HỌC VIỆN CƠNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THƠNG
BỘ THƠNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN THÀNH TÍCH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
Thành viên nhóm:
Lê Hồnh Thái
N18DCQT056
Lê Trí Thức
N18DCQT064
Lê Xn Thái
N18DCQT057
Bùi Văn Phương
N18DCQT050
Nguyễn Thị Kim Phượng
N18DCQT051
Phan Nguyễn Hồng Quang N18DCQT053
Huỳnh Đắc Phú
N18DCQT048
Giáo viên hướng dẫn: Trần Thị Khánh Li
Mục lục
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Lý do chọn đề tài
- Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất
nước, phấn đấu tới năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp hố
theo hướng hiện đại. Điều đó địi hỏi một lực lượng tri thức trẻ có chun mơn và
năng lực làm việc cao.Và sinh viên không ngừng nỗ lực học tập, trau dồi vốn kiến
thức để có thể chủ động trong việc lựa chọn nghề nghiệp và hướng đi phù hợp cho
bản thân sau khi tốt nghiệp, góp phần xây dựng đất nước lớn mạnh.
- Một thực tế hiện nay xảy ra trong nhiều trường đại học trên cả nước: Như
chúng ta đã biết, môi trường học tập trong đại học địi hỏi phải có sự tự giác, nỗ lực
cá nhân rất lớn, đăc biệt là hình thức đào tạo theo tín chỉ. Tuy nhiên, nhiều sinh
viên hiện nay vẫn khơng đạt được kết quả mong muốn mặc dù có chăm chỉ, có thể
do phương pháp học của họ chưa thực sự đúng đắn. Thực tế khác cho thấy, sinh
viên đại học sau khi ra trường muốn tìm được một công việc làm đúng chuyên
ngành, lương cao và ổn định thì rất khó với tấm bàng trung bình và cơ hội cao hơn
khi họ có đươc những tấm bằng cao hơn.
- Với những người còn ngồi trên ghế nhà trường nói chung và sinh viên nói
riêng thì điểm trung bình học tập là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá kết quả học
tập của sinh viên sau mỗi kỳ học. Kết quả của mỗi kỳ sẽ quyết định xem sinh viên
có bị buộc thơi học hay khơng, xếp loại học lực gì và tấm bằng mà họ đạt được sau
khi kết thúc chương trình đào tạo của nhà trường.
- Đứng trước thực tế đó, chúng em đã chọn nghiên cứu chủ đề: “CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục đích tổng quát:
- Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu cái yếu tố tác động đến thành tích học tập
của sinh viên. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về việc thay đổi thói
quen học tập giúp nâng cao điểm số, cái thiện thành tích.
Mục đích cụ thể:
- Xác định các yếu tố tác động đến thành tích học tập của sinh viên hiện nay.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố.
1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Sinh viên các trường đại học.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian mẫu: Khảo sát 230 bạn sinh viên, đã thu lại được kết quả phản hồi.
Trong đó, có 220 kết quả trả lời đúng theo yêu cầu khảo sát.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm thực hiện tiến hành khảo sát online bằng (Google form) các bạn sinh
viên.
