TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ BỀN VỮNG CỦA TỔ
CHỨC TÀI CHÍNH VI MƠ Ở VIỆT NAM
…, tháng… năm 2021
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tổ chức tài chính vi mơ là một dạng doanh nghiệp xã hội đặc biệt với mục tiêu hoạt động là cung cấp
dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, họ gia đình có thu nhập thấp, doanh nghiệp siêu
nhỏ. Tài chính vi mơ đóng vai trị hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là
công cuộc giảm nghèo đói và phát triển xã hội tại các quốc gia đang phát triển.
Tại Việt Nam, ngành tài chính vi mơ qua gần 3 thập kỷ đã và đang khẳng định được tầm quan trọng trong
việc hỗ trợ những người có thu nhập thấp, người nghèo được tiếp cận với dịch vụ tài chính – ngân hàng,
đặc biệt là giúp họ có được nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần cải thiện đời
sống.
Phát triển tài chính vi mơ bền vững là mục tiêu quan trọng của ngành tài chính vi mơ Việt Nam trong quá
trình hội nhập và phát triển. Với khung pháp lý ngày càng hoàn thiện, các quy định liên quan towus tài
chính vi mơ chính thức là “tiêu chuẩn” để các tổ chức tài chính vi mơ hướng tới mục tiêu bền vững thể
chế. Có nhiều mức độ bền vững khác nhau trong tài chính vi mơ như: bền vững hoạt động (OSS), bền
vững tài chính (FSS), bền vững thể chế (ISS), trong đó, mức độ bền vững thể chế là cao nhất, thể hiện sự
hoàn thiện của tổ chức tài chính vi mơ đó và là cơ sở để tổ chức tài chính vi mơ xây dựng, củng cố uy tín
của mình. Trong đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mơ Việt Nam đến 2020, mục tiêu của
đề án cũng rất tập trung cho sự phát triển bền vững, cụ thể “xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức tài
chính vi mơ an toàn, bền vững, hướng tới phục vụ người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp
siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã
hội và giảm nghèo bền vững”
Hiện nay, mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mơ ở Việt Nam rất khác nhau và nhiều tổ chức tài
chính vi mơ Việt Nam chưa đạt tới độ bền vững cần thiết. Các vấn đề cần giải quyết từ cả phía các tổ chức
tài chính vi mơ và các nhà lập pháp, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính vì ngành tài chính
vi mơ phát triển bền vững trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Bởi vậy, nhóm 11 chúng em chọn đề tài “Mức độ bền vững của tổ chức tài chính vi mơ chính thức ở Việt
Nam” để làm đề tài thảo luận.
1.2. Mục đích, đối tượng, phạm vi
-
Mục tiêu cơ bản:
•
Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về sự bền vũng của tổ chức tài chính vi mơ, tập trung vào ba
mức độ: bền vững hoạt động (OSS), bền vững tài chính (FSS), và bền vững thể chế (ISS).
Các chuẩn mực OSS, FSS và ISS được tổng kết theo thông lệ quốc tế và theo quy định của
Việt Nam.
3
•
Tổng kết các kinh nghiệm thành công và thất bại trong việc phát triển bền vững tài chính vi
mơ trên thế giới và bài học cho Việt Nam
•
Đánh giá tổng quan về ngành tài chính vi mơ ở Việt Nam
•
Phân tích thực trạng mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mơ tại Việt Nam trên 3
mức độ: OSS, FSS, ISS, đồng thời so sánh với các tổ chức tài chính vi mơ ở 1 số quốc gia
trong khu vực; đánh giá những kết quả đạt được; hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong
quá trình phát triển bền vững của các tổ chức tài chính vi mơ ở Việt Nam
•
Đề xuất 1 số khuyến nghị đối với các tổ chức tài chính vi mơ, ngân hàng nhà nước, bộ tài
chính và các bên liên quan để giúp phát triển bền vững các tổ chức tài chính vi mơ ở Việt
Nam.
-
Đối tượng nghiên cứu: là mức độ bền vững của các tổ chức tài chính vi mô hướng tới phục vụ
người nghèo, người thu nhập thấp và các đối tượng khách hàng tài chính vi mơ khác.
-
Phạm vi nghiên cứu: các tổ chức tài chính vi mô Việt Nam.
CHƯƠNGII: LÝ THUYẾT VỀ MỨC ĐỘ BỀN VỮNG CỦA TỔ CHỨC TÀI
CHÍNH VI MƠ
2.1. Tổng quan về tổ chức tài chính vi mơ
2.1.1 Lịch sử phát triển của tài chính vi mơ
Cách đây 200 năm, quỹ tín dụng vi mô đầu tiên được Jonathan Swift lập ra tại Alien. Ban đầu, ông bỏ ra
500 bảng tiền túi để xoay vòng cho các chủ cửa hàng vay trong lúc khó khăn với điều kiện là có hai người
hàng xóm đứng ra bảo lãnh rằng: Ông ta là người tốt bụng, chăm chỉ và không nghiện ngập (Aidan Hollis,
1999). Mô hình này sau đó phát triển thành quỹ Irish Loan fund, được nhân rộng và phát triển rất mạnh
tại Ailen trong thời kì này.
Trong thế kỉ XIX, các nhóm tiết kiệm và tín dụng đã phát triển khắp các khu vực nơng thơn và các thành
phố nghèo đói ở Châu Âu dưới các hình thức: Ngân hàng nhân dân (People’s Bank), Liên hiệp tín dụng
(Credit Unions), và hợp tác xã tín dụng (Savings and Credit Cooperatives).
Friedrich Wihelm Raiffeisen và cộng sự của ơng đã phát triển hình thức liên hiệp tín dụng. Họ đã thúc đẩy
sự quan tâm đến việc hỗ trợ người dân ở khu vực nơng thơn thốt khỏi sự phụ thuộc vào người cho vay và
tăng cường phúc lợi cho người nghèo. Tư năm 1870, các liên hiệp tín dụng phát triển mạnh, mở rộng ra
khỏi vùng Rhine và các bang khác của nước Đức và phát triển nhanh chóng sang các nước Châu Âu, Bắc
Mỹ, cuối cùng được nhân rộng sang các nước đang phát triển. Tại Indonesia, ngân hàng Perkreditan
Rakyat (BPR) được lập ra năm 1895. BPR trở thành mạng lưới tài chính vi mơ lớn nhất Indonesia với gần
9.000 thành viên.
4
Đầu những năm 1900, hàng loạt các ngân hàng tương tự BPR ra đời tại khu vực nông thôn ở Châu Mỹ
Latinh, với mục tiêu là hiện đại hóa nơng thơn. Họ đưa ra các tiêu chí như sau: phát triển thương mại khu
vực nông thôn; tập trung các nguồn tiết kiệm nhàn rỗi; gia tăng đầu tư thông qua tín dụng; và xóa bỏ các
tập tục lạc hậu. Đa số các ngân hàng cho người nghèo này thì khơng thuộc sở hữu của người nghèo như ở
Châu Âu mà được sở hữu bởi chính phủ hoặc tư nhân. Qua một thời gian hoạt động thì các ngân hàng này
càng không hiệu quả.
Giai đoạn từ những năm 1950 đến năm 1970, chính phủ và các nhà tài trợ quan tâm đến việc hỗ trợ tín
dụng cho các nơng dân với mục tiêu tăng năng suất và thu nhập cho họ. Các chương trình này cố gắng hỗ
trợ người nghèo tiếp cận các khoản vay bằng việc tài trợ lãi suất. Tuy nhiên, các chương trình tài trợ này
hiếm khi thành công. Các ngân hàng nông nghiệp bị tổn thất lớn về vốn do lãi suất thấp và khả năng hoàn
trả kém của người nghèo nên nguồn vốn này nhiều khi không đến tay người nghèo thực sự mà tập trung
vào các đối tượng khá giả.
Trong khi đó, vào những năm 1970, tại Bangladesh, Brazil và một vài nước khác đã thực hiện chương
trình cho vay nhỏ đối với nhóm phụ nữ nghèo để đầu tư sản xuất nhỏ. Cơ sở của mơ hình này là sự đồn
kết trong nhóm, cả nhóm sẽ phải đứng ra bảo đảm việc chi trả cho từng thành viên trong nhóm. Các
chương trình cho vay theo nhóm nhỏ nà đặt trọng tâm vào tín dụng cho các hoạt động tạo thu nhập (đôi
khi bao gồm cả tiết kiệm bắt buộc) cho các đối tượng rất nghèo, thường là phụ nữ. Các tổ chức tín dụng vi
mô tiêu biểu trong giai đoạn này là: ACCION, SEWA Bank, Grammeen Bank.
Trong suốt những năm 1980, chính sách bao cấp tín dụng nơng nghiệp đã bộc lộ các điểm yếu trong các
chương trình tín dụng, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ và chi phí quản lý cao. Các ngân hàng nông nghiệp
bị vỡ nợ, hướng tiếp cận tín dụng trực tiếp bị thất bại, thay thế đó là phương pháp tiếp cận một cách hệ
thống hơn và cách thức giám sát phù hợp hơn.
Đến những năm 1990, khái niệm tài chính vi mơ (microfinace) đã bắt đầu xuất hiện và thay thế cho khái
niệm tín dụng vi mơ (microcredit). Hệ thống tài chính vi mơ phát triển mạnh mẽ tại nhiều quốc gia, nó
khơng chỉ cung cấp các dịch vụ tín dụng mà cịn cung cấp các dịch vụ tài chính khác như: tiết kiệm, bảo
hiểm và chuyển tiền.
Du nhập vào Việt Nam từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX bằng nhiều con đường, tài chính vi mơ đã
bước đầu giành được sự quan tâm của cả người dân lẫn các nhà đầu tư. Lịch sử hình thành và phát triển
tài chính vi mơ ở Việt Nam được chia thành bốn giai đoạn: Giai đoạn khởi đầu; Giai đoạn mở rộng nhan;
Giai đoạn suy thoái và Giai đoạn chuyển đổi chính thức và phát triển theo chiều sâu.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tài chính vi mơ
2.1.2.1. Khái niệm
-
Phương pháp phát triển kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho cư dân thu nhập thấp.
