SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ LỨA TUỔI NHÀ TRẺ
24-36 THÁNG HAM THÍCH ĐẾN LỚP HỌC
Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA BẠCH
Người thực hiện: Hồng Thị Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường Mầm non Nga Bạch
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
1
THANH HÓA, NĂM 2015
2
3
“Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng ham thích
đến lớp học”.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Từ ca dao tục ngữ mà đời xưa đã truyền lại cho chúng ta qua những câu từ
trang sách ‘Trẻ em như búp trên cành – Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan’.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới thì giáo dục được đặt lên hàng đầu, đặc
biệt là giáo dục mầm non. Ở độ tuổi từ 0-6 tuổi trẻ được đến trường lớp mầm
non, được vui chơi, học hành, được thỏa thích thể hiện cá tính của bản thân, trẻ
vui tươi hồn nhiên và khám phá những điều mình muốn. Ở trường trẻ cịn được
sự chăm sóc ân cần của cơ giáo, lại có các bạn cùng trang lứa cùng nhau học
cùng nhau chơi thật vui biết bao do đó trẻ thường ham thích đến lớp học của
mình. Đối với trẻ nhà trẻ 24-36 tháng việc hàng ngày đến lớp chưa thành thói
quen của trẻ. Do trong độ tuổi này trẻ đang được bố mẹ dìu dắt từng bước đi,
bón từng thìa cơm chăm cho từng giấc ngủ, nên việc rời bố mẹ đến lớp hằng
ngày với trẻ là việc rất khó khăn. Chính vì vậy là giáo viên mầm non dựa trên
thực tế trẻ trong độ tuổi mầm non nói chung và nhà trẻ 24-36 tháng nói riêng
đến lớp đang cịn là nghĩa vụ tơi trăn trở muốn tìm ra nhiều biện pháp hay để trẻ
nhà trẻ ham thích hơn đến lớp học hàng ngày. Qua q trình đứng lớp và kinh
nghiệm thực tế ở các năm học trước. Năm học 2020 - 2021 này tôi được nhà
trường phân công đứng lớp nhà trẻ 24-36 tháng. Bước vào năm học mới mỗi
giáo viên chúng tơi ai cũng có một tinh thần trách nhiệm cao đối với lớp học của
mình, với nhà trường và các cháu học sinh. Nhưng thực tế khi bước vào những
ngày đầu đón trẻ của năm học thật sự mỗi chúng tôi đã phải cố gắng hết mình vì
cơng việc vì các cháu. Bởi các cháu nhà trẻ đây là thời gian mà các cháu bước
đầu rời xa vòng tay cha mẹ, đến với một môi trường mới với những người mà bé
chưa từng gặp. Các cháu đi học khóc rất nhiều. có những cháu đến lớp cịn nơn
trớ ra cả người cơ giáo, thậm chí đánh cả cơ giáo… thật sự những người giáo
viên mầm non chúng tôi những ngày này cảm thấy rất mệt mỏi. Nhưng là giáo
viên lâu năm tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiều trẻ mới đến lớp không chịu vào lớp
học, ngày sau đó khơng dám đến trường vì lạ bạn, sợ cơ. Về phần phụ huynh thì
khơng dám tin con mình có đi học được hay khơng, sợ con khóc nhiều khi xa bố
mẹ. Làm sao để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao con cho các cơ. Tơi đã thực
hiện vài biện pháp nhỏ để có thể làm phụ huynh yên lòng và trẻ đến lớp mà
khơng sợ sệt, qua vài ngày sau sẽ ham thích đi học và về nhà tôi suy nghĩ mãi
với trách nhiệm của mình là một giáo viên chủ nhiệm lớp 24- 36 tháng tôi phải
làm sao nghĩ cách để các cháu hứng thú, thích đến lớp học ngay từ những ngày
đầu, các cháu bớt khóc, quen dần với mơi trường ở lớp để làm tiền đề cho mình
và các đồng nghiệp của mình. Hơn nữa trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có
bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất,
năng lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền địi hỏi được quan
tâm đáp ứng nhu cầu bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về
bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều những gì chúng
4
thể hiện ở lớp, và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có mơi
trường học tập tốt. Cần được học tập mọi lúc mọi nơi học theo nhiều cách khác
nhau. Để ni dưỡng trí thơng minh là chăm sóc, bảo vệ và kích thích trẻ trong
quá trình phát triển, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ cần có kinh nghiệm
học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự ni dưỡng trí lực của trẻ có
thể bắt đầu ngay từ những ngày sau khi trẻ được sinh ra. Đó là một q trình lâu
dài địi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì và hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của
cha mẹ, ông bà, cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó
trẻ sẽ hành động trong một mơi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cơ giáo
cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp, một bầu khơng khí tình cảm u
thương, tơn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô và phát triển khả năng
bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn
năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có thể làm biến đổi một cách đáng kể
hiệu quả hoạt động của trẻ. Chính vì lý do trên mà tơi mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng ham thích đến lớp học”.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Cơ sở khoa học:
1.1.Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này trẻ vừa sống trong mơi trường
gia đình, bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội,
trẻ 24 - 36 tháng do tơi phụ trách là độ tuổi cịn non nớt, khóc nhiều vì xa cha
mẹ, chưa quen với cơ và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các
hoạt động ở lớp. các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và
tính cách khác nhau. Đa số phụ huynh buôn bán tự do hay tính chất cơng việc
chiếm nhiều thời gian, một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên
chưa thực sự quan tâm đến con em mình vì vậy phụ huynh nhờ cậy việc dạy dỗ
con cái cho cơ giáo ở trường và có một số phụ huynh lại thương con thấy con
khóc nhiều, con nơn trớ nhiều lại đưa con về không cho cháu đi học nữa. Vì thế
để các cháu thích được đi học và các bậc phụ huynh yên tâm gửi lớp thu hút
được đông các cháu đi học tôi quyết định chọn đề tài này để đưa ra một số biện
pháp tốt nhất giúp trẻ thích được đến lớp cùng cơ giáo và các bạn: Nhằm giúp
những trẻ mới đến lớp không rụt rè, sợ sệt và thích đi học để các bậc phụ huynh
an tâm trong những ngày đầu tiên con mình xa bố mẹ.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Năm học 2020-2021 tôi được phân cơng dạy nhóm trẻ 24-36 tháng với
tổng số trẻ trong lớp là 25 cháu. Qua giờ đón trẻ buổi sáng tơi thấy rất vất vả vì
những buổi đầu tiên đi học trẻ cịn hay uốn éo bố mẹ, cơ giáo phải dỗ dành mãi
mà các cháu không chịu vào lớp học, cô phải vật vã hết cháu này đến cháu khác
tìm lời hay tiếng ngọt dỗ dành các cháu. Đến hơm sau cháu khơng muốn đi học
nữa đã có một số cháu nghỉ học vì sợ đến lớp. Cháu bảo: “Không đi học nữa, sợ
cô lắm, sợ bạn lạ lắm, Bạn đập cho”. Chính vì những lý do đó tôi đã trăn trở và
5
tìm ra một số biện pháp để các cháu ham thích đến lớp học, nhanh thích nghi với
trường lớp Mầm non.
