàng, tín dụng từ nhà cung cấp, thuê tài chính, v.v. Mỗi cách
thức huy động vốn đều có những ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, do trình độ phát
triển của hệ thống tài chính cịn chưa cao, cũng như một số hạn chế mang tính chủ
quan khác, thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp trong nước hiện còn tồn
tại nhiều bất cập cần sớm được giải quyết. Điển hình là tình trạng doanh nghiệp
quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng – một nguồn vốn khơng dễ tiếp cận,
trong khi đó lại bỏ qua hoặc ít để ý tới các nguồn huy động nhiều tiềm năng khác.


Mặt khác, do hạn chế về trình độ nhân sự, các mơ hình tính tốn chi phí vốn một
cách khoa học hầu như khơng đượccác doanh nghiệp áp dụng khi tìm kiếm nguồn tài
trợ.


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ
PHẦN VÀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển công ty cổ phần và huy động vốn trong
công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm
• Cơng ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình
thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ
phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi
là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đơng.
• Huy động vốn là một hoạt động nhằm làm tăng số vốn của doanh nghiệp nhằm
phục vụ cho nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp muốn mở rộng việc huy động vốn là vấn đề tất yếu, là quyền tự do kinh
doanh của cơng ty.
1.1.2. Đặc điểm

Đặc điểm của công ty Cổ phần
-Đặc điểm chung:
Là tổ chức kinh tế và là một loại hình doanh nghiệp có:
+ Tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
+ Được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật
+ Nhằm mục đích kinh doanh.
Có tư cách pháp nhân để từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp:
+ Được thành lập hợp pháp
+ Cơ cơ cấu tổ chức chặt chẽ

+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập
-Đặc điểm riêng:
Vốn điều lệ công ty:
+ Công ty cổ phần là loại hình cơng ty đối vốn.
+ Vốn điều lệ của cơng ty cổ phần được chia thành nhiều phần nhỏ và bằng
nhau, được gọi là cổ phần.
• Theo Luật doanh nghiệp 2020, Cơng ty cổ phần có các phương thức huy
động vốn như sau:
+Thứ nhất, Chào bán cổ phần để tăng vốn điều lệNgay tại khoản 3 Điều 111 Luật
Doanh nghiệp 2020 nêu rõ, pháp luật cho phép công ty cổ phần trái phiếu và các
loại chứng khốn khác của cơng ty. Có thể hiểu đây là hình thức chào bán cổ


phần nhằm tăng vốn điều lệ của công ty thông qua việc tăng thêm số lượng cổ
phần.
Chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào
bán và bán các cổ phần đó trong quá trình hoạt động để tăng vốn điều lệ. Kết quả
của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo huy động vốn điều lệ trong q trình
thành lập cơng ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty trong trường hợp
công ty đang hoạt động.
Chào bán cổ phần ra công chúng, chào bán cổ phần của công ty cổ phần niêm yết
và đại chúng thực hiện theo các quy định của pháp luật về chứng khoán
+Thứ hai, huy động vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu
Theo Khoản 3 Điều 4 Luật chứng khoán 2019, Trái phiếu được hiểu là loại
chứng khốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Điều kiện phát hành trái phiếu của công ty cổ phần:
+ Công ty phải thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành,

+ Cơng ty phải thanh tốn đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước
đó (trừ trường hợp pháp luật về chứng khốn có quy định khác).
1.2. Các đặc điểm pháp lý của công ty cổ phần và huy động vốn trong công
ty cổ phần
1.2.1. Về thành viên cơng ty
Chủ thể sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty là cổ đơng. Cơng ty
cổ phần có tối thiểu 03 cổ đơng, không hạn chế số lượng cổ đông tối đa. Việc quy định
số cổ đông tối thiểu đã trở thành thông lệ quốc tế.
Cổ đơng cơng ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức:
+ Cá nhân: không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch, nếu không thuộc đối tượng
quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014 thì có quyền thành lập cơng ty
cổ phần; nếu khơng thuộc đối tượng quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật doanh nghiệp
thì có quyền mua cổ phần.
+ Tổ chức: tất cả tổ chức là pháp nhân, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam, không phân biệt nơi đăng ký địa chỉ trụ sở chính nếu khơng
thuộc đối tượng bị cấm đều có quyền thành lập, thanh gia thành lập, có quyền mua cổ
phần của công ty cổ phần
Các cổ đông công ty cổ phần gồm:
+ Dựa vào vai trò đối với việc thành lập công ty cổ phần: Cổ đông sáng lập và cổ
đơng góp vốn
+ Dựa trên cổ phần mà họ sở hữu: Cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
1.2.2. Về tư cách pháp lý


Cơng ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
1.2.3. Về chế độ trách nhiệm
Trách nhiệm tài sản:
+ Công ty chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của công ty.
+ Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty.

1.3. Pháp luật điều chỉnh về công ty cổ phần
- Theo điều 95 Luật doanh nghiệp 2005 về cơ cấu tổ chức của cơng ty cổ
phần: “Cơng ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ; đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ
đơng là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ
phần của Cơng ty phải có Ban kiểm sốt.”
- Ba thành phần chính của mơ hình này bắt buộc phải có Đại hội đồng cổ
đơng, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc tức là Ban
kiểm soát có thể có hoặc có thể khơng trong cơ cấu tổ chức của công ty
Cổ phần theo luật này.
- Về đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần , theo Luật doanh nghiệp
2005, tại điều 95 có quy định: “Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty được
quy định tại Điều lệ công ty. Người đại diện theo pháp luật của công ty
phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng mặt trên 30 ngày ở Việt
Nam thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác theo quy định tại
điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của người đại diện
theo pháp luật của công ty.”
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CƠNG TY
CỔ PHẦN

2.1 Khái niệm về vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh
nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khi nói về vốn vẫn còn
tồn tại rất nhiều quan điểm và tranh luận về định nghĩa về vốn.
Theo K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá
trình sản xuất. Định nghĩa này có một tầm khái qt lớn vì bao hàm đầy đủ cả bản
chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù nó được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự sinh

sôi về giá trị thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do hạn chế về trình


độ phát triển lúc bấy giờ mà Marx đã bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất
vật chất và cho rằng chỉ có q trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh
tế.
Theo P.Samuelson, vốn là các hàng hóa được sản xuất ra để phực vụ cho quá trình
sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp.
Theo D.Begg, ông cho rằng vốn bao gồm vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện
vật là dự trữ các hàng hóa và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp. Như vậy Begg đã
đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu
hiện bằng tiền của tất cả các tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối kế toán của
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các loại
hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm là người sở hữu
vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Chi phí của việc sử
dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sử hữu và quyền sử dụng
nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh để sinh lợi.
Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết
hợp với sức lao động và các yêu tố khách làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh
doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong q trình sản xuất vật chát riêng
biệt mà trong tồn bộ q trình sản xuất và tái sản xuất liên tục trong suốt thời gian
tồn tại của doanh nghiệp từ khi bắt đầu đến khi kết thúc q trình sản xuất.
Như vậy, một cách thơng dụng nhất, vốn có thể hiểu là các nguồn tiền tài trợ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tiền này được hình thành
dưới nhiều cách thức khác nhau và tại các thời điểm khác nhau. Giá trị nguồn vốn
phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tùy từn loại hinh
doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có các phương thực tạo
vốn và huy động vốn khác nhau.