Nhóm đã tiến hành thu thập thơng tin, thiết lập mơ hình hồi quy, ước lượng
khoảng tin cậy, kiểm định mơ hình, thống kê dựa trên số mẫu quan sát thu thập
được.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm đã sử dụng kiến thức Kinh tế lượng với
sự hỗ trợ của các phần mềm: Word, Excel, Eviews 8/10 để hoàn thành bài báo
cáo.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Biến độc lập định lượng:
Tên
Diễn
giải
Đơn vị tính
Kì vọng Giả
đầu
thuyết
X1
Thời gian
tự học
Giờ/ngày
+
X2
Thời gian
giải trí
Giờ/ngày
-
X3
Thời gian
học nhóm
Giờ/tuần
+
Thời gian tự
học nhiều
thì
thành
tích cao
Thời gian
giải
trí
nhiều
thì
thành tích
kém
Thời gian
học nhóm
nhiều
thì
X4
Thời gian
bắt đầu ơn
thi
Ngày
+
X5
Chi
phí
mua
tài
liệu trong
một kì
Trăm nghìn đồng
+
thành tích
cao
Thời gian
ơn thi nhiều
thì
thành
tích cao
Tiền chi cho
tài liệu cao
thì
thành
tích cao
Biến độc lập định tính:
Tên
Diễn giải
Lựa chọn
0
1
Kì vọng
dấu
Giả thuyết
D1
Áp lực từ gia
đình, bạn bè
Khơng
Có
-/+
Có áp lực từ gia đình thì thành
tích cao
D2
Đi làm thêm
Khơng
Có
+/-
Có đi làm thêm thì thành tích
kém
2.1. Thời gian tự học
- Hoạt động tự học của sinh viên có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi nào
sinh viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các hoạt
động tìm tịi, khám phá tự giác, đứng trước mọi hiện tượng của thế giới khách quan
là khi đó họ đang tiến hành tự học. Tự học Đại học là một trong những hình thức tổ
chức dạy học cơ bản có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng
có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao
gồm toàn bộ những cơng việc học tập do cá nhân và có khi do tập thể sinh viên tiến
hành ngồi giờ học chính khoá hoặc do bản thân sinh viên độc lập tiến hành ngay
trong giờ chính khố như: Đọc sách ghi chép theo cách riêng, làm bài tập, tham gia
các hoạt động thực tế…
- Như vậy cốt lõi của học tự học và khi xem xét đến mối quan hệ giữa dạy và
học thì dạy chỉ là ngoại lực, cịn tự học là nhân tố quyết định đến bản thân người
học – nội lực. Thời gian tự học của sinh viên ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học tập
của bản thân. Việc bỏ thời gian nhiều cho việc tự học sẽ giúp làm tăng được kết quả
học tập và ngược lại.
X1+: Thời gian tự học có tác động đồng biến đến biến số thành tích.
2.2. Thời gian giải trí
- Các hoạt động vui chơi, giải trí tiêu biểu thường thu hút đơng đảo bạn trẻ
tham gia là thể thao, du lịch, âm nhạc, điện ảnh... Sinh viên tham gia các loại hình
này với tư cách là một cá nhân trong xã hội, họ khơng bị ràng buộc, gị bó trong các
quy tắc, luật lệ của không gian sư phạm, học thuật trong nhà trường. Tại đây, các
bạn trẻ có thể thoải mải, vui vẻ, nghỉ ngơi, hưởng thụ. Các hoạt động vui chơi, giải
trí này có thể xuất hiện ở từng cá nhân hoặc có sự tham gia của một nhóm bạn, nó
khơng chỉ thỏa mãn nhu cầu vui chơi mà cịn đáp ứng được nhu cầu giao tiếp, xây
dựng và mở rộng các mối quan hệ. Loại hình này có thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi.
- Như vậy việc giải trí có ảnh hưởng đến kết quả học tập. Những người có điểm
số cao thường có thời gian giải trí thấp hơn người có kết quả học tập thấp. Xu
hướng của người có kết quả cao là dành thời gian nhiều cho việc “tự học” hơn là
“giải trí.
X2-: Thời gian giải trí có tác động nghịch biến đến biến số thành tích.
2.3. Thời gian học nhóm
- Nếu như tự học giúp mình chủ động mọi mặt cả về thời gian, kiến thức và lịch
học thì một trong những cách khắc phục điểm yếu cá nhân, tăng hiệu suất học tập
đó chính là học theo nhóm. Thực chất của việc học nhóm là để những bạn học tốt
giúp đỡ những bạn học yếu hơn, mỗi thành viên đóng góp và giúp đỡ nhau để cùng
đạt được một mục đích chung. Đây chính là một mơi trường lý tưởng để rèn luyện
kỹ năng làm việc theo nhóm (team work skill) mà sẽ rất cần cho các bạn trong cuộc
sống sau này. Những lợi ích của hình thức học theo nhóm mang lại cụ thể như sau:
Thứ nhất, giảm sự linh động về mặt thời gian, do phải phụ thuộc vào các thành
viên khác, dễ bị phân thâm, chi phối bởi mơi trường xung quanh. Nhiều bạn
nghĩ rằng học nhóm sẽ rất thoải mái vì nó là hình thức vừa học vừa chơi, vừa
học vừa nói chuyện, "tạt ngang tạt ngửa" bàn chuyện này chuyện khác…Điều
ấy đang làm hao tốn thời gian của bạn một cách vơ ích.