Các giao dịch tài chính tương đối nhỏ, đặc biệt là cung cấp tín dụng nhỏ cho các doanh nghiệp vi
mô và/hoặc cá nhân và huy động tiết kiệm nhỏ của họ.
Cung cấp dịch vụ tài chính cho những người khơng tiếp cận được với hệ thống tài chính chính
thức.
5
-
Cấp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp các khoản vay nhỏ (gọi là tín dụng vi mơ), nhằm mục
đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ.
2.1.2.2. Đặc điểm
-
Khoản vay nhỏ, đặc trưng vốn lưu động.
Thay thế tài sản thế chấp bằng tín dụng và tiết kiệm bắt buộc.
Những khoản vay lớn hơn và tiếp theo phụ thuộc vào tình hình hồn trả.
Tổ chức điểm thu/phát vốn thuận tiện ngay tại khu dân cư sinh sống.
Phương pháp hoàn trả phù hợp với luồng tiền mặt của người dân.
Các sản phẩm tiết kiệm tin cậy.
Nâng cao sự gắn kết cộng đồng.
2.1.2.3. Vai trò
-
-
Vai trò xã hội của tài chính vi mơ:
• Tăng cơ hội tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân nơng thơn, tăng cường năng lực xã
hội.
• Tăng thu nhập cho hộ nghèo, cải thiện mức độ tiếp cận giáo dục cho trẻ em, cải thiện tình
hình sức khỏe, chế độ dinh dưỡng.
• Tạo kênh tiếp cận vốn quan trọng cho người nghèo tại các địa bàn khó khăn, đặc biệt là
đối với phụ nữ.
• Đa dạng hóa nguồn thu nhập của hộ nghèo, giảm nguy cơ tổn thương về kinh tế và nâng
cao mức sống.
• Tạo ra mối liên kết cộng đồng, nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.
Vai trò kinh tế của tài chính vi mơ:
• Huy động tiết kiệm.
• Tái phân bổ tiết kiệm cho đầu tư.
• Tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại, hàng hóa và dịch vụ.
• Cơng cụ đắc lực để giảm nghèo đói, tăng thu nhập, thốt nghèo bền vững cho người
nghèo.
2.1.2.4. Các bên liên quan trong hoạt động tài chính vi mô.
Các tổ chức tài trợ cho hoạt động của tổ chức tài chính vi mơ (tài trợ vốn)
Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mơ
Các tổ chức phối hợp
Khách hàng của tổ chức tài chính vi mô
6
Các tổ chức tài trợ cho hoạt động của các TCTCVM:
Chính phủ.
Các nhà tài trợ quốc tế.
Các tổ chức phi chính phủ quốc tế.
Phương thức tài trợ:
Tài trợ cho xây dựng năng lực thể chế.
Tài trợ để trang trải những thiếu hụt trong quá trình hoạt động.
Tài trợ vốn vay hoặc tài sản.
Cấp vốn để cho vay.
Các hạn mức tín dụng.
Bảo lãnh vốn thương mại.
Trợ giúp về kĩ thuật.
Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính vi mơ:
Khu vực chính thức: Các tổ chức tài chính chính thức được cấp phép và hoạt động dưới sự giám
sát của cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức này tuân thủ theo các quy định pháp luật.
Khu vực bán chính thức: Là các tổ chức xã hội có cung cấp dịch vụ tài chính vi mơ nhưng chưa
đủ điều kiện được cấp phép hoạt động như tổ chức chính thức.
Khu vực khơng chính thức: Những tổ chức này hoạt động ngồi cơ cấu và sự kiểm soát của nhà
nước và thường là các hoạt động tự phát của các nhóm.
Các tổ chức phối hợp:
Các tổ chức xã hội.
Các tổ chức chính trị xã hội.
Các tổ, nhóm.
Khách hàng của tổ chức tài chính vi mơ: Thường là những người nơng dân nhỏ, những người làm
nghề dịch vụ, thợ thủ công và những người sản xuất nhỏ.
-
2.1.3. Tổ chức tài chính vi mơ.
2.1.3.1. Khái niệm.
-
-
Là các trung gian tài chính chun cung cấp các dịch vụ tài chính cho đối tượng khách hàng là
người nghèo, những người sản xuất nhỏ, các nhóm cá nhân kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ
hoặc siêu nhỏ (Luật các tổ chức tín dụng 2010).
Tổ chức cung cấp các dịch vụ tài chính cho khách hàng nghèo hơn và dễ bị tổn thương hơn so với
khách hàng truyền thống của ngân hàng, những doanh nghiệp siêu nhỏ.
Các tổ chức mà hoạt động chính của nó là hoạt động tài chính vi mơ.
Tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính cho người nghèo, chủ yếu là tín dụng và tiết kiệm.
Trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính vi mơ cho khách hàng khó tiếp cận hoặc
khơng tiếp cận được tới khu vực tài chính chính thức.
2.1.3.2. Mơ hình tổ chức tài chính vi mơ:
-
Các loại tổ chức tài chính vi mơ:
• Hợp tác xã – Cooperaatives.
• Tổ chức phi chính phủ – NGOs (Non Government Organization).
• Định chế tài chính phi ngân hàng – NBFIs (Nonbank Financial Institutions).
• Ngân hàng – Banks.
7
2.1.3.2. Chức năng.
-
Trung gian tài chính.
Trung gian xã hội.
2.1.3.2. Vai trị.
-
Tạo ra kênh tiếp cận tài chính quan trọng cho người nghèo (thúc đẩy tài chính tồn diện).
Tăng năng lực xã hội của người nghèo.
Tăng thu nhập cho hộ nghèo.
Thu hẹp khoảng cách để hướng tới nền kinh tế cân bằng tại các quốc gia đang phát triển.
2.1.3.2. Hoạt động cơ bản của tổ chức tài chính vi mơ.
-
-
-
-
Trung gian tài chính:
• Dịch vụ tín dụng.
• Bảo hiểm vi mơ.
• Dịch vụ thanh tốn.
• Thẻ tín dụng.
• Cho th vi mơ.
Trung gian xã hội:
• Hình thành nhóm.
• Đào tạo và nâng cao năng lực.
• Xây dựng tính liên kết.
Dịch vụ phát triển doanh nghiệp:
• Tiếp thị.
• Đào tạo cơng nghệ.
• Đào tạo quản lý kinh doanh.
• Đào tạo sản xuất.
Dịch vụ xã hội:
• Giáo dục.
• Y tế dinh dưỡng.
• Đào tạo xóa mù.
2.2. Bền vững của TCTCVM: Thơng lệ quốc tế và quy định ở Việt
2.2.1. Quan điểm và sự cần thiết về tính bền vững
Có nhiều quan điểm khác nhau về tính bền vững của TCTCVM. Tính “bền vững” là “tồn tại lâu dài”. Phát
triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng nhu cầu của thế hệ mai sau (UN, 1992). Sự bền vững của tổ chức là sự phát triển và cân
bằng của 4 nhóm yếu tố: khách hàng, các quy trình nội bộ, đào tạo và nhân viên, và tài chính của tổ chức
(Pau Niven, 2009).
Mức độ an tồn và thu nhập của TCTCVM cần được đảm bảo để giúp TCTCVM hoạt động lâu dài, giảm
thiểu rủi ro, có hiệu quả kinh tế phù hợp. Đây là điều kiện tối cần thiết cho hoạt động bền vững của
8
TCTCVM. Tuy vậy, để phân biệt chức năng xã hội và chức năng tài chính của TCTCVM so với các loại
hình thương mại khác, hai vấn đề lớn TCTCVM cần phải cân bằng được là:
-
Đảm bảo lợi ích của khách hàng trên cả giác độ tài chính (thu nhập và chi phí phù hợp đối với
khách hàng; khách hàng được hưởng lợi từ các hỗ trợ phi tài chính, đặc biệt là các dịch vụ nâng
cao năng lực và phát triển kỹ năng, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần).
- Đảm bảo lợi ích của cộng đồng, xã hội, mơi trường (các hoạt động của TCTCVMcó tác động tốt
tới sự phát triển chung của cộng đồng, tạo ra các hiệu ứng tốt về xã hội, cũng như không gây ra
các ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên).
Các TCTCVM thành cơng và tự vững có những đặc trưng sau:
- Biết rõ thị trường của mình, tiếp cận rộng và sâu tới khách hàng.
- Áp dụng chính sách lãi suất thị trường để đảm bảo tự vững về hoạt động và tài chính, với giả thiết
người nghèo sẵn sàng trả giá vì mục tiêu tiếp cận và thuận tiện.
- Sử dụng các kỹ thuật đặc biệt để giảm thiểu chi phí hành chính như: thủ tục đơn giản, phi tập
trung hóa việc thẩm định khách hàng.
- Sử dụng các kỹ thuật đặc biệt để đảm bảo khả năng trả nợ cao như: cho vay theo nhóm đồng trách
nhiệm, giám sát người vay vốn, động lực trả nợ cao đối với khách hàng, cho vay tăng dần theo
chu kỳ, tiết kiệm bắt buộc.
- Cung ứng thêm các hoạt động hỗ trợ khách hàng như đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật…
2.2.2. Các tiêu thức theo Thơng lệ Quốc tế về tính bền vững của TCTCVM
Các chỉ tiêu đo lường sự bền vững của TCTCVM tương đối đa dạng, tập trung vào ba chỉ tiêu sau:
Thứ nhất, Tự bền vững về hoạt động (OSS) Tỷ số tự bền vững về hoạt động (OSS) thể hiện mối quan hệ
giữa thu nhập hoạt động và tổng chi phí hoạt động (bao gồm cả khấu hao và dự phòng rủi ro). Các nhà tài
trợ và nhà quản lý TCTCVM sử dụng chuẩn tiêu biểu này để đánh giá xem TCTCVM đã tự trang trải
được các chi phí hoạt động bằng thu nhập từ hoạt động hay chưa.