2. Thực trạng.
Trong thực tế những ngày đầu đón trẻ tơi nhận thấy tình hình ở lớp tơi như sau:
2.1.Thuận lợi:
Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn cũng như nghiệp vụ của phòng giáo
dục Huyện Quỳ Châu cũng như sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất của
địa phương và ban giám hiệu nhà trường mầm non xã Châu Nga đã được đảm
bảo. Hiện nay trường có đầy đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị mới lạ, hấp dẫn
phục vụ cho các môn học, cho các cháu được vui chơi học tập. Để tạo cho trẻ
khơng khí thích đi học, đến lớp tốt hơn.
Đầu năm học nhà trường ưu tiên bố trí giáo viên cho nhóm nhà trẻ để cùng
chúng tơi tiếp xúc giao lưu với trẻ và phụ huynh để hiểu thêm về tính cách cũng
như sở thích của trẻ.
Nhà trường bổ sung mua đồ dùng đồ chơi cho lớp.
Bản thân tôi cũng ln cố gắng rất nhiều trong q trình chăm sóc giáo dục trẻ.
2.2. Khó khăn:
Nhiều trẻ mới đi học cịn khóc nhè, khơng chịu vào lớp, cơ bế khơng chịu,
thậm chí cịn đánh mạnh vào ngực cơ, như vậy sẽ rất khó khăn trong việc dạy
dỗ, chăm sóc và quản lý trẻ. Cụ thể như cháu Gia Bảo, Hà My, Đăng khôi, Gia
Khánh, Minh thiên, Như Quỳnh, Diệu Linh, Tuấn kiệt… ngày nào đến lớp bé
cũng khóc và nơn trớ rất nhiều. địi chạy ra cổng về nhà, có phụ huynh thấy thế
không muốn cho con đi học nữa thương con và cho con về nghỉ học và nói là
con ốm…điều này gây khó khăn rất lớn trong việc dạy trẻ và giáo dục đối với
các trẻ khác. Trong những ngày đó, nhiều cơ phải tất bật từ sáng đến trưa, nào dỗ
dành, ẵm bồng, kéo co, vật vã với trẻ. Các cháu khóc, quấy, giãy, đạp, thậm chí
đánh cả cơ. Đến giờ ăn thì trẻ khóc, khơng chịu ngồi ăn, rồi ho, ói. Đến giờ ngủ
cơ giáo phải ẵm ru ngủ. Có trẻ mệt quá ngủ thiếp đi, có trẻ khơng chịu ngủ thì cơ
phải ẵm ra sân chơi,hay đi chỗ khác vì sợ ảnh hưởng đến cháu khác. Tình trạng
này kéo dài sẽ ảnh hưởng khơng tốt đối với trẻ: sụt cân, bệnh, sợ hãi đám đông,
sợ tiếp xúc với nhiều người, trở nên nhút nhát, trầm uất, Trầm cảm...
Các cơ giáo cũng khơng sung sướng gì khi phải liên tục lau sàn lớp (do
học sinh ói, tè...), có cơ hai tay bế hai cháu (cịn 2 - 3 cháu khác vừa khóc vừa
bám lấy áo cơ địi bế), có cơ thì một tay bế cháu này, tay kia lấy khăn giấy chùi
mũi cho một cháu khác...“Thường chỉ một, hai tuần là ổn. Cũng có bé dễ chịu,
chỉ khóc 2-3 ngày. Nhưng cũng có bé khó lắm, cả tháng mới thích nghi được”.
Có lẽ hình ảnh của ngày đầu tiên quá kinh khủng đã khiến các cháu khó thích
nghi với lớp học. Một lớp học có hơn 20 cháu khóc rền rĩ, các bé cứ gào lên:
“Mẹ ơi! Mẹ ơi”, bé thì chạy ra cửa lớp giơ hai tay lên: “Bố a, bố a”, có bé cịn ói
hết ra sàn lớp, rồi tè, ị ra quần... Các cô giáo cứ luôn chân luôn tay vừa dỗ dành,
6
vừa dọn đồ ói, thay quần áo cho các cháu... Học sinh thì đơng, Cơng việc thì
nhiều nên các cơ không thể dỗ dành hết tất cả các cháu trong lớp.
Qua kết quả ban đầu cho thấy:
Tổng số trẻ
25
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ
- Trẻ ham thích đến lớp
6
24%
- Trẻ khơng thích đến lớp
19
76%
Với kết quả trên tôi thấy băn khoăn, lo lắng ăn khơng ngon, ngủ khơng n
với trẻ lớp mình phủ trách. Để trẻ có kết quả tốt hơn tơi quyết định chọn đề tài
“Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng ham thích đến lớp”.
Từ tình hình đó tơi đã nghĩ ra các biện pháp để khắc phục tình trạng trên.
3. Biện pháp thực hiện.
3.1.Biện pháp 1: Điều tra thực tiễn để nắm bắt tâm lý của trẻ, tạo
được niềm tin với trẻ và phụ huynh.
Trong giờ đón và trả trẻ:
Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn
nhận chính xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt
động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ bởi vì mỗi trẻ có một tính cách khác nhau.
Trò chuyện với phụ huynh về trẻ để biết bé thích ăn những gì, khơng ăn gì, và
ngủ như thế nào. Những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn
đáng tin cậy của trẻ. Khi được Bố mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ
thường ôm chặt lấy Bố, Mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dị
xét. Nếu lúc đó cơ giáo đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tơi nghĩ
trẻ sẽ rất ghét và rất sợ cơ, sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với
trẻ tôi chỉ chào hỏi, cười và làm quen bằng những câu hỏi đơn giản thân mật
như: “Con tên gì?”, “Con mấy tuổi?”, “Con có áo đẹp hay”, “Con có muốn vào
lớp chơi cùng cơ và các bạn khơng?”… Sau đó trị chuyện với phụ huynh và từ
từ vuốt ve trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng, đó là bước khởi đầu để trẻ
cảm thấy an lịng. Sau đó trưng bày đồ chơi hoặc tổ chức cho cả lớp cùng chơi
một trò chơi nào đó nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ.
Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lịng mẹ mà khơng chịu chơi cùng bạn.
Tơi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trị chuyện về thói quen, tập quán của trẻ để dễ
dàng thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cơ, từ đó
trẻ sẽ chơi với cơ và các bạn trong lớp. Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc
phụ huynh yên tâm khi gửi con cho các cơ để phụ huynh n tâm để con mình ở
lại cho cơ giáo. Từ những tình trạng thực tế đã giúp tơi tìm ra một số biện pháp
tốt để giúp trẻ thích nghi với lớp được tốt hơn. Đầu năm trẻ của tơi khóc rất
nhiều, khi đón trẻ tơi thường an ủi phụ huynh trước tiên vì họ rất thương con lo
lắng cho con, sợ con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ.
7
Những lời động viên sẽ giúp họ an tâm hơn và khi nhận trẻ từ tay bố mẹ tôi nắm
tay trẻ, ở gần bên trẻ và nói chuyện thật nhẹ nhàng.
Đối với các cháu lần đầu tiên đến trường, thường ôm chặt lấy bố mẹ không
chịu rời, tôi không vội vàng tách cháu ra khỏi vòng tay phụ huynh ngay mà chỉ
đến chào hỏi phụ huynh, trò chuyện, mỉm cười với trẻ để làm quen trẻ tránh cho
trẻ bị hụt hẫng và có cảm giác bị bỏ rơi.
Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lịng bố mẹ mà khơng chịu chơi
cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trị chuyện về thói quen, tập qn, sở
thích của trẻ để dễ dàng tìm kiếm biện pháp thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ
cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cơ, từ đó trẻ sẽ chơi với cơ và các bạn trong lớp.
Từ khi sử dụng biện pháp trên đối với trẻ của lớp mình tơi thấy các cháu có
sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tơi có 25 cháu số cháu hứng thú đi học
đạt 88% so với số trẻ của lớp.
3.2.Biện pháp 2: Chuẩn bị nhiều đồ chơi hấp dẫn cho trẻ chơi.
Tơi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trị chơi nhỏ nào đó nhằm gây hứng
thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới vào lớp. Để kích thích sự sáng tạo
ham học hỏi của những trẻ hiếu động tôi giới thiệu cho trẻ tham gia chơi ở góc
xây dựng tạo sự hứng thú cho trẻ. Sau đó tiếp tục cho các cháu chơi ở những góc
chơi khác.
Trưng bày ở các góc chơi nhiều đồ chơi hấp dẫn do nhà trường mua sắm
phục vụ cho các cháu. Ngồi ra tơi cịn tận dụng thời gian rảnh của mình làm ra
nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu từ phế thải như hộp sữa chua
tạo ra những con vật ngộ nghĩnh, những chiếc đu quay như thường ngày bé chơi.
Từ những bìa cat tơng cùng những mảnh xốp vụn tạo nên những cây hoa xinh
xắn… kích thích trẻ chú ý và thích chơi.
Mặt khác tơi nhập vai cùng chơi với trẻ để tạo sự thân thiện gần gũi và để trẻ dễ
dàng thích ứng với vai chơi của mình.
3.3.Biện pháp 3: Tạo ra mơi trường đẹp thu hút sự chú ý trẻ.
Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân.
Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú.
Và tất cả các trẻ đều có quyền địi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân.
Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực
tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp, và để có thể
làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có môi trường học tập cho phép chúng
được học tập mọi lúc mọi nơi học theo nhiều cách khác nhau. Khi trẻ đến lớp,
mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một mơi trường
theo cách của mình. Chính vì vậy cơ giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở
lớp, một không khí tình cảm u thương, tơn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết
nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận
thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú
8
có thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Đối với lớp
nhà trẻ 24 - 36 tháng thì hoạt động với đồ vật là hoạt động mang tính chủ đạo.
Chính những hoạt động này tạo nên sự biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ làm
cho các hoạt động khác nhau mang một màu sắc riêng của nó. Trong trường
mầm non HĐVĐV ln có sự hướng dẫn, tổ chức của cơ giáo. trẻ được học tập
và tiếp thu tri thức dưới hình thức chơi mà học - học mà chơi. Trên giờ học trẻ
được học các kỹ năng còn trong các giờ hoạt động khác trẻ được ứng dụng các
kỹ năng đó. Hoạt động ở các góc là hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ nên
trẻ có cơ hội lựa chọn hoạt động mà trẻ ưa thích, trẻ được tự do giao tiếp, tự do
chọn đồ chơi, được trải nghiệm cảm giác hứng thú qua các trị chơi giúp trẻ tự
tin. Vì thế việc xây dựng môi trường giáo dục cũng là điều rất quan trọng đối với
trẻ mầm non đặc biệt là đối với trẻ ở lứa tuổi 24 - 36 tháng.
Mơi trường ngồi lớp học.
Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ.
Khn viên Trường Mầm Non Châu Nga có khơng gian rộng rãi, thống mát,
khu vực chơi ngồi trời sạch sẽ, đồ chơi phong phú,hấp dẫn thu hút được sự chú
ý của trẻ.
Tôi sẽ dắt trẻ ra sân chơi, tổ chức nhiều trò chơi như trò chơi “Bịt mắt bắt
dê”, “Con bò dựa”…, hoặc chơi các trò chơi vận động đơn giản như “Chim và ô
tô” , “Bong bong xà phòng”…, hay chỉ cần trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh
vật xung quanh sân trường, cho trẻ chơi đu quay, chơi bập bênh, Cầu trượt…kể
chuyện cho bé nghe, việc này sẽ gây hứng thú và chiếm được nhiều cảm tình
của trẻ.