2.2 Phân loại vốn của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả
các doanh nghiệp đều tiến hành phân loại vốn. Tùy vào mục đích và loại hình của
từng doanh nghiệp mà vốn được phân loại theo các tiêu thức khác nhau.
2.2.1 Phân loại vốn theo nguồn hình thành:
- Vốn chủ sở hữu
+ Vốn pháp định :
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật
quy định đối với từng ngành nghề.
+ Vốn tự bổ sung:
Vốn tự bổ sung là vốn chủ yếu do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi nhuận, từ quỹ
đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính.
- Vốn huy động của doanh nghiệp .


Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, vốn chủ sở hữu
có vai trị quan trọng nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Để đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tăng cường huy động các
nguồn vốn khác dưới hình thức vay nợ, liên doanh liên kết, phát hành trái phiếu...
+ Vốn vay :
Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng, các tổ chức in tín dụng, các cá nhân, đơn vị
kinh tế để tạo lập hoặc tăng thêm nguồn vốn.
* Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng: rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp.
* Vốn vay trên thị trường chứng khốn: doanh nghiệp có thể phát hành trái
phiếu để thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong xã hội, đây là một công cụ tài
chính quan trọng và dễ sử dụng vào mục đích vay dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn
sản xuất kinh doanh.
+ Vốn liên doanh liên kết :

Các doanh nghiệp có thể liên doanh, hợp tác với nhau để huy động thực hiện mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Vốn tín dụng thương mại :
Tín dụng thương mại là các khoản mục chịu từ người cung cấp hoặc ứng trước
của khánh hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tuy các khoản tín dụng
thương mại thường có thời gian ngắn hạn nhưng nếu doanh nghiệp biết quản lý một
cách có khoa học có thể đáp ứng phần nào nhu cầu vốn lưu động.
+ Vốn tín dụng thuê mua :
Đây là phương thức tài trợ thông qua hợp đồng giữa người thuê và người cho
thuê. Người thuê sử dụng tài sản và phải trả tiền cho người cho thuê theo thời hạn mà
hai bên thỏa thuận, người cho thuê là người sở hữu tài sản và nhận được tiền cho th
tài sản.
Tín dụng th mua có hai phương thức giao dịch chủ yếu: là thuê vận hành và
thuê tài chính.
* Thuê vận hành (thuê hoạt động): là hình thức thuê ngắn hạn tài sản.
* Thuê tài chính : là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn và dài hạn theo hợp
đồng.
Trên đây là cách phân loại vốn theo nguồn hình thành, nó là cơ sở để doanh
nghiệp lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh doanh,
quy mơ, quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược đầu tư. Bên cạnh đó,
đối với việc quản lý vốn ở doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập là hoạt động luân
chuyển vốn do đó doanh nghiệp cần phân loại vốn theo phương thức chu chuyển.
2.2.2 Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển
- Vốn cố định của doanh nghiệp


Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng, lắp đặt tài sản cố định hữu hình
hay vơ hình gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Nói cách khác, vốn cố định của
doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước. Quy mô của vốn cố định
nhiều hay ít sẽ tác động đến quy mô của tài sản cố định, ngược lại những đặc điểm

vận động của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi
phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trính sản xuất kinh doanh:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Vốn cố định là hình
thái biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định cùng tham gia vào các chu kỳ tương ứng.
+ Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần từng phần trong các chu kỳ sản
xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, tài sản cố định bị hao mòn, giảm dần về giá
trị và giá trị sử dụng. Vốn cố định được tách thành hai bộ phận:
* Bộ phận thứ nhất tương ứng với phần hao mòn của tài sản cố định được luân
chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và
được tích lũy thành qũy khấu hao, sau khi sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ, quỹ khấu
hao này sẽ được sử dụng để tái sản xuất tài sản cố định nhằm duy trì năng lực sản xuất
của doanh nghiệp.
* Bộ phận thứ hai đó chính là phần còn lại của vốn cố định được gọi là giá trị còn
lại của tài sản cố định .
Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần
tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định dần giảm xuống. Kết thúc
q trình vận động đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị của nó
được dịch chuyển hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất, và khi đó vốn cố định mới
hồn thành một vịng ln chuyển.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là bộ phận quan trọng chiếm tỷ trọng tương
đối lớn. Việc quản lý vốn cố định đòi hỏi phải gắn liền với việc quản lý tài sản cố
định vì điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất của doanh
nghiệp.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có các đối tượng lao
động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ
sản xuất, khơng giữ ngun hình thái ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển tồn bộ
một lần vào giá trị sản phẩm.
Vậy nếu xét về hình thái hiện vật thì các đối tượng lao động gọi là các tài sản lưu
động, cịn hình thái giá trị thì được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.



- Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh ứng
trước về tài sản lưu động, là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động. Trong quá trình
sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động ln vận động thay thế hoặc đổi chỗ cho
nhau đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất được tiến hành thuận lợi .
Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động của doanh nghiệp ln ln thay đổi
hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm hàng hóa, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng
không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dự trữ sản xuất, sản
xuất và lưu thơng. Q trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp lại theo chu
kỳ được gọi là q trình tuần hồn của vốn lưu động.
Có thể thấy, vốn lưu động được phân bố trên khắp các giai đoạn luân chuyển vì
vậy doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác nhau.

2.3 Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động kinh doanh dù với bất kỳ quy mơ nào cũng cần phải có
một lượng vốn nhất định, nó là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của doanh
nghiệp.
2.3.1 Về mặt pháp lí:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập điều kiện đầu tiên là phải có một lượng vốn
nhất định, lượng vốn này tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp
lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh
doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định doanh
nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như phá sản, giải thể, sát nhập... Như vậy
vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại
tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
2.3.2 Về mặt kinh tế:
Vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Vốn biểu hiện năng lực và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều

này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng găy gắt,
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất, sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh
nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh
nghiệp được bảo tồn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở
rộng phạm vi sản xuất, thị trường tiêu thụ ngày càng lớn, nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trên thương trường.