Tỷ lệ cho biết điểm hòa vốn của tổ chức TCVM tại đó thu nhập hoạt động bằng với tổng chi phí. Các tổ
chức TCVM trẻ, chưa trưởng thành có thể mất một vài năm để đạt điểm hịa vốn này. Một tổ chức TCVM
được coi là bền vững về hoạt động nếu điều này có nghĩa là tổ chức TCVM có thể trang trải tồn bộ chi
phí hoạt động bằng nguồn thu từ hoạt động. Tuy nhiên, thông lệ quốc tế cho thấy, để đạt được độ bền
vững hoạt động lâu dài thì OSS nên lớn hơn 120% (IFAD, 2000).
Thứ hai, Tự bền vững về tài chính (FSS) Tỷ số tự bền vững về tài chính (FSS) cũng đo lường xem mức
độ thu nhập trang trải các chi phí hoạt động của một TCTCVM có điều chỉnh theo lạm phát và loại bỏ tác
động của trợ cấp. Các điều chỉnh này nhằm làm rõ tình hình tài chính của một TCTCVM sẽ như thế nào
nếu khơng có các khoản trợ cấp, khi vốn được huy động trên thị trường thương mại, thay vì từ nguồn viện
trợ hoặc tài trợ ưu đãi của các nhà tài trợ, và khi tính tới chi phí từ lạm phát. FSS được tính bằng công
thức sau:
Tương tự như OSS, TCTCVM được coi là tự bền vững về tài chính nếu FSS>100%.
9
Thứ ba, Thu nhập rịng trên tổng tài sản bình quân ROA – Return on Average Assets (còn được gọi là
ROAA) Chỉ tiêu này đo lường mức độ sinh lời trên tổng tài sản bình quân của TCTCVM. ROA được tính
bằng cơng thức sau:
Tài sản bình qn được sử dụng, vì tổ chức sẽ được đo lường trên tổng các hoạt động tài chính, bao gồm
các quyết định đầu tư tài sản cố định hay đất đai, nhà cửa (nói cách khác, sử dụng vốn vào mọi hoạt động
đầu tư có thể sinh lời). Tỷ lệ này càng cao, chứng tỏ khả năng sinh lời của TCTCNT trên một đồng giá trị
tài sản càng lớn, bao gồm cả tài sản khơng tham gia trực tiếp vào hoạt động chính như tài sản cố
định.ROA là một chỉ tiêu quan trọng để phân tích khi nào cơ cầu của kỳ hạn cho vay và giá cho vay sẽ bị
thay đổi.
Thứ tư, Bền vững về thể chế ISS (Institutional Self-Sustainability)
Về chỉ số, ISS theo tiêu chuẩn khuyến cáo của tổ chức Planetfinance gồm 4 tiêu chí cơ bản sau:
-
Cấu trúc quản trị và tư cách pháp lý của tổ chức (có pháp nhân và có sự tách bạch giữa Chủ sở
hữu, Ban Quản trị và Ban Điều hành).
Tổ chức có kế hoạch chiến lược (Tầm nhìn, sứ mệnh và các mục tiêu phát triển).
Tổ chức có báo cáo tài chính đúng theo chuẩn mực và được kiểm toán độc lập hàng năm.
Tổ chức có hệ thống quản lý thơng tin (MIS) chun nghiệp và minh bạch Ngồi ra, cịn một số
chỉ tiêu đo lường tính bền vững như chỉ số phụ thuộc vào bao cấp (SDI – Subsidy Independence
Index), thu nhập ṛng trên vốn chủ sở hữu bb́nh quân (ROE).
Thứ năm, Mối quan hệ giữa tính bền vững và mức độ tiếp cận
Hai vấn đề, mức độ tiếp cận và tính bền vững, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính bền vững là cơ sở để
TCTCVM mở rộng tiếp cận và khi mở rộng tiếp cận thì TCTCVM có thể đảm bảo được khả năng bền
vững về tài chính do mở rộng được cơ sở khách hàng, giảm thiểu chi phí hành chính bình qn trên một
khách hàng. Nếu TCTCVM bền vững nhưng không đạt được mức độ tiếp cận tốt, xa rời khách hàng mục
tiêu ban đầu hoặc có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu cao, tổ chức đó sẽ không tồn tại được.
2.2.3. Quy định của Việt Nam về tính bền vững thể chế của các TCTCVM
Với mục tiêu hướng tới một ngành TCVM bền vững, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiên phong trong
việc tham mưu cho Chính phủ xây dựng Đề án phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020 với
mục tiêu đặt ra là “Xây dựng và phát triển hệ thống TCTCVM an toàn, bền vững, hướng tới phục vụ
người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, góp phần thực hiện
chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững”.
Các quy định liên quan đến sự bền vững của tổ chức TCVM được nêu tại Luật Các TCTD, các Nghị định
của Chính phủ và Thơng tư của ngân hàng nhà nước. Về cơ bản, có thể tóm tắt các quy định này theo tiêu
chí bền vững như sau:
Thứ nhất, Bền vững về thể chế hay nói cách khác là khả năng tồn tại của tổ chức
10
-
Phải được NHNN cấp phép, quản lý, giám sát và đăng ký doanh nghiệp dưới hình thức cơng ty
TNHH một thành viên hoặc hai thành viên.
Có cơ cấu sở hữu và cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý đảm bảo phát triển bền vững cả từ góc độ tài
chính và tiếp cận nhóm khách hàng mục tiêu.
Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng (khoản 2 Điều 32), tổ chức TCVM phải đảm bảo cơ cấu tổ
chức gồm Hội đồng thành viên (các Ủy ban giúp việc Hội đồng thành viên tối thiểu phải có Ủy ban quản
lý rủi ro và Ủy ban nhân sự), Ban Kiểm sốt (có bộ phận giúp việc và bộ phận kiểm toán nội bộ) và Ban
Điều hành đứng đầu là Tổng Giám đốc (Giám đốc). Nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận phải được
phân định rõ tại Điều lệ của tổ chức trên cơ sở phải đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật Các TCTD.
Thứ hai, Bền vững và lành mạnh về tài chính hay nói cách khác đảm bảo được khả năng chi trả tại bất kỳ
thời điểm nào cũng như dự báo trong tương lai và có khả năng duy trì và mở rộng quy mơ hoạt động
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới tính bền vững của TCTCVM
2.3.1. Nhân tố bên ngoài TCTCVM
Thứ nhất, luật pháp điều chỉnh và theo dõi giám sát hoạt động của tổ chức tài chính vi mơ.
Luật là một tập hợp những quy định có tính ràng buộc do một cơ quan pháp luật ban hành, nhằm quy định
về cách thức hoạt động của các thể chế và cá nhân. Giám sát là quá trình theo dõi được thực hiện bởi một
cơ quan bên ngoài nhằm xác định mức độ tuân thủ pháp luật và củng cố quá trình thực thi pháp luật. Nói
tóm lại, quy định là một hệ thống qui tắc nhằm điều chỉnh các hoạt động tài chính cịn giám sát đảm bảo
việc thực thi và tn thủ với những qui định đó.
Khi TCVM phát triển, các nhà hoạt định chính sách tài chính nhận ra rằng các hoạt động này cần được
điều chỉnh và rằng các khung luật pháp hiện hành cần được chỉnh sửa để có thể điều chỉnh và giám sát
hoạt động của khối này. Họ nhận thấy nhu cầu cần thiết phải hình thành một khn khổ chính sách và
lồng ghép một phần hoạt động TCVM vào pháp luật hiện hành nhằm điều chỉnh các thể chế cung cấp dịch
vụ tài chính.
Trong ngành TCVM, hệ thống chính sách điều tiết và giám sát hoạt động của các TCTCVM đóng vai trị
vơ cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của những tổ chức này. Một mặt chính sách đưa ra các
chuẩn mực và quy chế hoạt động cho TCTCVM nhằm đảm bảo mức độ an toàn cho những khoản tiền gửi
của dân chúng tại tổ chức đó. Mặt khác chính sách có thể là địn bẩy thúc đẩy tính sáng tạo, cạnh tranh và
tăng trưởng của TCTCVM, đặc biệt với trường hợp những tổ chức không đăng ký cấp phép với ngân
hàng trung ương. Ở góc độ này, quy định có tác dụng thúc đẩy các TCTCVM được thành lập mới hoặc
cải thiện tình trạng hoạt động của các tổ chức đã và đang hoạt động. Cụ thể, chính sách có thể thúc đẩy
khối lượng dịch vụ tài chính cung cấp cho người nghèo và gia tăng quy mô khách hàng hưởng dịch vụ.
Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy đối với trường hợp luật điều chỉnh theo hướng thận trọng, một khn
khổ pháp lý mới, ít gánh nặng, đặc biệt khi các tổ chức tài chính vi mơ đang tồn tại chưa hồn tồn đủ
năng lực chuyển đổi, có thể tạo ra hàng loạt những tổ chức nhận tiền gửi có trình độ kém và do vậy gây
khó khăn cho cơ quan giám sát.
11
Thứ hai, chính sách tiền tệ và lãi suất Kinh tế vĩ mơ có ảnh hưởng sâu rộng đến sự tồn tại và phát
triển của các tổ chức tín dụng nói chung.
Tùy từng bối cảnh, chính sách có thể kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của các tổ chức tài chính, trong
đó có TCTCVM, đặc biệt là nhóm đã được cấp phép bởi Ngân hàng nhà nước và hoạt động như một thực
thể chính thống trong hệ thống tài chính. Quy định về trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng hoạt
động ở phân đoạn thị trường cấp trên có thể nhanh chóng làm sụt giảm doanh thu và hủy diệt các
TCTCVM được cấp phép, hoạt động ở phân đoạn thị trường cấp thấp với phương thức kinh doanh hoàn
toàn khác biệt.