Mơi trường trong lớp học
Ngồi việc xây dựng mơi trường giáo dục ngồi trời thì việc xây dựng mơi
trường giáo dục trong lớp cần chú trọng hơn nhiều.Vì thế để trẻ thích được đến
lớp tơi cùng với giáo viên của lớp trang trí, xây dựng mơi trường giáo dục của
mình thật đẹp bằng những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương như mo
caunguyên liệu đan lát,sỏi đá… tạo nên những bông hoa với sắc màu rực rỡ của
màu sơn cùng với nhụy hoa vàng xinh xắn của hộp vàng sữa, lọ chai mà trẻ đã
sử dụng xong để lại vỏ cho cô làm đồ dùng, phù hợp với lứa tuổi của trẻ lớp tôi,
phù hợp với chủ đề chủ điểm tạo không gian mới lạ đẹp mắt để các cháu quên đi
cái nỗi nhớ bố mẹ, làm quen môi trường mới tốt hơn.
Bố trí các góc chơi phù hợp khoảng cách giữa góc động và tĩnh bố trí hợp
lý cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Cơ giáo cần sáng tạo thêm
nhiều góc chơi, góc thiên nhiên, góc tạo hình… có nhiều đồ dùng đẹp mắt để lôi
cuốn trẻ. Khi dắt trẻ trở vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi trẻ những đồ
vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời khơng được hoặc khơng
thích trả lời, tơi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời.
Ngồi những đồ dùng đồ chơi mà nhà trường đã phát tôi còn làm ra những
đồ chơi tự tạo từ những nguyên phế liệu bỏ đi được phụ huynh cùng các cháu
9
mang đến lớp để cùng cô làm nên những đồ dùng ngộ nghĩnh như hộp thạch rau
câu làm thành những chiếc cốc, chén, hay cái bát hoặc những hộp sữa chua làm
những con vật ngộ nghĩnh như con lợn cho trẻ chơi.
Để khi bế trẻ vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi những đồ vật, đồ
chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời khơng được hoặc khơng thích trả
lời, tơi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời dần dần trẻ ngoan lên đi học khơng khóc nữa.
Ngồi việc trang trí xây dựng mơi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải,
thống mát, sạch sẽ được lau chùi thường xuyên bằng xà phòng thơm, nhiều đồ
chơi hấp dẫn, thu hút trẻ.
Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tơi thấy
các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt.
3.4.Biện pháp 4: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới bắt đầu từ những
thói quen cũ của trẻ.
Đối với giờ ăn:
Có thể vài ngày đầu, tơi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen không tốt của
trẻ như: Không ăn thịt, rau, đậu, ăn rất ít cơm, hay giờ ngủ phải bế lên vai, vỗ
mông, Khải lưng ru ngủ - Nằm bên cạnh cháu mới ngủ, tiêu tiển trong quần…
Tôi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ
đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh. Nếu trẻ không muốn ăn nữa hoặc muốn ói cơ
phải ngừng cho trẻ ăn vì nếu nơn thức ăn, trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó
cơ sẽ cho trẻ uống sữa nhằm bù lại phần ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng
dần lên vài thìa cơm hoặc cháo, trẻ sẽ dễ thích nghi với thức ăn ở trường, sau đó
sẽ ăn nhanh gọn và hết suất. Không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự
thèm ăn cho trẻ.
Đối với giờ ngủ:
Cháu chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có cháu ở nhà khơng chịu ngủ
trưa tơi dỗ cháu, bế cháu để đưa cháu dần vào giấc ngủ. Đến giờ với lớp tôi giờ
ăn ngủ của các cháu rất là ngoan, vào nề nếp ăn xong rửa tay,lau miệng, cất ghế,
đi vệ sinh và vào chỗ của mình nằm ngủ rất ngoan đôi khi không cần cô phải
nhắc nhở.
Là giáo viên của lớp tơi ln tạo khơng khí vui tơi, thoải mái cho trẻ, động
viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành thời
gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động
tập thể giúp trẻ đợc giao tiếp nhiều hơn.
3.5.Biện pháp 5: Tạo sự gần gũi thân thiện với trẻ.
Tôi luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, ln thu
hút trẻ vào những trị chơi nhỏ, hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng
dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Giờ ngủ nếu trẻ chưa
chịu ngủ, tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn, tôi sẽ để trẻ tự do
ngồi đâu trẻ thích, khi đó tơi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cô, con chỉ
10
cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cô sẽ cho con về. Hoặc tôi sẽ ngồi
thuyết phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó tơi sẽ để trẻ vào gối nằm.
Khi đón trẻ tơi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ đúng giờ để trẻ tập quen
dần với môi trường mới và sẽ khơng có cảm giác bị bố mẹ bỏ lại trường.
3.6.Biện pháp 6: Hết lịng mến trẻ u nghề.
Ngồi những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp Mầm non từ
những kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp tôi đã áp
dụng trong những năm học qua, tơi cịn đến với trẻ bằng chính tình thương của
mình, bằng lịng u nghề, u trẻ như chính con đẻ của mình, ln hồ mình
vào thế giới của trẻ, luôn đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng khơng
vượt qua giới hạn, chăm sóc, u thương trị chuyện để mỗi ngày trẻ đến lớp
càng có thêm nhiều niềm vui, trẻ yêu thích đến lớp và ngày càng ngoan ngỗn lễ
phép hơn. Thậm chí có những cháu bị ốm đầu dán cao hạ sốt nhưng sáng ngủ
dậy vẫn địi bố mẹ cho con đi học với cơ giáo và các bạn chứ không chịu ở
nhà.Và đặc biệt những ngày nghỉ ở nhà trẻ cũng đòi đi học với cô.
Sau khi các trẻ mới đã quen trường, quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ
cách chào hỏi cô khi đến lớp, chào Bố, mẹ con đi học và thưa Bố, mẹ khi đi học
về, biết nói cảm ơn, con xin cô, xin mẹ khi cô và mẹ cho quà, sữa, bánh…. Từ
khi sử dụng biện pháp trên vào đối với trẻ của lớp mình tơi thấy các cháu có sự
tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt.
3.7.Biện pháp 7: Tạo sự thích thú với trẻ qua giờ học, dạo chơi.
