*
*
*
ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA
CA DAO DÂN GIAN VIỆT NAM
MỤC LỤC
TỔNG QUAN..............................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................2
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.............................................................2
1. Các khái niệm của đề tài…………………......…………………………………2
2. Việc nghiên cứu thi pháp ca dao dân gian ở nước ta…………………………...3
3. Phạm vi khảo sát của đề tài……………………………………………………..4
Chương II: Thể thơ………………………….………………………………..........4
1. Thể lục bát………………………………………………………………………4
2. Thể song thất lục bát……………………………………………………………7
3. Thể song thất và thể hỗn hợp…………………………………………………...8
Chương III: Các dạng kết cấu của ca dao……………………..…………………11
1. Kết cấu một vế đơn giản………………………………………………………11
2. Kết cấu một vế có phần vần………………………………………………...…11
3. Kết cấu hai vế tương hợp…………………………………………..………….12
4. Kết cấu hai vế đối lập……………………………………………………….…13
5. Kết cấu nhiều vế nối tiếp………………………………………………………13
Chương IV: Thời gian và không gian nghệ thuật………………………………...14
1. Khái quát chung……………………………………………………………….14
2. Thời gian nghệ thuật…………………………………………………………..15
3. Không gian nghệ thuật………………………………………………………...18
Chương V: Một số biểu tượng, hình ảnh thường gặp trong ca dao……………..20
1. Cây trúc, cây mai……………………………………………………………...20
2. Con cò…………………………………………………………………………22
3. Hoa nhài (hoa lài)……………………………………………………………..23
KẾT LUẬN……………………………………………………...………………….25
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………..…………..……………………26
TỔNG QUAN
1. Lý do chọn đề tài
Ca dao Việt Nam là tấm gương phản chiếu chân thật nhất về thiên nhiên, đất nước,
con người Việt Nam. Ca dao gắn bó mật thiết với đời sống của mỗi người con đất Việt
từ thuở ban sơ đến thời hiện đại. Ca dao là kho tàng tri thức vô hạn về lối sống và nếp
nghĩ của nhân dân ta từ ngàn xưa. Từ ca dao, ta có thể tìm đến những chân trời mới lạ,
nhìn thấy được q khứ của ơng cha. Ca dao đã vận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ
dân tộc để biểu hiện một cách đầy đủ và chính xác cuộc sống sinh hoạt cũng như những
tâm tư nguyện vọng của nhân dân ta. Sẽ không quá lời khi nói rằng muốn hiểu được
những đặc điểm, tâm lý, sở trường, sở đoản, ước mơ và khát vọng của người Việt Nam
khơng gì bằng đi từ ca dao.
Nếu nói rằng dân tộc Việt Nam có những nét văn hóa rất riêng, khơng thể pha lẫn
với bất kì dân tộc nào khác trên thế giới thì việc nghiên cứu ca dao sẽ đóng góp những
luận cứ thuyết phục để chứng minh cho luận điểm này. Ca dao là một ngôn ngữ rất đặc
trưng, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ thuần Việt. Đi vào nghiên cứu ca dao theo hướng
tiếp cận thi pháp giúp ta thấy được những nét riêng, mà đằng sau đó là một nổ lực, một
niềm tự hào mãnh liệt trong việc giữ gìn và phát huy những gì được cho là “hồn” dân
tộc của ông cha ta. Tin rằng, nghiên cứu ca dao theo hướng tiếp cận thi pháp sẽ cho
phép ta thấy được cách thể hiện độc đáo và sâu sắc về đời sống tinh thần của con người
Việt Nam qua bao thế hệ. Xa hơn là thấy được nét văn hóa dân gian Việt Nam từ trong
lời ca dao mộc mạc mà chân tình.
Xuất phát từ những lí do trên, ở bài tiểu luận cuối kì mơn Văn hóa dân gian Việt
Nam tơi chọn đề tài “Đặc điểm thi pháp của ca dao dân gian Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Chọn nghiên cứu ca dao dân gian Việt Nam theo hướng tiếp cận thi pháp nhằm mục
đích tìm hiểu những đặc tính nghệ thuật, phong cách và cấu trúc của ca dao dân gian
Việt Nam. Để thấy được cái mới mẻ, sáng tạo và sự nổ lực của cha ơng trong việc giữ
gìn tiếng nói và bản sắc dân tộc, đi tìm những giá trị ẩn trong những câu ca dao mộc
mạc, để từ đó có được những nhận thức và định hướng cơ bản trong vấn đề bảo tồn và
phát triển ca dao dân gian Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc tính nghệ thuật, phong cách và cấu
trúc của ca dao dân gian Việt Nam.