Thứ hai, học lệch trọng tâm. Đơi khi những người bạn trong nhóm khơng có
kiến thức như bạn, họ muốn dành nhiều giờ nghiên cứu một chủ đề mà bạn đã
biết rõ trong lịng bàn tay. Khác với tự học, bạn hồn tồn có thể tập trung vào
những chủ đề mà bạn chọn và dành ít thời gian hơn cho những kiến thức bạn đã
làm chủ được. Điều này có nghĩa là bạn có thể dùng thời gian của mình một
cách khơn ngoan hơn.
Thứ ba, hiệu quả không cao đối với những môn học cần sự yên tĩnh để ghi nhớ.
Nhiều sinh viên với khả năng tập trung cịn khơng cao, họ khó ghi nhớ mọi thứ
nếu khơng có khơng gian n tĩnh. Và học nhóm sẽ khơng phù hợp cho những
người như thế.
X3+: Thời gian học nhóm có tác động đồng biến đến biến số thành tích.
2.4. Thời gian ơn thi
Nên bắt đầu ôn thi từ khi nào? Như vậy tiến trình ơn thi sẽ trải qua 3 giai đoạn.
Tùy theo năng lực và khả năng ghi nhớ kiến thức của mỗi bạn mà thời gian cần
dành ra cho các giai đoạn sẽ khác nhau. Với những bạn có học lực tốt, khả năng ghi
nhớ kiến thức nhanh thì chỉ cần khoảng 1 - 2 tuần để hoàn thành các giai đoạn của
tiến trình ơn thi cuối kì. Tuy nhiên với những bạn học lực trung bình hoặc yếu kém
và khơng có khả năng ghi nhớ kiến thức nhanh thì có thể mất khoảng 3 - 4 tuần.
Sau khi biết mình nên ôn thi từ khi nào, bạn nên lưu ý một số những vấn đề sau để
có thể ơn luyện thật tốt:
Ngay từ khi bắt đầu học kì mới nên chú tâm vào các bài giảng trên lớp để
không mất nhiều thời gian ôn tập lại.
Không nên chủ quan và nhảy cóc giai đoạn trong tiến trình ơn thi.
Không nên ôn tổng hợp quá sớm khi chưa nắm chắc các kiến thức cơ bản cũng
như cách giải các dạng bài tập vì sẽ dễ bị xáo trộn kiến thức.
X4+: Thời gian bắt đầu ơn thi có tác động đồng biến đến biến số thành
tích.
2.5. Chi phí mua tài liệu trong một học kì
- Sinh viên phải tự mình chuẩn bị bài, nghiên cứu nội dung bài học, tìm tịi tài
liệu. Việc tìm tài liệu cũng gây khơng ít khó khăn cho sinh viên. Bởi có quá nhiều
nguồn tài liệu khác nhau, mỗi tài liệu lại nêu những quan điểm khác nhau về cùng
một vấn đề khiến sinh viên nhầm lẫn và sai sót. Điều này ảnh hưởng rất lớn đối với
việc học.
- Mỗi học kì có trên dưới 10 mơn, mỗi mơn cần 1 quyển giáo trình chính và 2-3
quyển tham khảo. Trong đó, trung bình 30-40 ngàn đồng cho mỗi giáo trình, sách
tham khảo tiếng Việt từ 40-80 ngàn đồng, tiếng Anh thì giá cao hơn. "Tính cả sách
gốc lẫn sách photo là hơn cả triệu bạc.
- Việc sinh viên đầu tư nhiều vào chi phí tài liệu đồng nghĩa với việc quan tâm
đến lượng kiến thức được học ở mỗi mơn.
X5+: Chi phí mua tài liệu trong một kì tác động đồng biến đến biến số
thành tích.
2.6. Áp lực từ gia đình, xã hội
- Chỉ ra một thực tế hiện nay, học sinh căng thẳng chuyện học hành, thi cử, TS
Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội cho rằng: “Chuyện áp
lực học hành như đã trở thành quy luật chung, thầy cơ, cha mẹ nào cũng muốn tốt
cho học trị nhưng nó có những vấn đề đi theo dẫn đến những khủng hoảng tâm lý
cho học sinh. Học sinh phải tìm đến con đường tự tử chắc chắn bản thân em đó phải
có những bức xúc, nên chọn cách này để giải thoát và coi đây là cách tốt nhất để
thoát khỏi những áp lực”.