Trong trường hợp của Việt Nam, chính sách lãi suất trợ cấp chính phủ áp cho Ngân hàng Chính sách Xã
hội có ảnh hưởng quyết định đến khả năng trang trải chi phí của ngân hàng. Mặt khác, chính sách này
cũng gây ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và cản
trở ngân hàng này chuyên nghiệp hóa sản phẩm dịch vụ dành cho phân cấp khách hàng nghèo và thu nhập
thấp ở vùng nông thơn. Ngồi ra, lạm phát cũng là một yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng bền
vững của TCTCVM. Lạm phát ăn mòn vốn chủ sở hữu và gây giảm doanh thu thực của TCTCVM. Các
TCTCVM sẽ không thể duy trì khả năng bền vững hoặc đạt mục tiêu bền vững nếu khơng có chiến lược
đối phó với lạm phát với chính sách giá linh hoạt và duy trì cơ cấu chi phí hợp lý.
Thứ ba, Chiến lược phát triển ngành tài chính vi mơ cấp quốc gia
Chiến lược là kim chỉ nam dẫn lối cho sự phát triển của một nền kinh tế hoặc một ngành kinh tế. Sự hiện
diện của chiến lược thể hiện một cách tiếp cận có cân nhắc, có tổ chức, điều phối nguồn lực, tập trung vào
các vấn đề ưu tiên, nhằm đến một mục tiêu thông thường là thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và đồng đều
của nền kinh tế. Ngược lại, việc thiếu chiến lược hoạt động sẽ dẫn đến hậu quả nền kinh tế hoặc ngành
kinh tế đầu tư kém hiệu quả, kém đồng bộ, gây lãng phí, khơng phát huy tối đa nguồn lực, dẫn đến kết
quả phát triển rời rạc, manh mún, kém chất lượng, tăng trưởng chậm và không đáp ứng được nhu cầu của
người dân và bắt kịp với xu hướng quốc tế. Tùy thuộc tình trạng ngành TCVM, một chiến lược TCVM
cấp quốc gia có thể có nhiều cách tiếp cận và các ưu tiên khác nhau. Tuy nhiên, một điểm chung của tất
cả chiến lược cấp quốc gia là hướng đến xây dựng ngành TCVM cạnh tranh, năng động, hoạt động dựa
trên thông lệ tốt nhất, phục vụ đông đảo đối tượng nghèo và thu nhập thấp.
Thứ tư, cơ chế trợ vốn và tính thanh khoản cho các tổ chức tài chính vi mơ
Cũng giống như các ngân hàng thương mại, TCTCVM cần huy động vốn từ các kênh khác nhau trên thị
trường nhằm mở rộng qui mô khách hàng, phát triển thêm sản phẩm và dịch vụ, và cải thiện tính thanh
khoản. Theo ngun lý kinh tế quy mơ, tính bền vững của TCTCVM lệ thuộc rất lớn vào khả năng phát
triển khách hàng. Các tổ chức có xu hướng bền vững thường mong muốn mở rộng địa bàn hoạt động, thu
hút và nắm giữ khách hàng, nhanh chóng đạt điểm hịa vốn và tiến tới kinh doanh có lãi. Điều này thường
khơng dễ dàng nếu TCTCVM có nguồn vốn hạn hẹp, kém đa dạng và thiếubền vững. Do vậy, khả năng
hút vốn trên thị trường có vai trị quan trọng đặc biệt nếu TCTCVM nhắm đến mục tiêu bền vững trong
vòng 3-5 năm từ khi thành lập. Đối với những TCTCVM nỗ lực thu hút tiền gửi từ dân cư làm nguồn vốn
hoạt động, nhằm đảm nhận trách nhiệm cao hơn và có khoản nợ với nhiều khách hàng, cần xây dựng khả
năng ứng phó với nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng bất cứ lúc nào; Điều tiết nguồn vốn và dòng tiền để
giải quyết khả năng thanh khoản trở nên vô cùng quan trọng đối với TCTCVM muốn huy động tiền gửi
12
với uy tín cao và có lợi nhuận. Có thể kết luận rằng, cơ chế tiếp cận vốn trên thị trường ảnh hưởng mạnh
mẽ đến khả năng và thời gian đạt bền vững của TCTCVM.
Thứ năm, quan điểm về cách thức đạt bền vững của TCTCVM
Hiện nay trên thế giới phổ biến quan điểm ưu tiên sự bền vững của TCTCVM vì vậy sử dụng cách tiếp
cận khách hàng với lãi suất bền vững cho TCTCVM. Phương pháp tiếp cận này cùng với việc thiếu các
biện pháp bảo vệ khách hàng dẫn đến khách hàng ngày càng kiệt quệ về kinh tế và không trả được nợ, kết
quả là sự bền vững của TCTCVM về dài hạn cũng không đạt được. Điển hình cho hiện tượng trên là sự
kiện khủng hoảng TCVM ở Ấn độ 2008. Ở Việt Nam thì Chính phủ dường như nghiêng theo quan điểm
ưu tiên sự bền vững của khách hàng TCVM phải đạt trước và là cơ sở cho TCTCVM bền vững. Đây là sự
bền vững có tính dài hạn, do đó Chính phủ đã đưa ra cách tiếp cận lãi thấp, hỗ trợ ban đầu rồi giảm dần.
Các TCTCVM ở Việt Nam tùy thuộc vào nguồn hỗ trợ để từ đó lựa chọn cách thức phù hợp để đạt đến sự
bền vững
2.3.2. Nhân tố bên trong (nhân tố thuộc về TCTCVM)
Thứ nhất, kế hoạch kinh doanh hướng tới mục tiêu bền vững trong dài hạn.
Bất cứ một tổ chức nào, đặc biệt là những tổ chức mong muốn có bước phát triển đột phá đều cần đến
một kế hoạch kinh doanh hướng vào tương lai Kế hoạch kinh doanh là một công cụ đặc biệt quan trọng
đối với một TCTCVM có định hướng hoạt động chuyên nghiệp và bền vững. Ở những thị trường TCVM
non trẻ như Việt Nam, bền vững tài chính là thách thức của số đông các tổ chức và thường là một trong
những mục tiêu quan trọng được đề ra trong kế hoạch kinh doanh và chỉ có thể đạt được nếu TCTCVM
kết hợp nhuần nhuyễn các nguồn lực của tổ chức với chiến lược và chiến thuật phù hợp với cơ hội và
thách thức trên thị trường. Kế hoạch kinh doanh chỉ rõ đường đi, nước bước và nguồn lực cần có để
TCTCVM từng bước phát triển qui mơ khách hàng, tăng trưởng doanh thu và tiến tới trang trải đầy đủ chi
phí hoạt động và tài chính của mình.
Thứ hai, Sản phẩm và dịch vụ, kênh phân phối đáp ứng nhu cầu của thị trường và khách hàng mục
tiêu.
Sự tồn tại và phát triển của một TCTCVM gắn chặt với mức độ tổ chức tài chính đó đáp ứng nhu cầu của
khách hàng thông qua sản phẩm và dịch vụ của mình. Đối với các TCTCVM được cấp phép và hoạt động
trong hệ thống tài chính chính thống, cạnh tranh và các nhu cầu liên tục thay đổi của khách hàng đòi hỏi
TCTCVM áp dụng phương thức thiết kế và phát triển sản phẩm dựa theo nhu cầu thị trường. Cách thức
này đặc biệt quan trọng khi TCTCVM phục vụ nhu cầu khách hàng ở phân đoạn thị trường cấp thấp vì
nhu cầu và các ưu tiên của khách hàng mục tiêu ở phân đoạn này vô cùng đa dạng. Dù khách hàng có
cùng nhu cầu với sản phẩm tín dụng, tiết kiệm, thanh khoản, đầu tư, cách thức tiếp cận khách hàng và
nhận thức của khách hàng về tổ chức cung cấp dịch vụ sẽ ảnh hưởng lớn đến q trình thiết kế, phát triển
sản phẩm. Ngồi ra, kênh phân phối cũng là một nhân tố quan trọng trong chiến lược gia tăng giá trị của
TCTCVM với khách hàng. Khi TCTCVM huy động tiết kiệm từ công chúng thì kênh phân phối cịn đóng
vai trị quan trọng hơn nữa vì khách hàng ln mong muốn có đơn vị an tồn và tin tưởng để chăm sóc tài
sản của họ. Trong nhiều báo cáo nghiên cứu thị trường, các đặc tính của kênh phân phối (ví dụ như: điều
kiện cơ sở vật chất và khả năng tiếp cận dễ dàng được xác định) là những lý do quyết định khi khách hàng
lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ khác nhau. Nắm chắc những đặc điểm này sẽ giúp TCTCVM thiết kế
13
những sản phẩm và dịch vụ và sắp đặt kênh phân phối thỏa mãn tối đa sự hài lòng của khách hàng, từ đó
phát triển được quy mơ, đạt tăng trưởng doanh thu và hướng tới bền vững.
Thứ ba, chính sách giá và khả năng sinh lời của danh mục cho vay
Chính sách giá là một q trình quản lý các yếu tố thị trường một cách chủ động và linh hoạt. Xây dựng
giá thành là quá trình một TCTCVM tổng hợp các hoạt động tiếp thị, cạnh tranh và các quyết định tài
chính nhằm xác định mức giá đem lại lợi nhuận cho TCTCVM. Trong TCTCVM hay bất kỳ doanh
nghiệp kinh doanh nào, hoạch định chính sách giá địi hỏi những thay đổi trong quyết định giá, khi nào
thay đổi, thay đổi như thế nào và ai sẽ ra quyết định. Cách duy nhất để có mức giá mang lại lợi nhuận là
từ bỏ những ý tưởng không tạo ra đủ giá trị để xác định chi phí. Chính sách giá đòi hỏi Ban điều hành của
TCTCVM thiết lập một tập hợp những qui định và chính sách về giá nhất quán với mục đích và chiến
lược hoạt động. Nếu mục đích của TCTCVM là hoạt động bền vững và có lợi nhuận, chính sách giá phải
được thiết lập để đạt mục tiêu này.