- Sau khi các cháu đã quen với môi trường lớp học, quen cô quen trường,
quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào hỏi cô khi đến lớp, khi ra về,
chào mẹ con đi học và thưa bố mẹ con đi học về, biết nói cảm ơn khi cơ và mẹ
cho q, phát sữa. Từ đó dần đưa trẻ vào nề nếp học tập qua từng hoạt động học
trong ngày tạo sự hứng thú thoải mái không gây áp lực cho trẻ trong các hoạt
động học. Với nhiều hấp dẫn trẻ như: cô giáo đón bé trong những ngày hội ngày
lễ cơ cài hoa lên áo bé hay tặng bong bóng cho bé. Có thể tổ chức các góc chơi
gây hứng thú cho trẻ như tơ màu, nặn, xâu vịng, xếp hình…
Qua các giờ học ngoài việc truyền tải kiến thức đến các cháu, thu hút các
cháu vào bài dạy của mình để các cháu khơng cịn khóc và khi về nhà địi bố mẹ
ngày mai con lại đi học với cô giáo. Tôi đã học tập nghiên cứu rất nhiều qua tài
liệu, công nghệ thơng tin để tích lũy học hỏi kinh nghiệm cho mình những kiến
thức hay cách lên lớp tốt tạo sự thoải mái cho trẻ khi học tập không tạo áp lực
với trẻ.
Ví dụ: Qua giờ học vui nhộn như âm nhạc. Tùy vào từng chủ đề tôi áp
dụng làm những chiếc mũ xinh, hay những bộ quần áo ngộ nghĩnh, cho trình
diễn thời trang. Từ đó trẻ rất thích và hăng say học bài không tạo áp lực cho trẻ.
Qua giờ văn học: Cô giáo luôn là người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp,
luôn thu hút trẻ vào những bài thơ câu chuyện, ca dao, đồng dao, hát những bài
11
nhĩ nhảnh vui nhồn nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Ngồi ra
tơi cịn sử dụng công nghệ thông tin sử dụng Power Point áp dụng vào những
bài dạy khiến hình ảnh thêm sinh động rõ nét. Thay đổi nhiều hình thức trên bài
dạy như các câu truyện vừa sử dụng Power Point vừa sử dụng tranh, mơ hình
kết hợp hài hịa để tạo sự tị mị đối với trẻ từ đó mỗi khi lên lớp tôi cảm thấy tự
tin phấn khởi hơn khi thấy các cháu chăm chú học tập.
Đối với những giờ học trầm: như nhận biết tập nói, hoạt động với đồ vật tôi
thường kết hợp các hoạt động âm nhạc, hay các trị chơi vào cho tiết học sinh
động khơng tạo sự nhàm chán đối với trẻ. Hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản kích
thích trẻ trả lời. Tạo cho trẻ sự hứng thú khi học bài. Sử dụng những đồ chơi gây
hứng thú đối với trẻ.
Về màu sắc: Sử dụng ba màu cơ bản để trẻ dễ ràng nhận biết ngồi ra cịn
mở rộng một số màu khác để trẻ nhận biệt thêm.
Chất liệu: Sử dụng nhiều chất liệu dễ kiếm dễ tìm.
Đồ chơi đảm bảo tính giáo dục an tồn đối với trẻ.
Ví dụ: Hay đối với giờ học tạo hình:
Từ hoạt động tạo hình mà trẻ biết được thế giới tự nhiên, cuộc sống con
người vô cùng phong phú đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ đó trẻ
sẽ tái tạo những cảnh vật bằng sự cảm nhận ban đầu đầy ngộ nghĩnh hồn nhiên,
đáng yêu của tâm hồn trẻ thơ thông qua các sản phẩm của trẻ. Hoạt động tạo
hình giúp trẻ hiểu một cách sâu sắc về các mối quan hệ về sự vật, hiện tượng
xung quanh trẻ. Từ đó trẻ có thái độ tình cảm, các hành vi ứng xử tốt qua việc
thể hiện các sản phẩm tạo hình. Dạy vẽ còn giúp cho trẻ bước đầu làm quen với
các phương tiện và ngơn ngữ tạo hình như: Phát triển khả năng tri giác đồ vật về
hình dáng, đường nét, cấu trúc, màu sắc, hình thành cho trẻ các thao tác tư duy
nhằm phát triển khả năng sáng tạo. Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ hoạt động tạo hình
bao gồm tơ màu, nặn…thơng qua hoạt động này giúp trẻ tìm hiểu khám phá, tái
tạo lại những sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh hình thành cho trẻ xúc
cảm, tình cảm, trẻ nhận thức được cái đẹp, biết yêu quý sáng tạo ra cái đẹp, biết
trân trọng những sản phẩm của mình làm ra, từ đó trẻ biết u lao động, biết giữ
gìn đồ dùng đồ chơi.
* Giờ dạo chơi:
Tiếp đến tơi sẽ bế trẻ ra sân chơi, trị chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật
xung quanh sân trường, chơi đu quay, cầu trượt…chơi với bóng… kể chuyện
cho bé nghe, việc này sẽ gây hứng thú và cảm tình của trẻ. Tổ chức các trò chơi
quen thuộc như trò chơi như: Đuổi bắt, Cáo và thỏ, Kéo cưa lừa sẻ…. mà trẻ đã
được bố mẹ đã cho trẻ chơi rồi khi trẻ đã quen dần ở các buổi tiếp theo tơi mới
tổ chức cho trẻ chơi các trị chơi mới. Trị chuyện cùng với trẻ theo các chủ đề
mà cơ giáo đã dạy.
12
Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tơi thấy
các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tơi có 32 học sinh số cháu
hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp.
3.8.Biện pháp 8: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Để cùng cô giáo đưa các cháu vào nề nếp học tập hứng thú đi học thì mỗi
phụ huynh cũng góp phần không nhỏ. Tôi cùng với giáo viên phụ củ lớp luôn
động viên phụ huynh đưa con đi học đều để tạp cho các cháu thói quen trong
học tập. Trước hết, nhà trường phải giúp phụ huynh nắm được quy định của
trường, chế độ ăn, lịch sinh hoạt của học sinh. Sau đó, Bố, mẹ sẽ tập cho bé sinh
hoạt ở nhà gần giống như ở trường (ví dụ: 7g30 là hết đón bé tập cho cháu thới
quen ăn sáng để đi học đúng giờ), tập cho bé một số thói quen ăn, ngủ, vệ sinh...
(khi ăn khơng làm rơi vãi cơm, ngủ trên sạp giường chứ không nằm võng hay
nơi, biết ngồi bơ...). Nói chuyện với bé về những điều thú vị ở trường mầm non
(chứ đừng dọa: “Con hư bố mẹ sẽ cho con đi trường mầm non” tạo ấn tượng
khơng tốt cho bé). Song song đó, hằng ngày phụ huynh cũng nên đưa bé đến
trường chơi vào giờ trả trẻ. Bé sẽ chơi ngoài sân hoặc vào trong lớp học để làm
quen với cô giáo, với đồ dùng, đồ chơi...