2.4. Các phương thức huy động vốn
2.4.1 Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp


Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ đầu tư cũng phải đầu tư một số vốn
nhất định. Khi nói đến nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, bao giờ cũng phải xem xét
hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, đó là vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính
chất và hình thức tạo vốn tự có của chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn tự có ban đầu là vốn đầu tư của ngân
sách Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp quốc doanh là Nhà nước. Trước
đây, Tổng cục quản lí tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính có
trách nhiệm quản lí tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Hiên nay, cơ chế
quản lí tài chính cũng như quản lí nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước đang có
những tay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Ở nước ta, trong kế hoạch tài chính có
thuật ngữ “vốn tự có và coi như tự có” hoặc “vốn ngân sách cấp và có nguồn gốc ngân
sách” để biểu thị nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp ban đầu, cấp bổ sung và
nguồn vốn khác hình thành trên cơ sở vốn của Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp tư nhân hoặc cơng ty trách nhiệm hữu hạn, chủ doanh nghiệp
phải có một số vốn ban đầu cần thiệt để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp. Quy mơ
vốn tự có ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên đó khơng
phải là nhân tố quyết định lâu dài. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu

doanh nghiêọ hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi
để mở rộng nguồn vốn. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận để lại là bộ phận lợi nhuận
được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Số lợi nhuận
để lại tái đầu tư sẽ làm tăng thêm nguồn vốn của chủ sở hữu, được phản ánh trên bảng
cân đối kế tốn của doanh nghiệp. Quy mơ và tỷ lệ vốn để lại từ lợi nhuận phụ thuộc
vào tình hình kinh doanh, kết quả hoạt động của thời kì đã qua và quyết định cụ thể
của chủ doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đơng đóng góp là yếu tố quyết định
để hình thành cơng ty. Mỗi cổ đơng là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trên giá trị số cố phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các cơng ty cổ phần
cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần
cũng khác nhau.
Trong loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi, cơng ty liên doanh, các nguồn vốn cũng tương tự như
trên, tức là nguồn vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia góp vốn, các
đối tác,v.v… Tỷ lệ và quy mô vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau như luật pháp, đặc điểm các ngành kinh tế-kĩ thuật, cơ cấu liên
doanh…
2.4.2 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà cịn đối
với tồn bộ nền kinh tế qyốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các


doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại
cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Khơng có một cơng ty nào có thể hoạt động mà khơng vay vốn ngân hàng hoặc tín
dụng thương mại nếu cơng ty đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong
quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài
chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các

dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay vốn,
bao gồm vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính từ 5 năm), vay trung
hạn(từ 1 đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời
gian để phân loại trong thực tế khơng gióng nhau giữa các nước, và có thể khác nhau
giữa các ngân hàng thương mại.
Tùy theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại vay thành
các loại như: vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự án.
Cũng có những cách ơhân chia khác như: Theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ
hoặc theo hình thức đảm bảo của khoản vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm, nhưng nguồn vốn này cũng có
những hạn chế nhất định, Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm sốt của ngân
hàng và chi phí sử dụng vốn.
Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn ln
ln phải đảm bảo an tồn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thơng q một hệ thống
các biện pháp đảm bảo tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay
vốn, đánh giá các dự án liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và
những thơng tn cần thiết khác theo yêu cầu của ngân hàng.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân
hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tín dụng, phổ biến nhất
là bằng tài sản thế châp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường
hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ
tục pháp lí về giấy tờ.v.v… Do đó doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận
nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Sự kiểm sốt của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì
doanh nghiệp phải chịu sự kiểm sốt của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng
vốn vay. Nói chung, sử kiểm sốt này khơng gây ra vấn đề gì lớn cho doanh nghiệp,
tuy nhiên, trong một số trường hợp việc làm đó khiến cho doanh nghiệp có cảm giác
bị kiểm sốt.

Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín
dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kì.


Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và
làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay cịn
gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên
trong quan hệ mua bán chịu, mua bán này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ
mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh
hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cịn với tồn bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh
hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó cịn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh
doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai
bên kí hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy
tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mơ tài trợ vượt q giới hạn
an tồn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản
vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua
bán hàng hóa trả chậm chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá. Tùy
thuộc quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các bên.
2.4.3 Nguồn vốn phát hành cổ phiếu cơng ty
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổphiếu để huy động vốn
cho công ty. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn cho doanh
nghiệp. Sau đây là một vài yếu tố cơ bản về việc phát hành và kiểm soát các loại cổ
phiếu khác nhau
a. Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thơng dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc
phát hành ra cơng chúng và trong q trình lưu hành trong thị trường chứng khoán. Cổ
phiếu thường là mặt hàng quan trọng nhất trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng

đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó với các cơng cụ tài chính khác.
Giới hạn phát hành: Mặc dù việc phát hành cổ phiếu có ưu thế so với các phương
thức huy động vốn khác nhưng cũng có những hạn chế và các ràng buộc cần được cân
nhắc kĩ lưỡng. Giới hạn phát hành là một quy định ràng buộc có tính pháp lí. Lượng
cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép.
Đây là một trong những quy định của Ủy ban chứng khoán nhà nước nhằm quản lí và
kiểm sốt chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại nhiều
nước, số cổ phiếu được phát hành được ghi trong điều lệ công ty, tuy nhiên tại một số
nước lại không quy định số lượng đó trong điều lệ cơng ty. Muốn tăng vốn cổ phần thì
trước hết cần phải được đại hội cổ đơng cho phép, sau đó phải hồn tất các thủ tục quy
định khác.
Hầu hết các nước sử dụng giới hạn phát hành như một công cụ quan trọng để kiểm
sốt và hạn chế rủi ro cho cơng chúng. Thơng thường, một cơng ty có thể phát hành


một lần hoặc một số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được phát hành. Tuy nhiên thì
việc quản lí và kiểm sốt q trình phát hành chứng khốn tùy thuộc vào chính sách
cụ thể của từng nước.
Sau khi phát hành ra thị trường thứ cấp, phần lớn các cổ phiếu nằm trong tay các
nhà đầu tư được gọi là cổ đông. Những cổ phiếu này được gọi là đang lưu hành trên
thị trường. Tuy nhiên có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của
mình và giữ nó nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu được công ty mua lại như vậy
được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Những cổ phiếu này được coi như tạm thời không lưu
hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc vào một số yếu tố như:
* Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư
* Tình hình biến động giá chứng khốn trên thị trường
* Chính sách đối với việc sát nhập hoặc thơn tính cơng ty(chống thơn tính)
* Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của ủy ban chứng khoán nhà
nước
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị trường được

gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế tốn của cơng ty
được gọi là giá trị ghi sổ, đó cũng chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành.
Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trên giấy phép
phát hành và trên sổ sách kế tốn của cơng ty. Tuy nhiên mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi
phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành.
Thị giá phản ánh sự đánh giá của thị trường đối với cổ phiếu, phảnh ánh lòng tin của
nhà đầu tư đối với hoạt động của công ty
Các cổ đơng nắm giữ cổ phiếu thường chính là những người sở hữu cơng ty, họ có
quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của cơng ty. Cổ
đơng có quyền tham gia kiểm sốt và điều khiển các cơng việc của cơng ty. Tuy nhiên
thơng thường có một số lượng cổ đơng của cơng ty, nên mỗi cổ đơng chỉ có một quyền
lực giới hạn nhất định trong việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên của ban giám đốc.
Một số công việc hay những vấn đề đặc biệt cần có sự nhất trí của đa số cổ đơng.
Tùy theo việc quy định trong điều lệ cơng ty, có thể hình thành các phương thức bỏ
phiếu khác nhau. Hai phương thức được sử dụng rộng rãi là bỏ phiếu theo đa số và bỏ
phiếu gộp.
Bỏ phiếu theo đa số là việc cổ đơng có thể dùng mỗi lá phiếu để bầu một người
quản lí, các chức danh sẽ được bầu riêng rẽ. Điều này rõ ràng có lợi cho những người
đang nắm đa số cổ phiếu của cơng ty vì họ có thể tạo áp lực mạnh hơn bằng số cổ
phiếu đang nắm giữ.
Cơ chế bỏ phiếu gộp cho phép cùng bỏ phiếu cho một ứng cử viên nào đó tức là
một số cổ đơng có thể dồn tồn bộ số phiếu có tring tay cho một ứng cử viên được ưa
chuộng. Đây là lí do tại sao một số các cổ đông thiếu ủng hộ cơ chế bỏ phiếu gộp.