1
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên kiến thức liên ngành của các ngành: Xã hội học, Ngôn ngữ học, Văn hóa
học, Lịch sử học, Dân tộc học. Sử dụng và phối hợp các phương pháp: phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích ngơn ngữ học, phương pháp so
sánh. Kết hợp với các công cụ nghiên cứu như sưu tầm, tổng hợp, phân tích tài liệu.
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu
Dự kiến sau khi nghiên cứu đề tài Đặc trưng thi pháp của ca dao dân gian Việt Nam
người nghiên cứu sẽ nắm được những đặc tính nghệ thuật, phong cách và cấu trúc, có
được những nhận thức và định hướng cơ bản trong vấn đề bảo tồn và phát triển ca dao
dân gian Việt Nam.
NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.
1.1.
Các khái niệm của đề tài
Thi pháp
Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ những đặc điểm hình thức nghệ thuật sáng tác,
diễn xướng dân gian của tập thể nhân dân, phản ánh bằng ngôn từ giới hạn trong những
khuôn mẫu định sẵn mang phong cách dân tộc, khu vực và địa phương nhất định.
Theo Nguyễn Xuân Kính, “Ngày nay, chúng ta hiểu thi pháp là tổ hợp những đặc
tính thẩm mĩ – nghệ thuật và phong cách của một hiện tượng văn học, là cấu trúc bên
trong của nó, là hệ thống đặc trưng của các thành tố nghệ thuật và mối quan hệ giữa
chúng” (Nguyễn Xn Kính, 2006: 14).
1.2.
Ca dao
Về cơ bản, có thể hiểu ca dao là lời ca tiếng hát của người bình dân, được truyền
miệng và không theo một điệu nhất định. Ca dao thường được sáng tác theo ngẫu hứng,
ý thế nào thì thể hiện như thế ấy.
Theo Nguyễn Ngọc Hỗ “Ca dao là danh từ kép ở chữ Hán mà ra, ca có nghĩa là
bài hát như ca xướng, dao là câu hát ngắn không thành chương, không thành khúc.
2
Như vậy ca dao là bài hát ngắn khơng có chương khúc rõ ràng, cảm hứng ra thế nào
thì nói ra thế ấy và lưu hành truyền khẩu trong dân gian.” (Nguyễn Ngọc Hỗ, 1960:13).
Vũ Ngọc Phan lại cho rằng “Theo định nghĩa về hình thức của ca dao thì câu thành
khúc điệu gọi là ca, không thành khúc điệu gọi là dao. Như vậy, ở ca dao có bài đã
thành khúc điệu và có bài chưa thành khúc điệu” (Vũ Ngọc Phan, 2005: 29).
2. Việc nghiên cứu thi pháp ca dao dân gian ở nước ta
Ở Việt Nam, trước và sau những năm 80 của thế kỉ XX việc nghiên cứu thi pháp có
nhiều thay đổi cả về chất và lượng.
Trước những năm 80, việc nghiên cứu thi pháp đặc biệt là thi pháp văn học dân gian
ở Việt Nam chưa được tiến hành một cách có hệ thống. Đặc biệt, thi pháp ca dao nói
riêng và thi pháp văn học dân gian nói chung là một khái niệm được hình thành muộn
khiến nhiều người khơng tránh khỏi nhầm lẫn rằng ca dao chỉ là sự ngẫu hứng xuất phát
từ cuộc sống của người bình dân do đó khơng có thi pháp.
Từ sau những năm 80, đã có nhiều cuốn sách viết về thi pháp xuất hiện ở Việt Nam:
Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp (1997) của Nguyễn Thái Hòa, Phong cách và
thi pháp trong nghệ thuật cải lương (1995) của Hà Văn Cầu, Những vấn đề thi pháp văn
học dân gian (2003) của Nguyễn Xuân Đức, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại
Việt Nam (1999) của Trần Đình Sử,... Về thi pháp ca dao có tác phẩm Thi pháp ca dao
(2006) của Nguyễn Xn Kính đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu các đặc
điểm của thi pháp ca dao ở nước ta.