- Nếu nhìn vào lịch học của một học sinh từ Tiểu học cho tới bậc Đại học,
nhiều người phải lắc đầu ngao ngán. Trong khi bố mẹ đi làm chỉ có 8 tiếng/ngày đã
mệt mỏi, căng thẳng, nhưng với khơng ít em học sinh thì phải đi học từ tinh mơ đến
khi đỏ đèn mới về tới nhà. Mọi thứ sinh hoạt của các em đều chỉ ở mức “ăn tranh
thủ, ngủ khẩn trương” bởi lịch học đang chờ đón khơng chỉ ở trường mà cịn tại các
lớp học thêm, ngoại khóa. Đối với những học sinh cuối cấp, ngồi thời gian tăng
cường ơn tập là chạy “sơ” hết chỗ này tới chỗ kia để ôn thi, luyện thi.
- Cũng theo TS Nguyễn Tùng Lâm, học sinh tự tử và để lại thư tuyệt mệnh do
không đáp ứng được kỳ vọng của bố mẹ, khiến người lớn rất đau lịng. Bố mẹ nào
cũng có kỳ vọng vào con cái, nhưng hãy ít thơi và ln phải đồng hành, lắng nghe,
hỗ trợ con. Hãy hiểu cho những nỗi niềm của con, đừng đặt mục tiêu con phải vào
trường điểm, trường đại học “tốp trên”, mà hãy động viên con cố gắng, nếu khơng
đạt được vẫn có những lựa chọn khác phù hợp hơn... Đừng để khi xảy ra việc mới
thấy hối hận, giá như không trách mắng, đặt nặng kỳ vọng vào con.
D1+: Áp lực từ gia đình có tác động đồng biến đến biến số thành tích
2.7. Đi làm thêm
- Sinh viên đi làm thêm nên hay không, tại sao nhiều người lại khuyên sinh
viên không nên đi làm thêm. Tác hại của việc làm thêm mang lại là gì. Thực tế,
việc sinh viên đi làm thêm sẽ mang lại những mắt tốt và hại riêng. Và trong bài viết
này chúng tôi sẽ chỉ ra đầy đủ : Tác hại của việc đi làm thêm là gì, lợi ích của làm
thêm mang lại.
Thứ nhất, sinh viên đi làm thêm sẽ bị dễ đồng tiền, tệ nạn xã hội lôi kéo. Nhất
là con trai, tại sao vậy? bởi đi làm có tiền các em sẽ bị những bạn bè xấu rủ rê ,
tham gia những hoạt động không lành mạnh như nghiện game, cờ bạc, lô đề,
ma túy,..
Thứ hai, các trung tâm giới thiệu việc làm sinh viên chỉ chú trọng đến tiền,kinh
tế , lợi nhuận đem lại mà không chú trọng đến lợi ích cho sinh viên. Đã có biết
bao nhiêu trung tâm mua giới ăn tiền của sinh viên, trung tâm mua giới lừa đào.
Hay giới thiệu những công việc phù hợp với việc học tập của sinh viên. Vì vậy,
đa số sinh viên làm thêm đều làm những công việc chân tay, không mang lại
những kinh nghiệm bổ ích cho việc học của mình.
Thứ ba, vì tập trung làm thêm, kiếm tiền mà các em quên đi việc học. Mệt mỏi
vì cơng việc làm cho các em khơng tập trung bài giảng trên lớp , thậm chí ngủ
gật, mất ngủ. Gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của bản thân. Thậm
chí, có nhiều bạn sinh viên còn nghỉ học đi làm thêm. Đến ngày thi không đủ
điều kiện thi, bắt buộc các bạn phải học lại
D2-: Làm thêm có tác động nghịch biến đến biến số thành tích
2.8. Thiết kế bảng khảo sát
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Mức độ ảnh hưởng của biến độc lập lên biến phụ thuộc
Từ bảng số liệu “Các yếu tố tác động đến điểm trung bình hệ số 4 của sinh
viên” ta có:
Căn cứ vào Kết quả hồi quy từ bảng ta được:
= 2.459674
= 0.017462
= 0.061022
= 0.054584
= -0.068498
= 0.186934
= 0.22215
= -0.369256
Phương trình hồi quy tuyến tính mẫu cần tìm là:
= 2.459674 + 0.061022 – 0.068498 + 0.22215 + 0.017462 + 0.054584 +
0.186934 - 0.369256
3.2. Kiểm định sự phù hợp của mơ hình với mức ý nghĩa α = 5%:
: R2 = 0: Mơ hình khơng phù hợp.