Trong điều lệ công ty, quy định rõ về phạm vi những sự vụ cần được đa số (trên
50%) cổ đông tán thành và những vấn đề cần được tuyệt đại đa số (75% trở lên) cổ
đơng nhất trí.
Vấn đề chống thơn tính và bảo vệ cơng ty trước sự xâm lấn bằng cổ phiếu của các
công ty khác là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phai

xem xét đến nguy cơ thơn tính. Do đó phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì
để giữ vững quyền kiểm sốt của công ty.
b. Cổ phiếu ưu tiên
Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được
phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp.
Cổ phiếu ưu tiên có đăcn điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người chủ của cổ
phiếu ưu tiê có quyền được thanh tốn lãi trước các cổ đơng thường. Nếu số lãi chỉ đủ
để trả cổ tức cho các cổ đơng ưu tiên thì các cổ đơng thường sẽ khơng được nhận cổ
tức của kì đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ của công ty.
Phần lớn các công ty cổ phần quy định rõ: Cơng ty có nghĩa vụ trả hết số lợi tức
chưa thanh tốn của các kì trước cho cổ đơng ưu tiên, sau đó mới thanh tốn cho các
cổ đơng thường.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại khi công ty
thấy cần thiết. Những trường hợp như vậy cần quy định rõ những điểm sau:
 Trường hợp nào thi công ty có thể mua lại cổ phiếu
 Giá cả khi cơng ty mua lại cổ phiếu
 Thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ phiếu.
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên đó là thuế.
Khác với chi phí lãi vay được giảm khi tính thuế thu nhập cơng ty, cổ tức được lấy từ
lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ tức ưu tiên, mặc dù vậy, như đã đề cập, cổ
phiếu ưu đãi vẫn có nhiều ưu điểm với cả công ty phát hành lẫn nhà đầu tư.
2.4.4. Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu là một tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm:
trái phiếu chính phủ và trái phiếu cơng ty. Trái phiếu cịn được gọi là trái khốn. Một
trong những vấn đề cần phải được xem xét khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu
nào phù hợp nhất đối với điều kiện của cơng ty và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến các chi phí
trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi
quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu.
Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường có các loại trái phiếu cơng ty sau:

a. Trái phiếu có lãi suất cố định
Loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất, tức là loại phổ biến nhất trong
các loại trái phiếu của công ty. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và khơng
thay đổi trong suốt kì hạn của nó. Như vậy cả cơng ty và người giữ trái phiếu đều biết


rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại. Việc thanh toán lãi trái phiếu
cũng thường được quy định rõ.
Để huy động vốn trên thị trường trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái
phiếu. Tính hấp dẫn phụ thuộc các yếu tố sau:
- Lãi suất của trái phiếu: Người đầu tư luôn muốn được hưởng mức lãi suất cao.
Nhưng công ty phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thể chấp nhận được đối với
trái phiếu của họ chứ không thể trả thật cao như mong muốn của nhà đầu tư.
Lãi suất của trái phiếu phải được đặt trong tương quan so sánh với lãi suất trên thị
trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với trái phiếu của các cơng ty khác
và trái phiếu chính phủ.
- Kì hạn của trái phiếu: Đây là yếu tố rất quan trọng không những đối với công ty
phát hành mà cả đối với nhà đâu tư. Khi phát hành phải căn cứ vào tình hình thị
trường vốn và tâm lí dân cư mới có thể xác định kì hạn hợp lí
- Uy tín tài chính của cơng ty và mức độ rủi ro: Khơng phải cơng ty nào cũng có thể
thu hút được cơng chúng mua trái phiếu vì nhà đâu tư cần phải đánh giá uy tín cơng ty
thì mới quuyết định mua hay khơng mua. Các cơng ty có uy tín và vững mạnh thì dễ
dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn.
Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể liên
quan đến sức mua của dân chúng.
b. Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Tuy gọi là trái phiếu có lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ
thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng. Chẳng hạn như lãi suất LIBOR hoặc lãi
suất cơ bản.
Trong điều kiện mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có

thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo
theo sự giao động cuiả lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi
suất thích đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy, một số người ưa thích trái
phiếu thả nổi. Tuy nhiên, loại trái phiếu này có một vài nhược điểm sau đây:
- Cơng ty khơng biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó
khăn cho cơng việc lập kế hoạch tài chính.
- Việc quản lí trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải thông báo các lần
điều chỉnh lãi suất.
c. Trái phiếu có thể thu hồi
Một số cơng ty lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi, tức là cơng
ty có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định
ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Phải quy định rõ về thời hạn và
giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối
thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi.
Loại trái phiếu có thể thu hồi có những ưu điểm sau:
- Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần
thiết, cơng ty có thể mua lại các trái phiếu, tức là giảm số vốn vay.


- Cơng ty có thể thay trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác bằng cách
mua lại các trái phiếu đó.
Tuy nhiên, nếu khơng có những hấp dẫ nào đó thì trái phiếu này thường khơng
được ưa thích.
d. Chứng khốn có thể chuyển đổi
Các cơng ty, đặc biệt là cơng ty Mỹ, thường phát hành chứng khốn kèm theo
những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung sự chuyển đổi và lựa chọn cho
phép các bên có thể lựa chọn một cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. Một số loại
chứng khốn có thể chuyển đổi:
- Giấy bảo đảm: Người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ phiếu
thường được quy định trước với giá cả và thời gian xác định

- Trái phiếu có thể chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành
một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu giá trị của cổ phiếu tăng lên thì
người giữ trái phiếu có cơ mày nhận được lợi nhuận cao.
2.4.5 Nguồn vốn từ lợi nhuận tái đầu tư
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan
trọng của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp phát huy được nguồn lực của chính
mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngồi. Rất nhiều cơng ty coi trọng chính sách tái
đầu tư từ lợi nhuận giữu lại; họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lớn lợi nhuận
giữ lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại chỉ có thể được thực hiện nếu như cơng ty
đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, cho phép có thể tiếp tục tái đầu tư. Đối với các
doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc khong chỉ bản thân doanh nghiệp
mà cịn phụ thuộc chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các cơng ty cổ phần thì việc giữ lại lợi nhuận có liên quan đến
một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái
đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phiếu. Các cổ đông không
nhận được tiền lãi cổ phiếu nhưng bù lại, có có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên
của công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng
nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đơng nắm giữ cổ phiếu lâu dài,
nhưng mặt khác, lại dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời khì trước mắt,
do cổ đơng chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc
số lãi ròng khơng đủ gấp dẫ thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phương pháp cổ tức của công
ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:
- Tổng số lợi nhuận rịng trong kì
- Mức chia lãi cổ phiếu của các năm trước
- Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu cơng
ty, tâm lí đánh giá của cơng chúng về cổ phiếu đó