Thứ tư, năng lực quản trị Quản trị
Một trong những yếu tố thách thức tính bền vững của TCTCVM. TCTCVM phải đảm bảo gắn kết được
cơ cấu quản trị, chính sách, thủ tục và các tập quán với chiến lược kinh doanh, phương thức hoạt động và
rủi ro tổ chức phải đối mặt. Quản trị là một hệ thống kiểm tra, giám sát, cân đối các nguồn lực với sự
tham gia của các thành viên của TCTCVM và các tổ chức có liên quan, bao gồm cả Chủ sở hữu, Ban điều
hành, nhà tài trợ, cơ quan hoạch định chính sách, khách hàng. Để đạt được mục tiêu hoạt động bền vững
thì TCTCVM phải hình thành một hệ thống kiểm tra và giám sát vận hành trong nội tại và cả từ bên
ngoài. Hệ thống kiểm tra giám sát này giúp TCTCVM phát hiện và phòng ngừa rủi ro, hoạt động hiệu
quả, bền vững và hoàn thành sứ mệnh đề ra.
Thứ năm, quản lý tài chính .
Bền vững tài chính đi liền với khả năng quản lý tài chính hiệu quả. Quản lý tài chính hiệu quả là một hệ
thống những chiến lược, chính sách, thủ tục được vận dụng bởi TCTCVM nhằm đối phó với các rủi ro
như rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động, rủi ro về chiến lược, mà vẫn đảm bảo tối đa hóa các kết quả tài
chính của tổ chức. Quản lý tài chính hiệu quả là q trình liên tục đánh giá, đo lường, giám sát và quản lý
những rủi ro chính một cách có hệ thống trong một TCTCVM.
Thứ sáu, năng lực quản lý rủi ro và đối phó khủng hoảng .
Một TCTCVM phải đối diện với nhiều rủi ro, gồm: rủi ro về sở hữu và quản trị, rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro lãi suất và rủi ro về thanh danh... Rủi ro về quản trị và sở hữu thường
gặp ở những TCTCVM hoạt động dưới dạng các tổ chức phi chính phủ.Những tổ chức này thường được
nhà tài trợ cấp vốn để thực hiện các mục tiêu xã hội nên khơng có chủ sở hữu thực thụ. Do vậy, động cơ
giám sát kết quả tài chính và thiết lập cơ chế giám sát nội bộ của các tổ chức này thường thấp. Cơ quan
giám sát thường yêu cầu các tổ chức này chuyển thành các cơng ty có chủ sở hữu theo luật công ty trước
khi cho phép huy động tiết kiệm từ công chúng.
14
2.4. Phát triển bền vững TCVM - Kinh nghiệm quốc tế và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
2.4.1. Kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động để đảm bảo bền vững
•
Kinh nghiệm tài chính vi mơ ở các khu vực trên thế giới
Khu vực châu Âu và Bắc Mỹ
TCVM với đối tượng khách hàng là những người nghèo, và chủ yếu ở các nước đang phát triển. Nhưng
tại châu Âu, một lục địa già, với đa phần các nước đã thực hiện cơng nghiệp hố từ vài trăm năm nay, lại
có rất nhiều các tổ chức TCVM đang hoạt động. TCVM ở khu vực này chủ yếu hướng tới nhu cầu tìm
việc làm cho người thất nghiệp, tạo thêm thu nhập cho người lao động nghèo (nhất là tại Đông Âu, nơi có
tình trạng thất nghiệp cao) qua đó góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Vì những lao
động thất nghiệp có việc làm, đã khơng còn phải phụ thuộc vào trợ cấp thất nghiệp nữa. Bên cạnh đó, sự
phát triển của các doanh nghiệp nhỏ ở khu vực này nhờ vào các khoản vay từ dịch vụ TCVM, đóng góp
thêm thu nhập cho ngân sách, tạo ra nguồn cung hàng hoá đa dạng, đáp ứng cho nhu cầu dân cư và xã hội.
Tại Mỹ, từ khi Luật Đầu tư Công cộng ra đời vào năm 1977, đã yêu cầu bắt buộc nhiều ngân hàng
thương mại phải thực hiện việc đầu tư vào nhóm dân cư nghèo sinh sống tại các khu đô thị, thành phố lớn
và cả các vùng nơng thơn. Ban đầu chỉ có một vài tổ chức phải thực thi Điều Luật trên, sau một thời gian
thu được kết quả khích lệ, chính quyền liên bang đã mở rộng phạm vi áp dụng rộng hơn đến các tổ chức
tài chính, tín dụng trên cả nước. Nhưng khác với nhiều nơi, mặc dù phải quan tâm đến TCVM nhưng các
ngân hàng, tổ chức tài chính ở Mỹ thường thực hiện các nghiệp vụ TCVM thơng qua các tổ chức phi
chính phủ (NGOs), các tổ chức xã hội.
Khu vực Châu Phi
Tại châu Phi, có một hình thức tổ chức của các nhà cung cấp TCVM rất phát triển mang rất nhiều tên gọi
khác nhau ở tùy từng nước như Susus, Gamiyas... được hiểu là hiệp hội tín dụng, tiết kiệm quay vịng.
Hiệp hội này bao gồm nhiều thành viên, tập hợp nhau thành nhóm và tự thỏa thuận về việc đóng góp các
khoản tiết kiệm theo tuần, tháng. Lần lượt từng thành viên sẽ nhận được những khoản tiền nhất định, cho
đến những người cuối cùng trong nhóm. Thơng thường, các nhóm sẽ có một cách thức tiến hành tương tự
như việc quay xổ số nhằm chọn ra lần lượt từng người nhận vốn vay. Nhưng cũng có những trường hợp,
do nhu cầu khẩn cấp của một thành viên trong nhóm mà khoản tiền vốn sẽ được ưu tiên cho thành viên đó
nhận trước.
Khác với nhiều nơi, ở châu Phi, các tổ chức TCVM thường lựa chọn khách hàng vay thông qua việc kết
hợp với hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ hoặc tổ chức do Nhà nước sở hữu để triển khai các
dịch vụ TCVM. Freedom from Hunger (FFH) là một tổ chức quốc tế hoạt động ở châu Phi. Để tiến hành
cung cấp dịch vụ TCVM cho các nước ở khu vực này, FFH đã tìm kiếm các đối tác phù hợp với tiêu chí
hoạt động cũng như mơ hình của FFH. Chủ yếu những đối tác của FFH là các ngân hàng, hoặc các tổ
chức chính thức của Chính phủ. Đây có thể là các tổ chức chưa từng có kinh nghiệm trong việc cung cấp
dịch vụ TCVM, nên nhân viên sẽ được đào tạo và cung cấp các hỗ trợ kĩ thuật với các phương thức tài
chính phù hợp cho đối tượng thu nhập thấp. Sự phối hợp giữa FFH và các đối tác đảm bảo được rất nhiều
15
u cầu, sự chun mơn hóa về tài chính, giảm chi phí nhờ tận dụng mạng lưới của đối tác, tạo cơ hội
cung cấp các dịch vụ tài chính. Cách thức hợp tác trên rất phù hợp với các nước châu Phi, nơi ln có sự
bất ổn cả về chính trị, kinh tế, khn khổ luật pháp chưa hồn thiện, qua đó nhằm bảo hộ cho các hoạt
động tài chính của các tổ chức và cả khách hàng.
Khu vực châu Á
Ở khu vực châu Á, đây là nơi tập trung nhiều người nghèo nhất trên thế giới, hoạt động của các tổ chức
TCVM rất phát triển và thành công, ban đầu chỉ là những tổ chức TCVM phát triển có qui mơ nhỏ, hoạt
động thiếu tính bền vững. Các chi phí bình qn cho hoạt động cao hơn so với nhiều khu vực khác trên
thế giới. Nhưng từ những năm 1980 trở lại đây, TCVM khu vực này đã không ngừng mở rộng qui mơ
hoạt động do đã tìm ra những mơ hình tổ chức phát triển phù hợp.
Các mơ hình TCVM thành cơng nhất thế giới gồm Grameen Bank (Bangladesh), Nhóm tự quản - SHG
(Ấn Độ), Ngân hàng Bank Rakyat Indonesia - BRI (Indonesia).
SHG (The self-help group) là một nhóm tự quản gồm, phổ biến từ 10 đến tối đa 20 thành viên, trong đó
đa phần là phụ nữ. Nguồn vốn cho thành viên vay trong mỗi nhóm ban đầu là từ các khoản tiết kiệm của
nhóm, ngồi ra cịn các khoản khác như doanh thu, lãi, phí của hội viên. Ngồi ra, nhóm cịn tìm kiếm từ
các nguồn tài trợ như các ngân hàng thương mại, các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, tài trợ của Chính
phủ… Hầu hết các SHG đều có sự liên kết với các tổ chức khác, có thể tổ chức đó là các NGOs. Có
những SHG lại chọn hình thức liên kết với các ngân hàng, nhờ vào sự liên kết này mà các SHG có thêm
các nguồn tài chính, giúp nâng cao trình độ quản lý, khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, tiếp nhận
các kĩ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế và đời sống.
Nếu như các mơ hình TCVM thành cơng của châu Á đều thuộc sở hữu tư nhân thì BRI lại là một mơ hình
thành cơng khác thuộc sở hữu Nhà nước. Ban đầu, BRI chủ yếu cung cấp tín dụng bao cấp của Nhà nước
cho người nghèo, nhưng sau một thời gian, do hệ quả của tín dụng bao cấp mà BRI đã bị rơi vào tình
trạng khó khăn. Từ năm 1983 trở lại đây, BRI đã chia các hoạt động của mình ra thành các bộ phận riêng
biệt, bộ phận khách hàng lớn; bộ phận khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa; bộ phận khách hàng nghèo...