Cùng cơ động viên khích lệ trẻ phối kết hợp liên hồi biết được những phản
ứng của trẻ để có cách khắc phục có hiệu quả hơn. Phụ huynh - Chụp ảnh của trẻ
gửi cô giáo để cô dán ảnh của trẻ vào góc hoạt động trong ngày của trẻ. Tôi
động viên phụ huynh mỗi tuần một tối cho các cháu học bài như tô tranh tùy vào
sở thích mỗi cháu. Cháu thích tơ màu gì nên để cháu tô bố mẹ nên hướng dẫn
cháu tô màu thế nào cho đẹp. Hay cho trẻ hát cho bố mẹ, cả nhà cùng nghe động
viên khích lệ trẻ. Sáng mai trao đổi cùng cơ giáo động viên khuyến khích trẻ,
đưa sản phẩm trẻ làm cho cơ để cơ trang trí lớp. Dùng chính đồ dùng mà trẻ
mang đến cho trẻ chơi. - Cho phụ huynh xem những sản phẩm tạo hình của trẻ
mà trẻ làm được trong giờ học. Điều đó vừa tạo cho phụ huynh sự tin tưởng ở cơ
giáo vừa tạo cho cho trẻ sự thoải mái thích thú và muốn được đi học.
Từ những biện pháp trên mà các cháu lớp tôi kể cả việc đến lớp cũng như
trong học tập đều đạt kết quả rất tốt. Điển hình như ở lớp trẻ thích biễu diễn một
cách tự nhiên đúng nhạc, không kém các anh chị lớp lớn.
Các bé khơng những thể hiện tốt mà cịn rất tự tin khi được cô giới thiệu
lên biểu diễn tập thể, cá nhân, trẻ thể hiện hết khả năng của mình với bản lĩnh
đầy tự tin của các bé. Và bản than tôi cũng thấy rất mừng cho các cháu. Vì các
cháu đã thể hiện như người lớn chuẩn bị lên mẫu giáo.
Nhìn các cháu nhà trẻ ai cũng nghĩ rằng cháu nhỏ như thế thì học với hành
chi chỉ có khóc,tẻ, ị thơi’ nhưng khi nhìn các cháu tự tin lên biểu diễn cũng thực
hiện tốt, Những lúc về nhà cháu biết hát múa,đọc thơ hay. Điều đó cũng làm cho
phụ huynh yên tâm và phấn khởi rất nhiều khi gửi con cho cô giáo. Lớp tôi cũng
dần thu hút được rất đông các cháu đến lớp học. và một điều thường khơng hay
thấy ở lớp nhà trẻ đó là các cháu lớp tơi cịn đi học rất đều. Từ khi sử dụng biện
13
pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tơi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt
đạt kết quả rất tốt. lớp tơi có 25 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 23 cháu
bằng 92% so với số trẻ của lớp số phụ huynh phấn khởi cùng con em mình. Có
một số phụ huynh cịn muốn xin cho con đi học nữa, Nhưng do điệu kiện không
muốn nhận thêm nữa thôi.
4. Kết quả đạt được :
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của
Ban giám hiệu nhà trường, sự hổ trợ góp ý của các bạn đồng nghiệp trong
trường. Lớp học của tôi đã thu hoạch được những kết quả như sau:
Đối với giáo viên:
Nắm chắc tâm lý của từng trẻ, phương pháp giúp cho trẻ thích đến lớp.
Có nhiều kinh nghiệm trong việc chiêu sinh trẻ đến lớp học.
Nâng cao kinh nghiệm trong giảng dạy, cũng như trong việc chăm sóc trẻ
hàng ngày..
Đối với trẻ:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ tơi đang
dạy có khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, thích được đi học hơn. Có cháu bị ốm,
sốt bố mẹ bảo con ốm nghỉ ở nhà với mẹ nhưng khơng đồng ý và địi mẹ đến lớp
để học bài cùng cơ giáo và các bạn.
Biết thể hiện tình cảm giao lưu giữa bạn bè, giữa trẻ và cô, thích chơi cùng
bạn và biết được nhiệm vụ của mình và bạn trong khi chơi, có thái độ tự giác
cùng bạn đến góc chơi, hứng thú trong khi chơi và có ý thức giữ gìn đồ dùng, đồ
chơi. Biết chia sẻ phân vai chơi cùng nhau một cách hòa đồng hơn.
Sau khi áp đầu năm dụng các biện pháp của mình vào việc giúp trẻ ham
thích đến lớp học kết quả đạt được trên trẻ so với kết quả dầu năm như sau.
Tổng số trẻ
25
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ
- Trẻ ham thích đến lớp
23
92 %
- Trẻ khơng thích đến lớp
2
8%
Từ đây tơi cảm thấy rất vui và phấn khởi khi mình đã đưa ra được những
biện pháp để giúp các cháu thích được đến lớp hơn.
III. KẾT LUẬN.
Bài học kinh nghiệm:
Sau khi nghiên cứu đề tài trên, cũng như áp dụng một số biện pháp trên vào
việc Đưa trẻ thích được đến lớp học của lớp tơi nói riêng tơi đã rút ra được một
số kinh nghiệm:
Khảo sát để trẻ nắm chắc tình hình tâm lý trẻ nhất là trẻ nhà trẻ.
14
Giáo viên luôn nghiên cứu kỹ các phương pháp để hướng dẫn trẻ thực
hiện.
Cần học hỏi và nâng cao nghệ thuật lên lớp, trong cách ứng xử tình huống
sư phạm. Dạy trẻ có kế hoạch bồi dưỡng thêm những trẻ yếu hơn tiếp thu chậm.
Ln khuyến khích động viên khen ngợi trẻ tạo sự hứng thú cho trẻ.
Xây dựng môi trường học tập xanh sạch đẹp cho trẻ hoạt động..
Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong cơng tác chăm sóc giáo
dục trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho viêc chơi và học của trẻ.
Hơn nữa việc trẻ thích đến lớp là vơ cùng quan trọng hàng ngày đối với
trẻ. Vì thế là một giáo viên cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng phải khắc
phục mọi khó khăn chuẩn bị tốt đồ dùng, đồ chơi để tổ chức cho trẻ hoạt động
hàng ngày tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với các hoạt động hàng ngày bằng
nhiều hình thức khác nhau. Qua việc thực hiện áp dụng biện pháp mới tôi thấy
trẻ thích chơi hơn, sáng tạo hơn, linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, thay vào sự
nhàm chán của trẻ ở những năm học trước bằng những sự hứng thú, tập trung,
giúp trẻ chơi với đồ chơi thể hiện được sự khéo léo, sự giao lưu giữa bạn bè và
trẻ.