-

Hiệu quả của việc tái đầu tư.
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CỦA HUY ĐỘNG VỐN TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN

Thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thực trạng huy động vốn và phương thức huy động vốn của công ty cổ phần ở Việt
Nam hiện nay
3.1.1 Thực trạng về nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
Theo số liệu của tổng cục Thống kê, tính đến ngày 1/1/2009, cả nước có 205689
doanh nghiệp đang hoạt động với tổng số vốn là 6.335.827 tỷ đồng. Trong đó, doanh
nghiệp nhà nước chiếm 39.9% tổng vốn của các doanh nghiệp (2526050 tỷ đồng),
doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 43% (2.723.008 tỷ đồng) và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi chiếm 17.1% (1086769 tỷ đồng). Trung bình vốn của từng
doanh nghiệp là rất nhỏ, bình quân 30.8 tỷ đồng. Trong năm 2008, cả nước có 49918
doanh nghiệp đăng kí mới với tổng số vốn đăng kí đạt 1.507909 tỷ đồng, đạt 132% về
số lượng và 131.2% về vốn đăng kí so với năm trước. Qua 9 năm thi hành Luật doanh
nghiệp, đã có 170.758 doanh nghiệp đăng kí mới với tổng số vốn điều lệ đăng kí đạt
421,75 ngàn tỷ đồng. Đồng thời các doanh nghiệp cũng đăng kí bổ sung 207.43 ngàn
tỷ đồng vốn. Qua đó ta có thể thấy số vốn tự có của các doanh nghiệp tư nhân ngày
càng được gia tăng. Trong khi đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước đang
được cổ phần hóa, giảm tỉ lệ vốn đầu tư của nhà nước và bán lại các cổ phần cho
chính cơng nhân viên trong doanh nghiệp. Điều đó sẽ làm tăng sự gắn kết giữa các
công nhân viên và doanh nghiệp, tạo động lực để họ có thể lao động tốt hơn và có
nhiều đóng góp hơn cho doanh nghiệp.
3.1.2 Thực trạng nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp nước
ta. Các tổ chức tín dụng, đặc biệt là tổ chức tín dụng nhà nước hoạt động chủ yếu vẫn

là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 75-80% thị
phần cũng như tài sản của hệ thống ngân hàng.
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh tế hội
nhập. Điều đó đang đặt ra cho các chủ thể kinh doanh của nền kinh tế phải đối mặt với
những thách thức mới. Đó là làm thế nào để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh như vậy, hoạt
động tín dụng ngân hàng nổi lên như một mắt xích trọng yếu trong hoạt động của nền
kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có một vai trị quan trọng, với vị trí là trung gian
tài chính của nền kinh tế, thơng qua các nguồn lực xã hội được phân bổ sử dụng một
cách hợp lí và có hiệu quả. Thơng qua việc cung ứng nguồn vốn, tín dụng ngân hàng
có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt đang lúc chúng


ta đẩy nhanh lại quá trình xắp xếp lại và cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thì
vai trị của hoạt động tín dụng ngân hàng lại càng quan trọng hơn, nhất là trong bối
cảnh hiện tại khu vực mà vốn của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn hơn trong
tài sản của doanh nghiệp nhà nước, có trường hợp vốn tín dụng ngân hàng chiếm tới
80% tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khu vực kinh tế
tư nhân đang có xu hướng được các ngân hàng quan tâm. Năm 1995, khu vực kinh tế
tư nhâm chỉ mới nhận được vốn từ hệ thống ngân hàng là 18.198 tỷ đồng. Năm 1999,
lưu lượng vốn đại được là 44.873 tủ đồng, tăng 146% so với 1995; trong khi đó tín
dụng cho doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng 73%. Đến năm 1997,1998,1999 tỷ trọng
vốn tín dụng cho khu vực kinh tế từ nhân trong tổng số vốn tín dụng cho các khu vực
kinh tế khoảng 46% và từ năm 2000-2003, tỉ ttọng này đã tăng lên đáng kể (năm
Đây là một điểm đáng chú ý nếu như chúng ta nhớ rằng chỉ cách dây một vài năm,
doanh nghiệp nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng.
Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho
vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại. Nhưng từ năm 2004 đến nay, tình hình
đã khác, ước tính 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp cung ứng cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ là từ kênh ngân hàng. Nhưng theo định hướng của Chính phủ, đến

năm nay-2010, cả nước sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đi cùng với con số
này là một lượng vốn lớn cần đáp ứng. Trong các năm qua, lượng vốn mà các ngân
hàng thương mại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay chiếm bình quân 40% tổng dư
nợ, Theo đại diên các ngân hàng, đây là tủ lệ cao nhất từ trước tới nay, thậm chí có
những trường hợp chiếm từ 50%-60% tổng dư nợ như ngân hàng Công Thương Việt
Nam.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng tín dụng dành cho khối
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây cũng đã cho thấy những tín hiệu
khả quan: năm 2003 là 37,1%, năm 2004 là 20,18%, năm 2005 là 22%. Tuy nhiên
trong điều tra về thực trạng doanh nghiệp vưa fvà nhỏ do cục phát triển doanh nghiệp
(Bộ kế hoạch&đầu tư) công bố mới đây cho thấy chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho
biết có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn nhà nước(chủ yếu từ ngân hàng thương
mại), 35,24% doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp khơng tiếp cận
được. Như vậy khả năng tiếp cận vốn ngân hàng thương mại của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vẫn còn có nhiều hạn chế.
Ở Việt Nam hiện nay, theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy động vốn từ
các nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó chỉ
mới được ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người bán; ngay cả khi mua bán trả
chậm, các bên cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian và
số tiền trả chậm. Vì vậy, các khoản nợ đã không được xác nhận về mặt pháp lí và khó
chứng minh khi nảy sinh tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa, thậm chí mất


trắng tiền tỷ của các tiểu thương ở chợ đầu mối…Mặc dù quan hệ tín dụng thương
mại mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một quan hệ thực
tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng phải tới 1/7/2006 thì luật các cơng
cụ chuyện nhượng mới có hiệu lực, quan hệ này mới chính thức được pháp luật thùa
nhận. Đây được xem như một đông lực thúc đẩy sự phát triển thị trường mua bán nợ
nói triêng và thị trường tiền tệ nói chung.
3.1.3 Thực trạng nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu công ty

Huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp đang được rất nhiều
doanh nghiệp quan tâm hiện nay. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cổ
phần hóa đã phát hành thêm cổ phiếu mới để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Các
doanh nghiệp cổ phần khác cũng coi đây là một nguồn vốn vô cùng to lớn. Một số
doanh nghiệp đã tăng được vốn chủ sở hữu lên đáng kể khi sử dụng phương pháp phát
hành thêm cổ phiếu này. Theo như ghi nhận, nửa đầu năm 2010, rất nhiều doanh
nghiệp đã lựa chọn phương thức phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn. Một vài
điển hình như: Tập đoàn Hoà Phát (HPG) chia cổ phiếu thưởng cho cổ đơng với tỷ lệ
10:4. Hiện nay, tập đồn này có 132 triệu cổ phiếu niêm yết, tương đương với số vốn
điều lệ 1.320 tỷ đồng, sau khi chia cổ phiếu thưởng và hồn thành thủ tục niêm yết, sẽ
có thêm 52,8 triệu cổ phiếu sẵn sàng cho giao dịch trên thị trường chứng khốn. Cơng
ty cổ phần Hố An (DHA) chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông với tỷ lệ 10:3, với số cổ
phiếu phát hành thêm là 3,4 triệu cổ phiếu, nâng tổng số cổ phiếu lưu hành trên thị
trường lên khoảng 10 triệu. Bên cạnh đó DHA cũng bán cổ phiếu mới tăng vốn cho cổ
đông theo tỷ lệ 10: 2, tương ứng với 2,0 triệu cổ phiếu, với giá bán 40.000 đồng/cổ
phiếu, tương đương số tiền là 80 tỷ đồng.Cơng ty cổ phần khống sản Bình Định
(BMC) phát hành thêm cổ phiếu mới cho cổ đông với tỷ lệ được mua là 2:1, với giá
20.000 đồng/cổ phiếu. Công ty cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Thủ Đức phát
hành 5,0 triệu cổ phiếu, tương ứng 50 tỷ đồng để tăng vốn lên 100 tỷ đồng và chia cổ
tức năm 2007 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 10%. Công ty xi măng Bỉm Sơn (BCC) phát
hành 10 triệu cổ phiếu, trong đó bán cho cổ đơng với tỷ lệ 20:1, với giá bán 20.000
đồng/cổ phiếu; và chào bán rộng rãi ra công chúng theo phương thức đấu thầu với giá
khởi điểm là 35.000 đồng/cổ phiếu. Công ty cổ phần dược Hậu Giang phát hành 10
triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông, thời điểm thực hiện là 17/12/2007. Công ty cổ
phần Sông Đà 3 phát hành 6 triệu cổ phiếu bằng chia cổ tức, cổ phiếu và đấu giá. Bên
cạnh đó thì hàng loạt doanh nghiệp có quy mơ nhỏ hơn cũng phát hành cổ phiếu bằng
nhiều kênh khác nhau trong đợt này. Đó là chưa kể một số DN bán đấu giá phần vốn
Nhà nước: Công ty cổ phần bến xe tàu phà Cần Thơ và Công ty cổ phần năng lượng
kho ngoại quan Cawaco... Hàng loạt doanh nghiệp khác IPO và hàng loạt doanh
nghiệp khác phát hành cổ phiếu mới tăng vốn điều lệ, như Công ty TNHH một thành



viên chế tạo máy TKV... Tổng số vốn của 2 kênh này dự kiến thu hút cũng lên tới
7.000–10.000 tỷ đồng. Điều này có thể được lí giải bởi những lí do sau đây:
Thứ nhất, DN thực sự cần vốn để thực hiện các dự án mới và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Mặt khác, đối với các dự án rủi ro cao và kết quả lợi nhuận
không thực sự tốt thì DN cũng có xu hướng dùng vốn cổ phần nhiều hơn so với dùng
vốn nợ nhằm tăng tính an tồn về tài chính.
Thứ hai, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn với lãi suất chấp nhận
được từ ngân hàng trong thời gian qua đã làm cho kênh huy động vốn cổ phần được
ưu tiên hơn. Thực tế trong khoảng 4-5 tháng đầu năm, lãi suất cho vay của ngân hàng
ln duy trì ở mức cao, khoảng 17-18%. Để chấp nhận được mức lãi suất này thì
doanh nghiệp phải có được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận khoảng 25-30%, điều này là
rất khó thực hiện đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy mà tăng trưởng tín dụng tính đến
thời điểm tháng 8/2010 mới đạt 15%.
Thứ ba, cũng có những doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu chỉ để đảm bảo tỷ lệ
cân đối giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Khi doanh nghiệp đang có mức tỉ lệ nợ cao,
việc phát hành thêm sẽ làm giảm tỉ lệ này. Điều này giúp cho doanh nghiệp ln ở
trong trạng thái tài chính lành mạnh, giảm thiểu rủi ro thanh khoản cũng như nguy cơ
vỡ nợ từ nguồn vốn vay.
Theo đánh giá của Ủy ban Chứng khốn Nhà nước, quy mơ thị trường chứng khốn
Việt Nam 10 năm qua đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng
vai trị là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng. Trong suốt thời kỳ từ 2002 -2005,
mức vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã nhảy vọt
mạnh mẽ lên 22,7% vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% năm 2007.
Trước những biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền
kinh tế trong nước, mức vốn hóa của thị trường đã sụt giảm vào năm 2008. Năm 2009,
khi nền kinh tế phục hồi, chỉ số chứng khoán cũng đã tăng trở lại. Giá trị vốn hóa thị
trường cổ phiếu tính đến thời điểm cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP, ước tính đến
cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng 40 - 50% GDP. Dự kiến với việc tái cấu trúc thị trường

chứng khoán, trong tương lai 10 năm tới, giá trị vốn hóa của thị trường sẽ cịn tăng
mạnh, dự kiến khoảng 70% GDP.
3.1.4 Thực trạng phát hành trái phiếu cơng ty
Nhìn chung, thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta hiện nay chưua phát triển.
Tổ chức phát hành chủ yếu mới chỉ là các ngân hàng thương mại. Số doanh nghiệp
phát hành trái phiếu rất ít, tập trung ở những doanh nghiệp nhà nước có quy mơ lớn.
Dư nợ trái phiếu chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cơ cấu GDP (khoảng 11%).Thêm vào
đóm khung pháp lí quản lí việc phát hành tría phiếu vẫn cịn thiếu tồn diện, chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Nghị định


144/2003/NĐCP tuy đã được ban hành từ năm 2003 nhưng chi đến nay vẫn chưa thực
sự được áp dụng nhiều vào thực tế do: Tiêu chuẩn xác định việc phát hành trái phiếu
ra công chúng tuy đã được định lượng nhưng khó vận dụng và khơng phù hợp với
điều kiện thực tiễn Việt Nam, khả năng phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp bị
hạn chế do việc phát hành trái phiếu phải bắt buộc thực hiện theo phương thức bảo
lãnh phát hành thơng qua các cơng ty chứng khốn, trong khi mức bảo lãnh phát hành
của các công tuy chứng khốn lại bị giới hạn…
Vừa qua, chính phủ ban hành nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Về phương
diện chính sách, Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư được quốc hội thông qua năm 2005
đã cho phép các doanh nghiệp được phát hành trái phiếu để huy động vốn từ thị
trường. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới chỉ có quy định về việc phát hành trái phiếu
ra cơng chúng. Vì vậy, việc ta đời của nghị định 52/2006/NĐCP là một bước kiện toàn
hệ thống chính sách quản lí của Nhà nước, đảm bảo cho hệ thống chính sách tồn diện
hơn, hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện công khai, minh bạch hơn. Được
phép của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam (Agribank) đã là đơn vị đầu tiên phát hành trái phiếu dài hạn với tên
gọi trái phiếu Agribank với 2 thời hạn ban đầu là 10 năm và 15 năm. Thời hạn phát
hành trái phiếu Agribank tối đa là 60 ngày. Ngày phát hành trái phiếu là ngày 10/10