Trong đó, các bộ phận được tổ chức một cách riêng biệt và hạch toán độc lập. Tuỳ theo từng đối tượng
khách hàng mà BRI áp dụng các mức lãi suất khác nhau, đối với các doanh nghiệp, khách hàng lớn, mức
lãi suất khoảng 9 - 12%/năm; lãi suất cho vay khu vực nông thôn khoảng 20 - 24%, mức lãi suất được áp
dụng cho các đối tượng trên, căn cứ vào mức rủi ro, chi phí hoạt động và khơng có sự bao cấp.
•
Bài học kinh nghiệp cho sự phát triển tài chính vi mơ ở Việt Nam
Từ những phân tích về sự hình thành và phát triển TCVM ở các khu vực trên thế giới và những mơ hình
thành cơng, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để có thể phát triển bền vững TCVM ở Việt
Nam:
-
Nâng cao nhận thức đối với các hoạt động TCVM
TCVM bao gồm nhiều hoạt động, khơng chỉ cung cấp dịch vụ tín dụng mà cịn các dịch vụ thanh tốn,
bảo hiểm, các dịch vụ xã hội… nhưng cho đến nay, rất nhiều người cịn nhầm lẫn TCVM với tín dụng vi
mơ. Mặt khác, việc cung cấp các dịch vụ tài chính và dịch vụ xã hội không phải là một hoạt động từ thiện.
16
Hoạt động TCVM cần áp dụng các nguyên tắc kinh doanh lành mạnh, hoạt động theo hướng bù đắp đủ
chi phí và có lãi.
-
Các tổ chức TCVM cần có sự trợ giúp ban đầu của các nhà tài trợ và Chính phủ
Trong q trình hoạt động, khi mà các tổ chức TCVM theo đuổi các mục tiêu xã hội, hoặc đưa ra thêm
các dịch vụ khơng tính lãi hay mức lãi suất thấp sẽ được một số Chính phủ xem xét miễn thuế giá trị gia
tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Ban đầu khi mà các tổ chức TCVM chưa có khả năng huy động tiết
kiệm, có thể do qui định của luật pháp hoặc chưa huy động được số tiền tiết kiệm lớn. Lúc này, các nguồn
trợ giúp ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển của các tổ chức TCVM. Hệ thống tín dụng của các nước
như Ailen vào thế kỷ thứ 17, Đức và các nước châu Âu khác vào thế kỉ 19 đã chỉ rõ điều này, có thể ở
từng quốc gia sự hỗ trợ là rất khác nhau nhưng có vai trị quan trọng. Một số nước thông qua cách thức hỗ
trợ trực tiếp, nhưng đa phần đều có sự hỗ trợ gián tiếp như chính sách lãi suất ưu đãi, các khoản vốn góp
từ thiện của cộng đồng…
-
Xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô thuận lợi cho TCVM phát triển
Một trong những chính sách kinh tế vĩ mơ đầu tiên phải kể đến là chính sách lãi suất, lãi suất phải đủ bù
đắp được chi phí hoạt động, tình trạng mất vốn, tình trạng lạm phát. Như kinh nghiệm của Indonesia, kể
từ khi chính sách lãi suất được thay đổi theo hướng thị trường, các tổ chức TCVM được quyền quyết định
lãi suất cho vay theo đối tượng khách hàng. Những khoản vay nhỏ, rủi ro lớn thường được tính lãi suất
cao hơn còn những khoản vay lớn, rủi ro thấp được tính lãi suất thấp hơn.
-
Cần phải minh bạch, cơng khai về tài chính
Một trong những ngun nhân dẫn đến tình trạng người nghèo bị tính lãi suất q cao khi vay vốn, là do
các tổ chức TCVM đã không minh bạch. Một mặt, họ công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng
một tỉ lệ lãi suất thấp hơn, nhưng thực tế, đằng sau các khoản vay vốn là các khoản phí được tính thêm
làm cho lãi suất các khoản vay rất cao.
-
Hoạt động TCVM thực sự là lĩnh vực đem lại lợi nhuận
Qua mơ hình thành cơng của nhiều tổ chức TCVM cho thấy TCVM có khả năng sinh lời cao, không thua
kém bất kỳ một ngành kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Điều này, có cơ sở để tin tưởng rằng TCVM
có khả năng phát triển bền vững. Hoạt động sinh lời của TCVM góp phần tăng trưởng nguồn vốn, tăng số
lượng khách hàng được tiếp cận các dịch vụ TCVM, qua đó góp phần xố đói, giảm nghèo, tăng thu nhập,
nâng cao phúc lợi xã hội cho những người nghèo nhất. Đồng thời, khi mà hoạt động của các tổ chức
TCVM theo đúng tơn chỉ hoạt động là vì người nghèo, thì các khoản lợi nhuận được phân chia cũng sẽ lại
được chuyển đến với người nghèo.
2.4.2. Bài học thất bại của các tổ chức TCVM trong quá trình tiến tới bền vững
Bên cạnh những bài học thành công, một số tổ chức TCVM đã gặp thất bại trong quá trình tiến tới bền
vững, tập trung vào 3 nhóm bài học sau:
•
Thứ nhất là, thương mại hóa quá mức, rời xa mục tiêu hoạt động ban đầu:
17
Để đảm bảo rằng những khoản vay nhỏ có thể sinh lãi cho những nhà đầu tư, những ngân hàng như
Compartamos hay SKS cần phải nâng lãi suất, tăng cường quảng bá hình ảnh và thu nợ triệt để. Sự chia
sẻ, đồng cảm dành cho những người đi vay, từng là tinh thần chính khi những tổ chức này cịn là các tổ
chức phi lợi nhuận, nay đã khơng cịn. Những người vốn là đối tượng nhận được sự giúp đỡ của tín dụng
vi mơ nay lại trở thành người bị hại. Ở Ấn Độ, những người đi vay đã bắt đầu ngờ rằng những người cho
vay đang lợi dụng họ, từ đó dẫn tới việc người đi vay khơng trả các khoản nợ nữa. Hiện nay, tại Ấn Độ,
có rất nhiều người đi vay đã không thể trả được những khoản vay vi mô và dẫn đến hậu quả là công việc
làm ăn kinh doanh của những người cho vay bị đổ bể. Khủng hoảng tại Ấn Độ đã chỉ ra một điều rõ ràng
rằng: tín dụng vi mơ cần phải trở lại đúng con đường đi của mình.
Một số vấn đề thực tiễn nghiêm trọng sẽ xảy ra khi coi tín dụng vi mơ như một ngành kinh doanh kiếm
lời. Thay vì tạo ra những quỹ bán bn nhằm mục đích cho các TCTCVM, những tổ chức định hướng
thương mại sẽ tăng tổng tiền để đầu tư vào những thị trường tài chính quốc tế khơng có tính ổn định, và
gián tiếp chuyển những rủi ro tài chính đó cho người nghèo. Hơn nữa, điều này có nghĩa là các tổ chức tín
dụng vi mơ thương mại đang hướng tới yêu cầu lợi nhuận phải ngày càng tăng, điều này đồng nghĩa với
việc lãi suất người nghèo phải chịu sẽ ngày càng cao và xóa bỏ hồn tồn ý nghĩa xóa đói giảm nghèo của
những khoản cho vay vi mơ.
•
Thứ hai là, kết hợp khiên cưỡng giữa phát triển tài chính vi mơ với các trung gian tài chính
chính thức:
Các tổ chức tín dụng có thể tham gia vào hoạt động TCVM do các điều kiện sẵn có về nhân lực, mạng
lưới, vốn…. Tuy nhiên, sự phát triển này nếu mang tính chất khiên cưỡng sẽ khiến cho hoạt động TCVM
trở nên méo mó, các nguồn lực tài chính bị sử dụng khơng hiệu quả.
Ví dụ, Sri Lanka phát triển kết hợp giữa hoạt động thương mại và phát triển của các ngân hàng hiện tại
theo yêu cầu của Chính phủ. Ngân hàng quốc gia Hatton HNB là ngân hàng thương mại tư nhân lớn nhất
tại Sri Lanka. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ kinh doanh truyền thống của NHTM, ngân hàng này còn
thực hiện các chương trình cung ứng dịch vụ cho người nghèo. Một vài nước, bao gồm cả Malaysia, thậm
chí cịn thử nghiệm với các trung gian làm chức năng marketing với tư cách là các đại lý cung cấp lẻ các
khoản cho vay từ các TCTD của chính phủ. Tuy nhiên, mơ hình này thường khơng thành cơng vì các
TCTD có thể đáp lại áp lực của chính phủ bằng cách xây dựng các văn phịng chi nhánh ở nơng thơn và
các chi nhánh này hoạt động rất hình thức, chỉ mở cửa vài tiếng một tuần, hoặc đưa ra số lượng dịch vụ
rất hạn chế.
Các nguyên nhân chính khiến các tổ chức tín dụng chính thức gặp thất bại khi tham gia thị trường tài
chính vi mơ là:
-
Có nhiều trở ngại cho khách hàng trong việc áp dụng quy trình tín dụng truyền thống vào tín dụng
vi mơ, như: u cầu về giấy đăng ký kinh doanh; các hình thức bảo đảm cá nhân như tài sản thế
chấp, cầm cố và yêu cầu về giao dịch bảo đảm; các loại giấy tờ cá nhân khác… Do vậy, các khách
hàng tài chính vi mô tiềm năng thường cảm thấy áp lực về quy trình thủ tục phức tạp và có thể
khơng sử dụng dịch vụ tài chính của tổ chức đó.
18
-
Cách tiếp cận chưa tạo sự thân thiện với người nghèo và người có thu nhập thấp. Hầu hết người
nghèo và người thu nhập chưa bao giờ hoặc không dám nói chuyện với nhân viên ngân hàng hoặc
bước vào văn phịng của các tổ chức tín dụng lớn
-
Đắt đỏ với người nghèo và người thu nhập thấp do các chi phí giao dịch và cơ hội cao. Do các
TCTD chính thức yêu cầu nhiều tài liệu, khách hàng phải đi lại nhiều lần và chờ đợi mà không
chắc chắn sẽ được vay vốn, tổng chi phí giao dịch và cơ hội đối với khách hàng cao. Do đó, tỷ lệ
chi phí vay vốn trên một đồng vốn vay được đối với khách hàng sẽ tương đối cao.