Giúp cho giáo viên thêm phần khéo léo, sáng tạo trong việc tìm ra các giải
pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng vào việc đưa
trẻ ham thích được đến lớp và cũng có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế của
lớp học để áp dụng vào. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra
những giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu cho trẻ theo chương trình hiện
hành.
Từ những cơ sở thực tiễn trên, tôi nhận ra rằng giữa giáo viên, nhà trường,
gia đình trẻ phải có sự thống nhất trong tồn bộ q trình chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em ở cả hai môi trường: trường mầm non và gia đình. Trẻ mầm non
cịn rất non nớt, khơng thể tự phát triển mà có vai trị dẫn dắt của người lớn .Vì
vậy việc giáo dục mầm non phải thể hiện được vai trò chủ đạo của giáo viên,
đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân, vốn sống của trẻ. Qua các
bước phân tích trên, tơi đã rất đạt hiệu quả trong việc thu nhận trẻ mới và rất
mong sẽ có nhiều phụ huynh tin yêu gửi con luôn an tâm về cách chăm sóc, giáo
dục trẻ theo các hướng đã đề ra.
Ý kiến đề xuất.
Đề nghị với cấp trên quan tâm hơn nữa đến các tài liệu đồ dùng, đồ chơi
phục vụ cho hoạt động hàng ngày của trẻ nhà trẻ. Để giáo viên có tài liệu tham
khảo nâng cao nghiệp vụ của mình.
Đề nghị với nhà trường tạo điều kiện giúp đỡ cho chị em được dự giờ thăm
lớp nhiều hơn. Đặc biệt là đối với hoạt động giúp trẻ ham thích đi học để chị em
học hỏi vận dụng kiến thức vào thực tế cho mình tốt hơn.
15
Trên đây là một số kinh nghiệm giúp trẻ 24 - 36 tháng ham thích đến lớp
mà tơi đã áp dụng trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Tơi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo bổ xung cho đề tài của tơi được hồn thiện
hơn.
Châu Nga, ngày 23 tháng 03 năm 2021.
NGƯỜI THỰC HIỆN
Hoàng Thị Hằng.
16
ĐỀ CƯƠNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
“Một số biện pháp phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ 24-36 tháng tuổi”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp
người kế tục và xây dựng tổ quốc. Chính vì thế mà nhiệm vụ và mục tiêu của
giáo dục Mầm Non là phải làm tốt cơng tác chăm sóc ni dưỡng, giáo dục trẻ
nhằm bồi dưỡng các cháu trở thành những người công dân tốt, có ích cho xã hội
Đặc biệt đối với trẻ em lứa tuổi mầm non thì sức khoẻ lại càng quan trọng
vì ở giai đoạn này cơ thể các em đang phát triển mạnh các cơ quan chức năng
tâm sinh lý của trẻ đang dần dần được hoàn thiện. Trẻ có khoẻ mạnh thì mới tích
cực tham gia vào các hoạt động như: Hoạt động học tập, hoạt động vui chơi.
Muốn có cơ thể khoẻ mạnh địi hỏi phải có sự đầu tư tốn kém lâu dài. Những bài
học kinh nghiệm cho thấy những can thiệp trực tiếp trên trẻ đã bị suy dinh
dưỡng như phục hồi trẻ suy dinh dưỡng thường khó có thể đạt kết quả cao. Đối
với loại bệnh này tuy không phải bệnh vô phương cứu chữa nhưng cũng khơng
thể xem nhẹ vì trẻ bị suy dinh dưõng nặng nguyên nhân diễn biến rất phức tạp.
Vì vậy mà bản thân tôi đã lựa chon đề tài “Một số biện pháp phòng chống
suy dinh dưỡng cho trẻ 24-36 tháng tuổi”.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Cơ sở khoa học:
1.1.Cơ sở lý luận:
Mục tiêu GDMN là hình thành cho trẻ những yếu tố nhân cách con người,
con người phát triển tồn diện về 5 mặt: Nhận thức, thể chất, ngơn ngữ, tình cảm
xã hội, thẩm mỹ. Để đạt được mục tiêu giúp trẻ phát triển tồn diện thì ta cần
phải
kết hợp hài hồ giữa ni dưỡng chăm sóc sức khoẻ và giáo dục đó là điều tất
yếu.
Mà dinh dưỡng là nhu cầu sống của mỗi con người, nhất là ở lứa tuổi mầm non,
đặc biệt là các cháu trong độ tuổi từ 24-36 tháng tuổi. Trẻ em cần dinh dưỡng để
phát triển về thể lực và trí tuệ. Trẻ em nếu được chăm sóc ni dưỡng tốt sẽ mau
lớn, khỏe mạnh, thông minh và học giỏi.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trước đây do xã hội nghèo dân thiếu ăn nên trẻ thường bị suy dinh dưỡng
ở
thể nặng như: Phù, teo đét, tỉ lệ tử vong rất cao, nhưng xã hội hiện nay đang trên
đà
17
phát triển, kinh tế ổn định. Trẻ khơng cịn suy dinh dưỡng ở thể nặng mà còn chỉ
ở
thể thấp còi, nguyên nhân là các bậc phụ huynh chăm sóc chưa đúng cách và
chưa
nắm vững kiến thức nuôi con theo khoa học, do cơng việc bận rộn nên phụ
huynh ít có thời gian để chăm sóc con, tuy nhiên nguyên nhân chủ yếu là do yếu
tố nuôi
dưỡng và bệnh tật chiếm nhiều hơn là di truyền.
Vì vậy ở lứa tuổi này việc chăm sóc trẻ trong những năm đầu là rất quan
trọng nên tôi đã trăn trở và suy nghĩ để tìm ra những biện pháp nhằm xóa suy
dinh
dưỡng cho trẻ mầm non ở độ tuổi 24 - 36 tháng.
2. Thực trạng:
2.1. Thuận lợi:
- Nhà trường đã duy trì được số trẻ ăn bán trú tại trường là 100%.
- Cơ sở vật chất đầy đủ, khu bếp sạch sẽ, có đủ đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho
bếp ăn một chiều, có tủ lưu mẫu thức ăn ...
- Có đội ngũ giáo viên trẻ, khẻo, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ.