hằng năm. Trái phiếu Agribank được phát hành bằng đồng Việt Nam với khối lượng
3000 tỷ qua hình thức ghi sổ. Việc phát hành trái phiếu Agribank là bước đi đúng
hướng của Agribank nhằm đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, tăng thêm nguồn
vốn dài hạn đầu tư cho các dự án phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
tăng cường năng lực tài chính của mình. Tại cuộc Hội thảo Phát hành trái phiếu doanh
nghiệp tại Việt Nam được vụ Tài chính Ngân hàng - Bộ Tài chính tổ chức vào trung
tuần tháng 8/2007, ơng Trương Hùng Long - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Ngân hàng
cho rằng thị trường trái phiếu Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khai. Cơ cấu trái
phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn (chỉ chừng
10%, trong số đó chủ yếu là các tổng cơng ty lớn như Vinaconex, EVN, Vinashin,
Sơng Đà…), trái phiếu chính quyền địa phương chiếm khoảng 10% trong khi trái
phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu
tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có… Mặc dù từ năm 2006, thị
trường đã có bước phát triển mới với Nghị định số 52/2006/NĐ-CP mở rộng chủ thể
phát hành (bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước cịn có các công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi) nhưng dư nợ trái
phiếu doanh nghiệp/GDP mới chiếm khoảng 2%. Một quan chức của Citibank nhận
định, thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế do độ tin cậy của


phần lớn các doanh nghiệp đối với nhà đầu tư chưa cao, các trái phiếu chưa được định
hạn. Đối với thị trường nhỏ, các nhà đầu tư thường băn khoăn về tính thanh khoản.
Nếu như trái phiếu chính phủ có mức rủi ro thanh toán thấp, tạo được sự tin cậy thì
các nhà đầu tư lại tỏ ra khá dè dặt với trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu
Việt Nam chưa phong phú do số nhà phát hành nhỏ, số lượng trái phiếu phát hành còn
thấp nên nhà đầu tư có rất ít lựa chọn. Nhìn chung, sự tham gia của các nhà đầu tư
nước ngoài trong thị trường trái phiếu Việt Nam rất lớn (đơn cử trường hợp của
Vinashin, Lilama…). Cũng theo chuyên gia của Citibank, trong bối cảnh thị trường
trái phiếu Việt Nam còn sơ khai như hiện nay, một trong những việc cần làm là nâng
cao nhận thức về trái phiếu doanh nghiệp đối với các nhà quản lý tài chính trong các

doanh nghiệp cũng như nhận thức của các nhà đầu tư. Để phát triển thị trường trái
phiếu doanh nghiệp, trước hết phải nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu chính
phủ. Chỉ khi nào phát triển được thị trường trái phiếu chính phủ khi đó mới có thể
khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư đối với trái phiếu doanh nghiệp. Điều
này cịn có tác động tích cực tới cổ phiếu của chính các cơng ty đó. Do vậy, thị trường
trái phiếu chính phủ vẫn phải là bước khởi đầu.
3.1.5 Thực trạng nguồn vốn từ lợi nhuận tái đầu tư
Việc huy động vốn từ lợi nhuận khơng chia để lại vẫn cịn khá khiêm tốn. Thực tế
tại Việt Nam, do thị trường chứng khoán được thành lập rất muộn so với các nước, các
nhà đầu tư có kinh nghiệm và có trình độ cao rất ít, đa số vẫn là các nhà đầu tư ngắn
hạn. Nếu công ty cổ phần niêm yết khơng thanh tốn cổ tức thì lập tức sẽ có sự phản
ứng trên thị trường, giá cổ phiếu sẽ giảm. Bởi thông thường các nhà đầu tư sẽ cho
rằng sự sụt giảm về lợi nhuận sẽ kéo theo sự sụt giảm về cổ tức. Đó sẽ là tín hiệu xấu
cho thấy trong tương lai cơng ty sẽ gặp nhiều khó khăn, khi đó các nhà đầu tư sẽ ồ ạt
bán cổ phiếu đi, việc này sẽ khiến cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp sụt giảm. Vì
vậy, doanh nghiệp vẫn phải dành phần lớn lợi nhuận không chia để thực hiện việc chi
trả cổ tức bằng tiền mặt cho các nhà đầu tư. Do đó việc huy động vốn từ lợi nhuận
không chia của các doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn đang bị xem nhẹ.

3.2 Đánh giá thực trạng
3.2.1 Thành tựu đạt được
Mức vốn đăng kí bình qn của doanh nghiệp ngày một tăng. Nếu như trong thời kì
1991-1999, vốn đăng kí bình qân một doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng thì đến năm
2002 đã là 1,8 tỷ đồng. Luật doanh nghiệp được đưa vào thực hiện đã mang lại một số
thành tựu to lớn sau đây:
Bước đầu đã thu hút được vốn từ việc hát hành cổ phiếu và trái phiếu cơng ty.
Chính phủ đã ban hành những quy định rõ ràng hơn về việc phát hành cổ phiếu&trái
phiếu doanh nghiệp. Luật chứng khốn được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực từ



1/1/2007 đã tạo khung hành lang pháp lí thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu của các
doanh nghiệp. Như nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã
mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp, khuyến khích các doanh
nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ mục tiêu đầu tư
phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mơ vốn tự có.
Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của cá doanh nghiệp
nước ta. Hoạt động chủ yếu của các Tổ chức Tín dụng vẫn là huy động và cho vay với
các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm từ 75%-80% thị phần cũng như tài sản của
hệ thống ngân hàng. Một số ngân hàng có chiến lược rõ ràng hướng về khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ, mỗi ngân hàng đã dành một lượng vốn nhất định để cho khu vực
doanh nghiệp này vay. Một số ngân hàng cũng đang thay đổi chế dộ cho vay đối với
doanh nghiệp vừa& nhỏ, có sự linh hoạt hơn, thích hợp hơn với cơ chế thị trường.
Trong hai năm gần đây, số vốn mà các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp
vừa&nhỏ vay chiếm bình quân 40% tổng dư nợ. Theo đại diện các ngân hàng, đây là
tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay; thậm chí có những trường hợp chiếm từ 50-60% tổng
dư nợ như ở ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Tính đến nay với hơn chục cơng ty cho thuê tài chính, trên 500 nhân viên chuyên
nghiệp, vốn tự có trên 900 tỷ đồng và vốn đầu tư trên 3000 tỷ đồng, hoạt động cho
thuê tài chính đã đảm bảo nộp ngân sách, có lãi và góp phần hỗ trợ tích cực trong việc
cung cấp các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Mặc dù ra đời chưa lâu nhưng hoạt động cho thuê tài chính của chúng ta
đã có những bước phát triển đáng kể. Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn
trung và dài hạn quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu tạo điều kiện thu hút vốn
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô
hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc
qua các năm.
Có một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động kinh doanh của mình, các
cơng ty cho th tài chính thường khơng có sự phân biệt đối xử với các thành phần
kinh tế khác nhau, đối tượng cho th tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp ngồi
quốc doanh; các doanh nghiệp đi thuê còn được hưởng lợi lích từ các thành tựu khoa