-
Các sản phẩm tín dụng chưa thực sự phù hợp cho khách hàng nghèo, khách hàng thu nhập thấp.
Khách hàng tài chính vi mơ thường muốn được cung cấp tín dụng quy mơ nhỏ, trả gốc và lãi
nhiều lần trong kỳ, thậm chí trả hàng ngày, hàng tuần. Trong khi đó, các sản phẩm tài chính thơng
thường thường có cách trả dài hơn, như theo tháng, thậm chí theo quý hoặc cuối kỳ. Việc gia hạn
tín dụng vi mơ cũng thường khó khăn hơn do thời gian và thủ tục thực hiện.
•
Thứ ba là, tổ chức xã hội hoạt động chưa có chun mơn hóa và chuyên nghiệp hóa cao, phụ
thuộc nhiều vào nhà tài trợ:
Mặc dù số lượng các tổ chức thành công trong chun mơn hóa và phát triển hoạt động TCVM tăng lên,
khơng thể phủ nhận một thực tế là cịn nhiều tổ chức bị thất bại, đặc biệt là các tổ chức xã hội thực hiện
TCVM theo cách phi chuyên nghiệp và phụ thuộc quá nhiều vào nhà tài trợ. Các lý do chính của sự thất
bại này:
-
Nhân viên của các tổ chức này có kỹ năng giao tiếp tốt với cộng đồng, với khách hàng nhưng lại
có ít kinh nghiệm kinh doanh và thường thiếu năng lực trong việc đưa ra những lời khuyên thích
hợp về TCVM;
-
Mục tiêu kinh tế và phúc lợi xã hội ln lẫn lộn, vì thế chính họ khơng biết họ là nhân viên xã hội
hay nhân viên kinh tế
-
Các dự án/chương trình thường quá phức tạp, tham gia cả vào việc lập kế hoạch phát triển thị
trường hay lựa chọn kế hoạch sản xuất tập thể, khơng tập trung tới đối tượng chính. - Một số dự
án do các tổ chức xã hội thực hiện khá tốn kém, được bao cấp ở mức cao và khả năng phục vụ
khách hàng hạn chế.
-
Mục đích kinh doanh và tiêu chuẩn đánh giá hoạt động không được xác định rõ ràng.
19
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ BỀN VỮNG CỦA TỔ CHỨC TÀI CHÍNH
VI MƠ TNHH MTV TÌNH THƯƠNG (TYM) TẠI VIỆT NAM
3.1. Tổng quan về tổ chức tài chính vi mơ TYM
3.1.1. Giới thiệu về TYM
Tổ chức tài chính vi mơ TNHH MTV Tình Thương (TYM) là tổ chức tài chính vi mơ chính thức đầu tiên
tại Việt Nam do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập năm 1992. Đến nay, TMY đã hỗ trợ trên
200.000 phụ nữ, hộ gia đình nghèo và thu nhập thấp ở nơng thôn và bán nông thông Viện Nam qua các
dịch vụ tài chính và xã hội.
-
Sức mệnh: Cải thiện chất lượng cuộc sống của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, đặc biệt
ưu tiên phụ nữ nghèo, yếu thế thơng qua các dịch vụ tài chính và phi tài chính, tọa cơ hội cho phụ
nữ tham gia vào các hoạt dộng kinh tế và xã hội, góp phần nâng cao vị thế của người phụ nữ.
-
Tâm nhìn: trở thành một tổ chức tài chính vi mơ tốt nhất Việt Nam, cung ứng dịch vụ tài chính vi
mơ hàng đầu cho các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp, đặc biệt ưu tiên phụ nữ nghèo và yếu
thế.
-
Giá trị cốt lõi của TYM được xây dựng tên nền tảng Tậm tâm- Sáng tạo- Hiệu quả, với sản phẩm
dịch vụ, TYM hướng đến việc Đơn giản- An toàn- Nhanh chóng- Thuận tiện.
3.1.2. Tổ chức và mạng lưới
-
Hiện nay TYM là một trong những tổ chức Tài chính vi mô lớn nhất tại Việt Nam với hơn 538
cán bộ làm việc tại Trụ sở chính và 21 chinh nhánh trên 13 tỉnh thành của khu vực Bắc và Bắc
Trung bộ Việt Nam. Trong đó, hơn 281 các bộ kỹ thuật trực tiếp làm việc với thành viên/ khách
hàng hàng ngày tại 4.239 cụm.
-
20
-
Sơ đồ tổ chức
3.1.3. Lịch sử phát triển
-
TYM do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập vào năm 1992 nhằm góp phần thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ. Từng những bước xây dựng nền mogs ban đầu,
TYM nhận được sự hỗ trợ tận tình của Tiến sĩ Jaime Aristotle B.Alip. Ơng là người đóng vai trị
quan trọng trong việc thành lập Quỹ Tình Thương sử dụng mơ hình Ngân hàng Grameen, Băngla-đét.
-
Theo thời gian, TYM mở rộng phạm vu và quy mô với sự trợ giúp về tài chính và kỹ thuật của
một số tổ chức quốc tế gồm: Quỹ Châu Á ( Asia Foundation), các tổ chức tương hỗ CARD
( CARD MRI), Tổ hcức Cordaid, Quỹ Ford ( Ford Foundation), tổ chức tín thác Grameen
( Grameen Trust), Quỹ hợp tác quốc tế các Ngân hàng Tiết kiệm Đức (SBFIC), Oxfam, Quỹ
Rabobank và Quỹ Whole Planet.
Năm 1998, TYM trở thành đơn vị độc lập, tương đương vơú ban của TW Hội LHPN Việt Nam. Năm
2006, TYM trở thành chuyển đổi thành đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động vì mục đích xã hội phi lợi
nhuận. Đến 2010, TYM trở thành tổ hcức TCVM được cấp phép đầu tiên tại Việt Nam.
3.1.4. Thành tựu
Qua nhiều năm nỗ lực, thành tự lớn nhất mà TYM đạt được chính là sự thay đổi, vươn lên của những
người phụ nữ khơng hcỉ thốt nghèo bền vững, có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc mà còn đạt được
nhiều thành cơng trong cuộc sống. Những tác động tích cự của TYM đến đời sống của chị em phụ nữ nói
21
riêng và cộng đồng nói chung. TYM đã vinh dự nhận được nhiều giải thường và bằng khen cao quý của
Đảng, nhà nước, Hội LHPN Việt Nam cùng nhiều giải thưởng trong nước cũng như quốc tế khác. Như
vào năm 1999 vinh dự nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, năm 2010 nhận bằng khen của TW Hội
LHPN Việt Nam vì sự đóng góp tích cực trong vận động, xây dựng “ Mái ấm tình thương”, năm 2016 trở
thành tổ chức tài chính vi mơ tiêu biểu Citi- Việt Nam, năm 2017 nhận giải thường Tổ chức tài hcính vi
mô tiêu biểu thực hiện nguyên tắc bảo vê khách hàng Citi- Việt Nam, năm 2019 là 1 trong 10 “ Tổ chức
tài chính trên thế giới hỗ trợ thiết thực nhất cho khách hàng nghèo và yếu thế bâng cao khả năng thích
ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu” ( EMA 2019), năm 2021 trở thành tổ chức tài chính vi mơ tiêu biểu
Citi- Việt Nam 2019.
Có tới hơn 300.000 phụ nữ được tham gia các hoạt động cộng đồng; 120.000 phụ nữ thoát nghèo; 7000
phụ nữ trở thành doanh nhân vi mô; 15.400 phụ nữ trở thành lãnh đạo cơ quan Đảng, đoàn thể, HPN các
cấp; 93 phụ nữ được nhận giải doanh nhân vi mô Citi.
3.1.5. Sản phẩm, dịch vụ
TYM hoạt động nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp.
TYM hỗ trợ trao quyền cho phụ nữ thơng qua các dịch vụ tài chính xã hội từ đó nâng cao cuộc sống và
tương lai phụ nữ. Các sản phẩm của TYM bao gồm:
•
Dịch vụ tài chính: Tín dụng và tiết kiệm.
-
Tín dụng: các sản phẩm vốn cuả TYM được thiết kế ban đầu dựa trên phương thức của Ngân
hàng Grameen, được điều chỉnh để phù hợp với khách hàng là phụ nữ Việt Nam. Các sản phẩm
vốn có đặc tính phù hợp với các hộ gia đình nghèo và có thu nhập thâó, khơng cần tài sản thế
chấp, hoàn trả dần theo tuần, tháng; thủ tục vay, tả đơn giản và duy trì kỷ luật tín dụng. Hầu hết
các hoạt động vay vốn để phát triểm kinh tế, dành cho các hoạt động kinh doanh như nông
nghiệp, chăn nuôi,...đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, chỉnh sửa nhà của,...TYM đưa ra các loại sản
phẩm vốn vay ngắn hạn, trung hạn, vốn vay cho doanh nghiệp nhỏ và vi mơ (MSE) phù hợp vưới
đa dạng khách hàng.
•
Các loại vốn hiện nay TYM chung cấp
-
Tiết kiệm: đặc điểm các sản phẩm tiết kiệm của TYM
+ An toàn: tiền tgửi tiết kiệm của khách hàng được bảo đảm an tồn.
+ Phù hợp: tiết kiệm từ những món tiền rất nhỏ chỉ từ 5.000đ mỗi tuần
+ Tiện lợi: địa điểm rút, gửi thuận tiện.