: > 0: Mơ hình phù hợp.
Theo kết quả hồi quy bảng 1 ta có : Prob(F-statistic) = 0,000 < 0.05 Bác bỏ .
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, mơ hình phù hợp.
3.3. Kiểm định ý nghĩa thống kê của các tham số:
Kiểm định :
H0: = 0: Không có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X1 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X1 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1 ta có: Prob = 0,00142 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến X1 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X2 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X2 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1 ta có: prob = 0,0081 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến X2 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X3 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X3 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1ta có: prob = 0,000 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến X3 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X4 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X4 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1 ta có: prob = 0,000 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến X4 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X5 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X5 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1 ta có: prob = 0,0097 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến X5 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X6 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X6 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi quy Bảng 1 ta có: prob = 0,0009 < 0,05 Bác bỏ H0.
Vậy với mức ý nghĩa α = 5%, biến D1 có ý nghĩa thống kê trong mơ hình.
Kiểm định :
H0: = 0: Khơng có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X7 của hệ số và Y.
: 0: Có mối liên hệ tuyến tính giữa biến X7 của hệ số và Y.
Theo kết quả hồi Bảng 1 ta có: prob = 0,000 < 0,05 Bác bỏ H0.
Theo như kết quả khảo sát thì các biến X1, X2, X3, X4, X5, D1, D2 có ý nghĩa thống
kê trong mơ hình. Vì vậy, điểm trung bình của sinh viên bị ảnh hưởng bởi các yếu tố:
thời gian học, thời gian giải trí, thời gian học nhóm, thời gian bắt đầu ơn thi, chi phí sử
dụng mua tài liệu trong 1 học kì, áp lực từ gia đình, đi làm thêm.
Vậy, ta có phương trình hồi quy tuyến tính mẫu là:
= 2.459674 + 0.061022 – 0.068498 + 0.22215 + 0.017462 + 0.054584 +
0.186934 - 0.369256
Ý nghĩa các hệ số trong mơ hình
Β1 = 0.061022 : Khi tăng (giảm) 1 giờ tự học/ngày với điều kiện các đại lượng
khác không đổi thì điểm trung bình trung bình tăng (giảm) 0.061022
Β2 = – 0.068498: Khi tăng (giảm) 1 giờ giải trí/ngày với điều kiện các đại
lượng khác khơng đổi thì điểm trung bình giảm (tăng) 0.068498
Β3 = 0.22215: Khi tăng (giảm) 1 giờ học nhóm/tuần với điều kiện các đại
lượng khác khơng đổi thì điểm trung bình tăng (giảm) 0.22215:
Β4 = 0.017462: Khi tăng (giảm) 1 ngày ôn thi với các điều kiện khác khơng đổi
thì điểm trung bình sẽ tăng (giảm) 0.017462
Β5 = 0.054584: Khi tăng (giảm) 100 trăm nghìn tiền chi phí mua tài liệu ơn thi
với các điều kiện khác khơng đổi thì điểm trung bình cũng sẽ tăng (giảm) 0.054584
Β6 = 0.186934: Với các điều kiện khác không đổi, áp lực từ gia đình cao thì
điểm trung bình sẽ tăng lên 0.186934 điểm so với sinh viên không bị ảnh hưởng tới áp
lực
B7=-0.369256: Với các điều kiện khác khơng đổi. Khi sinh viên đi làm thêm
nhiều thì điểm sẽ thấp hơn 0,369256 điểm so với sinh viên không đi làm thêm
Ý nghĩa của R2:
Căn cứ bảng trên ta được: R2 = 0.546674
Cho biết rằng biến thời gian học, thời gian giải trí, thời gian học nhóm, thời gian bắt
đầu ôn thi, chi phí sử dụng mua tài liệu trong 1 học kì, áp lực từ gia đình ,đi làm thêm
đã giải thích được 54.6% sự biến động của biến Y( điểm trung bình)
3.4. Kiểm tra đa cộng tuyến
Ta được bảng sau:
Từ bảng số liệu trên, thấy các hệ số tương quan của các cặp biến đều <0.5
khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến không lớn.
Cặp biến X3, X4 có hệ số tương quan lớn nhất (0.32807) tiến hành kiểm tra
xem có hiện tượng đa cộng tuyến hay không.