học kĩ thuật tiên tiến; được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí và những thông tin cần
thiết khác từ những nhà cung cấp dịch vụ.
Theo đánh giá chung thì hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã dần
mở rộng quy mô với đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số
cho thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động cho thuê tài chính tương đối tốt, tỉ
lệ nợ quá hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước… Tuy nhiên,
các công ty cho thuê tài chính hiện nay nguồn vốn huy động cịn ít, hoạt động cịn rải
rác chủ yếu là ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thêm vào đó thị trường mua bán


máy móc, thiết bị cũ chưa phát triển cũng như chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
3.2.2 Tồn tại và nguyên nhân
Mặc dù có tiến bộ về tăng trưởng , chuyển dich cơ cấu và hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở một số mặt được nâng lên, song so với yêu cầu của chiến lược phát triển kinh
tế đến năm 2010 và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế, thì doanh nghiệp nước ta bộc lộ
nhiều yếu kém bất cập.
Khoảng 90% trong số các doanh nghiệp hiện hữu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn
bình quân của một số doanh nghiệp chưa đạt 10 tỷ đồng, tổng số vốn điều lệ của các
doanh nghiệp chỉ ở mức 6.335.827 tỷ đồng, tức là chỉ tương đương tập đồn đa quốc
gia cỡ trung bình trên thế giới-như một số chuyên gia kinh tế đã đánh giá.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mặc dù đã phát triển nhanh chóng nhưng vẫn
chưa đầy đủ, chưa chở thành kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Một số
công ty vẫn không muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong khi ở các nước
khác, đây là một vinh hạnh lớn, phải phấn đấu trong thời gian dài mới có đủ điều kiện
niêm yết. Ngun nhân chính của hiện tượng này liên quan đến lợi ích của cơng ty khi
niêm yết và khơng niêm yết. Nghịch lí ở Việt Nam là: Quyền niêm yết đem lại cho
công ty cổ phần khi niêm yết kém quyền lợi mà họ mất đi khi tham gia niêm yết. Đó
là khi khơng tham gia niêm yết khơng cần kiểm tốn hằng năm, khơng tốn phí kiểm
tốn, khơng cần cơng bố thơng tin và dễ trốn thuế hơn… Tuy nhiên những cái gọi là

”ưu điểm” khi khơng tham gia niêm yết chỉ có thể có trong thời điểm giao thời, lúc
tranh tối tranh sáng, và khơng hồn tồn bền vững khi nhà nước có những biện pháp
quản lí chặt chẽ hơn.
Nhà đầu tư thiếu thơng tin, giao dịch chứng khốn qua mạng mới bắt đầu được đầu
tư, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Giao dịch chứng khốn qua mạng là một hình thức phổ
biến hiện nay trên thế giới. Ở nước ta hình thức này cũng mới bắt đầu xuất hiện nhưng
cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đàu tư. Sau 10 năm đi vào hoạt
động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút hàng ngàn nhà đầu tư và tổ chức
tham gia giao dịch. Hầu hết là tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh. Doanh nghiệp chưa có phương tiện hiệu quả để truyền tải thơng tin đến
các nhà đầu tư. Thực tế là đa số các công ty niêm yết chưa sử dụng website để làm
công cụ của riêng mình để truyền tải thơng tin đến nhà đầu tư. Thông tin chưa được
lưu trữ, thông kê và sắp xếp để phục vụ cho mọi đối tượng đầu tư. Nguyên nhân của
tình trạng này là do: Các quy định pháp lí chưa được cải thiện, nội dung bắt buộc công
bố chưa bao hàm hết các vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm, các công ty niêm yết chưa
chú trọng tới khâu thông tin và quan hệ với nhà đầu tư, Thực trạng này gây ra hậu quả
là:


- Các nhà đầu tư mới rất khó khăn trong viêc tìm hiểu về doanh nghiệp vì mất thời
gian trong việc thu thập thông tin
- Hiện này các trang web về chứng khốn cịn thiếu thơng tin bằng tiếng Anh, vì thế
rất hạn chế cho các nhà đầu tư nước ngồi nào muốn có cơ hội tiếp cận các nguồn
thơng tin.
Việc phát hành chứng khoán mới ra thị trường nước ngoài đang ở giai đoạn thử
nghiệm. Bởi các chuẩn mực kế tốn Việt Nam vẫn cịn q nhiều khác biệt so với các
chuẩn mực kế toán thế giới, muốn niêm yết cổ phiếu ở các nước khu vực và xa hơn
nữa là tồn cầu thì buộc lịng các doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển đổi các báo cáo
tài chính và hàng loạt các báo cáo quản trị nội bộ khác theo u cầu của thị trường
trong khi đó thì các nguồn nhân lực của Việt Nam khơng đủ, cịn nếu th các cơng ty

tư vấn thì sẽ phải gánh chịu chi phí hết sức nặng nề.
Vẫn cịn tồn tại sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà
nước với doanh nghiệp phi nhà nước, doanh nghiệp nhà nước thì dễ vay ngân hàng
hơn. Về mặ quan điểm nhận thức thì đại hội đang lần IX đã khẳng định thành phần
kinh tế tư nhân được tồn tại và phát triển lâu dài. Nhưng trong thực tế thì quan điểm
này chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Điều này thể hiện ở chỗ trong công
vệc hằng ngày vẫn có sự phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân, vẫn có cái nhìn
khơng thiện cảm với khu vực này. Người ta vẫn ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước
từ lĩnh vực kinh doanh, tài chính cho đến tín dụng, ngân hàng và các vấn đề khác.
Trong kinh doanh, còn nhiều lĩnh vực kinh tế tư nhân không được lầm như kinh tế nhà
nước. Về vốn, việc tiếp cận đến nguồn vốn của khu vực tư nhân cịn nhiều khó khăn,
nhất là vốn vay ưu đãi.
Hiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm lực tài chính nhỏ, bình qn số vốn của
doanh nghiệp chỉ là 1,8 tỷ đồng. Bên cạnh đó, việc tiếp cận với các nguồn tài chính từ
các tổ chức tín dụng của các doanh nghiệp tuy đã được cải thiện nhưng vân cịn nhiều
khó khăn. Tỷ lệ cá danh nghiệp vừa và nhỏ được vay vốn ngan hàng chỉ khoảng 57%
nhưng lượng vốn vay không nhiều và thời gian cũng như thủ tục cịn khá phức tạp.
Khơng chỉ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với các doanh nghiệp lớn cũng khó khăn
khơng kém, nhất là vay dưới hình thức đảm bảo nợ vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay.
Định giá tài sản doanh nghiệp chưa tốt. Tài sản của doanh nghiệp thường bị định
giá thấp hơn giá trị thực tế. Doanh nghiệp vay được ít hơn và ảnh hưởng đến các quyết
định của doanh nghiêpk. Các doanh nghiệp cần vốn khơng đủ điều kiện vay vốn, khó
có thể tiếp cận được với nguồn vốn này.
Theo đánh giá chung thì hoạt động cho th tài chính trong thời gian qua đã dần
mở rộng quy mô với đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng. Tuy vậy, vẫn còn
tồn tại những vấn đề sau:



×