+ Đơn giản: thủ tục đơn giản, nhanh chóng
+ Cạnh tranh: áp dụng mức lãi suất dựa trên thị trường
•
Dịch vụ xã hội:
22
-
Đào tạo và nâng cao năng lực cho thành viên:
Ngay từ ngày thành lập, TYM đã rất chú trọng hoạt động nâng cao năng lực cho thành viên. Thành viên
được đào tạo ngay trước và trong suốt quá trình tham gia TYM. Trong đó, họp cụm hàng tháng là cơng cụ
quan trọng trong hoạt động nâng cao năng lực. Đây là nơi thành viên có cơ hội được chia sẻ những thơng
tin có ích cho mình và gia đình trong nhiều lĩnh vự qua cán bộ TYM hay qua chính những thành viên
khác trong cụm. Những năm gần đây, khi TYM hướng đến việc hỗ trợ kinh doanh cho thành viên,TYM
đã đưa vào một cách thức đào tạo mới cho phụ nữ đó là tổ chức cho thành viên được tham quan mơ hình
kinh tế điển hình của những thành viên tiêu biểu. Cách làm thiết thực này đã giúp cho nhiều thành viên có
cơ hội học hỏi những mơ hình thanh hay để áp dụng gia đình.
Thơng qua những hoạt động này, thành viên TYM đã được trau dồi từ những kiến thức, kỹ năng cơ bản
nhất như học đọc, viết, quản lý tài chính cơ bản, biết cách trình bày trước đám đơng và các kỹ năng mềm
cho bản thân đến những khóa đào tạo chuyên sâu hơn về chăm sóc sức khỏe, kỹ thuật ni trồng, giưới và
kinh doanh hay, quản lý doanh nghiệp,...
-
Khám bệnh và thuốc miễn phí cho thành viên:
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe là nhu cầu cơ bản của bất kỳ ai tuy nhiên thực tế cho thấy phụ nữ nông thôn ở
Việt Nam ít có cơ hội được tiếp xúc với dịch vụ y tế. Hiểu được điều đó, hàng năm, TYM tổ chức khám
sức khỏe và phát thuốc miễn phí cho các thành viên. Tym biết rằng sức khỏe của phụ nữ là ưu tiên hàng
đầu, chỉ khi khỏe mạnh phụ nữ mới có thể làm kinh tế và chất lượng cuộc sống mới tốt. TYM luôn thúc
đẩy các sáng kiến và tổ chức tập huấn cho thành viên về các nội dung sức khỏe sinh sản, phòng ngừa
bệnh phụ khoa, vệ sinh.
-
Dịch vụ hỗ trợ và phát triển kinh doanh cho thành viên TYM (BDS)
Các dịch vụ tư vấn này hướng đến xây dựng năng lực kinh doanh, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và nần cao
kiến thức để hỗ trợ các hoạt động kinh doanh của thành viên, đặc biệt hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của thành
viên.
TYM tự hào đã góp phần vào sự phát triển chung của phụ nữ trong quá trình tăng trưởng của
Việt Nam, và quyết tâm hơn bao giờ hết tiếp tục theo đuổi sư mệnh nâng cao chất lượng cuộc
sống cho phụ nữ dễ bị tổn thương và thiệt thòi cũng như nâng cao và vai trò của phụ nữ trong
xã hội.
Trong 29 năm qua, TYM đã hỗ trợ cho 300.000 lượt phụ nữ được tiếp cận với các hoạt động
công cộng, xã hội; giải ngân hơn 14.000 tỷ đồng cho 1,6 triệu khoản vay. Năm 2019 TYM đã
huy động hơn 1,8 nghìn tỷ đồng tiết kiệm từ thành viên/ khách hàng. Cho đến nay, hầu hết
trong các thời điểm Tym vẫn đảm bảo được tỷ lệ hoàn trả lên tới 99%
23
Số liệu vận hành ( tính đến 20/6/2021)
STT
Số liệu vận hành cập nhật
30/6/2021
1
Số huyện
80
2
Số xã
753
3
Số chi nhánh, phòng giao dịch
76
4
Tổng cán bộ
553
5
Số cán bọ kĩ thuật
291
6
Tổng số khách hàng tham gia
180.679
7
Số khách hàng vay vốn
105.465
8
Số dư nợ vốn vay ( tỷ đồng)
2.099
9
Số dư tiết kiệm( tỷ đồng)
1.855
10
Tỷ lệ PAR(%)
0,198
3.2. Tổng quan về mức độ bền vững của TYM
3.2.1. Bền vững về hoạt động (OSS)
Năm 2010, TYM đã được cấp phép và trở thành tổ chức TCVM đầu tiên tại Việt Nam hoạt động chuyên
nghiệp. Điều này đã giúp TYM có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển và tự vững, đặc biệt các hoạt động
đều minh bạch và theo khn khổ của pháp luật đã giúp TYM có thêm uy tín đối với khách hàng và các
đối tác. Nhờ đó TYM có thể tăng thêm huy động tiền gửi, vay vốn trong nước, nước ngồi.
Bên cạnh đó, Tổ chức TCVM TYM cũng có cơ hội được mở rộng nhóm đối tượng khách hàng khi TYM
có thể huy động tiết kiệm từ công chúng. Riêng với vốn vay, từ những phụ nữ nghèo, yếu thế đến các hộ
cận nghèo, thu nhập thấp và cho đến nay TYM đã mở rộng ra cả nhóm đối tượng là các doanh nghiệp siêu
nhỏ, mỗi phân khúc thành viên chúng tơi đều có các sản phẩm, dịch vụ và được hưởng ưu đãi khác nhau
về lãi suất hoặc về dịch vụ; không những thế chúng tơi cũng đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt là các sản
phẩm tiết kiệm có kỳ hạn và các sản phẩm phi tài chính. Điều này cũng đã giúp TYM tiếp cận được nhiều
khách hàng hơn và mở rộng quy mơ hoạt động nhanh chóng.
Với hệ thống quản lý chuyên nghiệp hơn, bao gồm chức năng quản lý rủi ro, bộ phận pháp chế, CNTT
cũng đã giúp tăng năng suất lao động của cán bộ, từ đó đóng góp vào hiệu quả chung của tổ chức.
24
Tỷ lệ tự vững vận hành (OSS) của TYM đạt 137% năm 2017, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) đạt 32,7% và tỷ lệ
khả năng chi trả đạt 47%, tỷ lệ hoàn trả đạt 99,99% qua các năm. Qua chỉ số trên ta thấy tổ chức này đã
độc lập về tài chính, khơng cịn nhận các khoản trợ cấp khơng bằng tiền từ các đồn thể, tổ chức chính trị
- xã hội.
3.2.2. Bền vững tài chính (FSS)
Với Giấy phép được cấp, TYM đã chủ động tăng cường năng lực về vốn thơng qua hai hình thức: huy
động tiền gửi từ cơng chúng và vay vốn nước ngồi. Dù chỉ mới triển khai huy động tiền gửi từ năm
2013, TYM đã nhận được sự tin tưởng, hưởng ứng của đông đảo công chúng. Với các tổ chức quốc tế,
thấy được sự an toàn và bền vững của TYM, họ đã cho TYM vay mà khơng u cầu thế chấp. Điều đó
cho thấy với hoạt động minh bạch, hiệu quả rõ rệt, TYM đã có được lịng tin của cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước. Nhờ vậy, nguồn vốn của TYM ngày một dồi dào, tạo cơ hội cho TYM mở rộng tiếp cận
thêm khoảng 20.000 phụ nữ nghèo, thu nhập thấp mỗi năm.
Hiện tại tính đến thời điểm năm 2018, tỷ lệ tự vững tài chính của TYM (FSS - đo lường mức độ thu nhập
trang trải được chi phí của tổ chức) đang đạt 120%, cao hơn mức tiêu chuẩn quốc tế hiện tại đưa ra (tối
thiểu 100%). Điều này cho thấy TYM hồn tồn có thể bù đắp được tất cả các chi phí và có lãi để bổ sung
nguồn vốn cho vay, không phải phụ thuộc vào các khoản tài trợ hoặc trợ cấp của Nhà nước.
3.2.3. Bền vững về thể chế (ISS)
Khi đánh giá mức độ bền vững thể chế của các TCTCVM Việt Nam, Nhóm nghiên cứu đã xem xét các
báo cáo nghiên cứu của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) giai đoạn 200511 và nghiên cứu: “Phát triển tài
chính vi mơ ở khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” do Tiến sỹ Nguyễn Kim Anh chủ biên. Đồng
thời xem xét và tham chiếu với các TCTCV Mở khu vực và thế giới, Nhóm nghiên cứu đã tập trung vào
các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tính sở hữu chưa rõ ràng. Xuất phát điểm của hầu hết các TCTCVM tại Việt Nam là các chương
trình, dự án với đối tác là các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Hội phụ nữ và Liên đoàn lao động.
Thêm vào đó là mơi trường và khn khổ pháplý về hoạt động TCVM vẫn cịn đang trong q trình hồn
thiện.
Thứ hai, chiến lược hoạt động chưa rõ ràng. Quá trình nghiên cứu cho thấy rằng có rất ít TCTCVM Việt
Nam có được một kế hoạch chiến lược bài bản với đầy đủ Tầm nhìn, Sứ mệnh, Giá trị cốt lõi và Văn hóa
tổ chức. Sự thiếu hụt các nhân tố quan trọng đó trong hoạt động của mỗi tổ chức báo hiệu các rủi ro
tiềmtàng xảy ra, bao gồm: Sự chệch hướng mục tiêu hoạt động, thay đổi theo ý kiến chủ quan của nhà
quản trị và bị áp lực từ cơ quan chủ quản dẫn đến hậu quả là khó thu hút và giữ chân những nhân sự quản
lý giỏi.
Thứ ba, nhân sự của các TCTCVM có chất lượng thường không cao, với số lượng hạn chế. Hầu hết các
TCTCVM Việt Nam đều phát triển từ các chương trình/tiểu hợp phần/dự án phát triển được tài trợ,
thường kết hợp với một tổ chức chính trị - xã hội cấp cơ sở. Do vậy, tính chuyên nghiệp trong các nghiệp
vụ về TCVM thường khơng cao. Do tính chất phát triển của các chương trình/dự án, nhiều hoạt động
nâng cao năng lực cho khách hàng được cung cấp kèm với các hoạt động TCVM vì khách hàng thường
25