2.2. Khó khăn:
- Trường ở xa khu trung tâm nên khó khăn cho việc mua bán thực phẩm.
- Điều kiện để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn do
điều kiện kinh tế và nhận thức của các bậc phụ huynh cịn chưa đồng đều. Cơ
ni chưa được đào tạo chuẩn về chuyên ngành nấu ăn mà chỉ có kinh nghiệm
nấu ăn từ thực tế.
Thế nhưng ở lứa tuổi nhà trẻ 24-36 tháng là trẻ nhỏ nhất
trường cho nên việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ là rất cần thiết,
qua lần cân đo kiểm tra sức khỏe của trẻ vào tháng 9 đầu năm
có kết quả như sau:
Tổng số trẻ
24 cháu
Trẻ bình thường
Trẻ SDD Nhẹ
Trẻ SDD Nặng và
thấp còi độ 2
TS
%
TS
%
TS
%
20
83,3
4
16,6
0
0
Với kết quả cân đo đã có nhiều trẻ suy dinh dưỡng và thấp cịi như vậy,
tơi đã tìm tịi, suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu tìm ra “Một số biện pháp phịng
chống suy dinh dưỡng cho trẻ 24-36 tháng tuổi”.
18
3. Biện pháp thực hiện.
3.1.Biện pháp 1: Tìm hiểu nguyên nhân, tình trạng trẻ bị suy dinh dưỡng.
- Cai sữa sớm cho trẻ hay cho trẻ bú sữa ngoài thay vì bú sữa mẹ.
- Cho bé ăn dặm khơng đúng cách.
- Trẻ mắc các bệnh lý nhiễm trùng.
- Sinh non, thiếu sữa mẹ bổ sung lúc đầu đời
3.2. Biện pháp 2: Bữa ăn phải đa dạng, thay đổi, hỗn hợp nhiều loại thực
phẩm :
Trong mỗi bữa ăn của trẻ phải có đủ 4 nhóm thực phẩm, các loại thức ăn
trong mỗi nhóm cũng phải thay đổi từng bữa, từng ngày, từng món ăn cũng cần
hỗn hợp nhiều loại thực phẩm.
3.3.Biện pháp 5: Bữa ăn phải điều độ theo yêu cầu dinh dưỡng:
- Xây dựng thực đơn theo mùa, theo tuần.
- Tính khẩu phần ăn hàng ngày .
- Đảm bảo khoảng cách giữa các bữa ăn.
- Thực hiện tốt chế độ vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.4. Biện pháp 6: Xây dựng khẩu phần:
- Khẩu phần ăn phải đảm bảo đủ năng lượng.
- Khẩu phần phải đủ chất dinh dưỡng cần thiết.
- Khẩu phần phải cân đối về tỷ lệ các chất dinh dưỡng .
- Tính tốn địmh mức cho khẩu phần theo 8 bước.
3.5. Biện pháp 5. Thực hiện tốt cơng tác ăn, uống của trẻ ở nhóm lớp.
3.6. Biện pháp 6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền.
Tổ chức kế hoạch gặp gở một cách hợp lý theo hình thức truyền thơng
theo nhóm, hộ gia đình hoặc tổ chức cuộc họp tuỳ thuộc vào điều kiện thuận lợi
của mỗi GV và nội dung cần tuyên truyền ở mỗi độ tuổi có khác nhau..
3.7. Biện pháp 7. Thực hiện tốt cơng tác lồng ghép phịng chống suy dinh
dưỡng vào các nội dung .
3.8. Biện pháp 8 : Phối hợp với nhà trường và trạm y tế xã để khám sức
khoẻ và cân đo theo định kỳ của trẻ trong nhóm lớp.
- Phối hợp với trạm y tế xã khám sức khỏe và cân đo theo định kỳ. Những trẻ có
biểu hiện suy dinh dưỡng cần kiểm tra, cân đo hàng tháng để điều chỉnh chế độ
ăn cho phù hợp.
- Phối hợp với y tế học đường lên kế hoạch bồi dưỡng thêm cho trẻ suy dinh
dưỡng.
19
4. Kết quả đạt được :
Tơi đã hiểu được vì sao trẻ bị suy dinh dưỡng, và tầm quan trọng của việc
phịng chống suy dinh dưỡng cho trẻ, từ đó có kế hoạch cụ thể về việc chăm sóc
sức khỏe theo nhiều hình thức khác nhau.
Phụ huynh đa số hiểu tầm quan trọng của việc chăm sóc và theo giõi sức
khỏe cho trẻ, thường xuyên gặp cô giáo để trao đổi về tình hình ăn uống và
những gì cần tiếp theo để giúp trẻ phát triển tốt.
* Kết quả cụ thể trên trẻ như sau:
Tổng số
trẻ
24 cháu
Trẻ bình thường về
chiều cao và cân nặng
Trẻ SDD Nhẹ và
thấp còi độ 1
Trẻ SDD Nặng và thấp
còi độ 2
TS
%
TS
%
TS
%
23
95,8
1
4
0
0
Sức khỏe là vốn quý của con người vì thế sự thay đổi về cân nặng, chiều
cao của trẻ trong nhóm lớp với kết quả trên là rất đáng mừng.
III. KẾT LUẬN.
2. Bài học kinh nghiệm:
Với kết quả đã đạt được như trên thì tơi đã rút ra cho bản thân mình có
nhiều điều có ích cho việc chăm sóc trẻ:
Để trẻ ln khoẻ mạnh phát triển một cách tồn diện về đức, trí, thể, mĩ,
tình cảm quan hệ xã hội thì việc chăm sóc giáo dục và nuôi dưỡng trẻ theo khoa
học là hêt sức quan trọng và cần thiết. Vì vậy mà việc tổ chức cho trẻ ăn bán trú
tại trường là vô cùng cần thiết và bữa chính chiều cũng hết sức quan trọng
không thể thiếu trong thực đơn hàng ngày của trẻ. Nó bổ xung nguồn dinh
dưỡng và cung cấp thêm năng lượng cho trẻ trong ngày giúp trẻ có đủ dưỡng
chất cần thiết cho mọi hoạt động và sự phát triển của trẻ, giúp giảm tỷ lệ suy
dinh dưỡng.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc chăm sóc sức
khỏe cho trẻ trong nhóm lớp. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
ban lãnh đạo bổ xung cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Châu Nga, ngày 27 tháng 12 năm 2020.
NGƯỜI THỰC HIỆN
Hoàng Thị Hằng.
20
21
22