Kiểm tra đa cộng tuyến cặp biến X3, X4 bằng cách chạy mơ hình hồi quy phụ
với hai biến X3, X4
Ta được bảng sau:
Kiểm tra đa cộng tuyến giữa X3 và X4 bằng cách tính nhân tử phóng đại
phương sai VIF với:
VIF = 1 / (1 - R2) = 1 / (1 – 0.107630) = 1,120611 < 10 đa cộng tuyến giữa
cặp biến X3, X4 là không đáng kể và không ảnh hưởng đến mơ hình.
3.5. Kiểm định Phương sai sai số thay đổi (White)
Ta thấy rằng Prob. Chi-Squared = 0.0620> 0.05 mô hình khơng có hiện tượng
PSSSTĐ.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
4.1. Đóng góp đề tài
Qua cuộc khảo sát, thu thập số liệu và phân tích nhóm em cho rằng:
Thời gian tự học có ảnh hưởng tới kết quả học học tập của sinh viên vì thời
gian học càng nhiều thì thành tích sẽ càng cao.
Thời gian giải trí có ảnh hưởng xấu tới kết quả học tập của sinh viên vì nếu giải
trí q nhièu thì thời gian học sẽ ít đi.
Thời gian học nhóm có ảnh hưởng tói thành tích học tập của sinh viên vì khi
học nhóm nhiều thì các sinh viên trao đồi kiến thức cho nhau làm cho kiến thức
của cá nhân sẽ rộng hơn.
Thời gian bắt đầu ơn thi có ảnh huỏng đến kết quả thi vì khi mà bắt đầu ôn thi
sớm thì sinh viên sẽ dễ dàng tổng hợp và phân chia thời gian học hiệu quả.
Chi phí sủ dụng mua tài liệu trong một học kỳ có ảnh hưởng vì khi sinh viên
mua nhiều tài liệu tìm hiểu được nhiều dạng bài tập, áp dụng trong đời sống
giúp cho sinh có một nền tảng kiến thức vũng chắc.
Áp lực từ gia đình bạn bè có ảnh hưởng rất lớn vì khi có áp lực thì sinh viên
mới chịu tập trung học và nếu khơng có áp lực thì sinh viên sẽ coi thường việc
học.
Đi làm thêm có ảnh hưởng nhiều tới việc học tập vì lứa tuổi của sinh viên chịu
ảnh hưởng bởi đồng tiền thì sẽ chú tâm vào việc làm hơn là việc học suy ra kết
quả học tập của sinh sẽ bị sa sút.
Do đó, là sinh viên chúng ta cần biết cân đối giữa các yếu tố ảnh hưởng đến kết
quả để có thể có một kết quả học tập tốt.
4.2 Các hạn chế
Mức độ khảo sát còn hạn chế về qui mơ nên chưa phản ánh chính xác về kết
quả của sinh viên.
Số lượng biến cịn ít nên chưa tìm hiểu hết được những yếu tố tác động đến kết
quả học tập của sinh viên.
Do đây là mơ hình đề xuất, nhóm chưa tìm được cơng trình nghiên cứu trước
đó từ mơ hình này, nên mơ hình cịn yếu. Tuy nhiên, xét về mặt số liệu, nó vẫn
có giá trị.
4.3 Hướng mở rộng
Khảo sát trên số lượng mẫu lớn sẽ cho kết quả với độ chính xác cao hơn. Khảo
sát thêm một số biến để tìm được kết quả chính xác hơn: điều kiện của gia đình
chu cấp, số giờ ngủ mỗi ngày, sô thời gian làm những việc không liên quan đến
việc học, tham gia các câu lạc bộ đội nhóm, văn nghệ, thể thao,...
4.4. Ý kiến đề xuất
Muốn có một thành tích học tập tốt thì sinh viên phải thực sự có ý thức về việc
học của mình, đi học khơng chỉ để điểm danh mà học sinh phải thực sự lắng
nghe, ghi chép bài đầy đủ
Sắp xếp thời gian họp lý không nên quá tập chung quá vào việc học mà cũng
bỏ thêm thời gian cho bản thân di chơi, tập thể dục,...
Tránh tạo quá nhiều áp lực cho bản thân, cần mở rông thêm những mối quan hệ
tốt đẹp, tạo điều kiên cho tư tưởng luôn thoải mái…