Trải qua thời gian, bên cạnh sự biến thiên của dòng văn học viết, từ thơ Đường luật,
tiểu thuyết chương hồi, thơ chữ Nôm, đến phong trào thơ mới, thơ ca lãng mạn giai
đoạn 1930 – 1945 hay tiểu thuyết lãng mạn theo khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật
rồi đến thơ ca cách mạng, văn học thời hậu chiến… ca dao dân gian vẫn tồn tại cùng
thời gian. Những câu hát quen thuộc vẫn được truyền từ đời này sang đời khác, vẫn đều
đặn cất lên dưới rặng tre làng sau mỗi buổi làm đồng, nơi cây đa, bến nước, giếng làng
trong những đêm trăng sáng. Do trải qua thời gian và không gian khác nhau nên đôi khi
ở ca dao xuất hiện dị bản để phù hợp với hồn cảnh.
Thật may mắn nếu được sinh ra ở nơng thôn, nơi những câu ca dao được cất lên từ
lời ru của mẹ, lời răng dạy của cha hay những câu chuyện bà kể. Trẻ em thành thị và cả
người lớn dần trở nên xa lạ với những câu ca dao thấm đượm hồn quê. Cần có những
biện pháp để người trẻ ngày nay biết nhiều đến ca dao dân gian như lồng ghép nhiều
hơn các bài học về ca dao vào chương trình học, cần có thêm nhiều nguồn tàiliệu, sách
vở viết về ca dao, có những buổi ngoại khóa về ca dao. Đặc biệt là tổ chức những
3
chương trình giải trí có nội dung liên quan đến ca dao, để ca dao đi vào đời sống của
người trẻ như nó đã từng chứ khơng phải là việc học một cách gượng ép.
3. Phạm vi khảo sát của đề tài
Bài tiểu luận này chọn khảo sát đặc điểm thi pháp ca dao dân gian Việt Nam qua các
câu ca dao trong các quyển: Tuyển chọn ca dao Việt Nam (2007) của NXB Văn hóa –
Dân tộc do Minh Thư tuyển chọn, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (2005) của Vũ
Ngọc Phan và Thi pháp ca dao (2006) của Nguyễn Xuân Kính.
Chương II: Thể thơ
1. Thể lục bát
1.1.
Khái quát về thể lục bát
Trong văn học Trung Quốc, các thể phổ biến là thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, thất
ngơn bát cú Đường luật, khơng thấy có sự xuất hiện của ca dao. Trong văn học Việt
Nam “thể lục bát, sớm nhất cũng chỉ xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XV” (Nguyễn
Xuân Hoàn, 1974: 53).
Đa số ca dao sáng tác theo thể lục bát, thể lục bát có cấu tạo tối thiểu là một cặp câu
gồm dịng sáu tiếng và dòng tám tiếng:
Con cò trắng tựa như vơi,
Tình tơi với bậu xứng đơi q chừng.
Cơm ăn một bát sao no,
Kẻ về người ở, sao cho đành lòng.
Về nhịp điệu, các nhịp chẵn 2/2/2 (câu 6) và 2/4/2, 4/4 (câu 8) thường dùng để diễn
tả những tình cảm yêu thương, buồn đau:
Chờ chờ,/ đợi đợi,/ trông trông
Bao nhiêu chờ đợi,/ mặn nồng bấy nhiêu.
Yêu nhau/ trao một miếng trầu,
Giấu thầy giấu mẹ,/ đưa sau bóng đèn.
4
Các nhịp lẻ 3/3, 1/5 (câu 6) thường dùng để diễn tả những sự trắc trở, thay đổi đột
ngột, mạnh mẽ (đây là một dạng của lục bát biến thể):
Chồng gì anh/ vợ gì tơi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây.
Tiếc/ nồi cơm trắng để ôi,
Tiếc con người lịch mà soi gương mờ.
Về vần, các cách gieo vần điển hình của thể lục bát là:
1. Tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ tám của
câu bát phải vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp:
Muốn / cho / biển / hẹp / như / ao
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(vần)
Bắc / cầu / đòn / gánh / mà / trao / nhân / tình.
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(bằng)
(vần)
(vần)
2. Tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ tư của câu bát
Vắn / tay / với / chẳng / tới / kèo
(trắc)
(bằng)
(vần)
Cha / mẹ / anh / nghèo, / cưới / chẳng / đặng / em.
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(vần)
(vần)
1.2.
Hiện tượng lục bát biến thể trong ca dao
Theo Mai Ngọc Chừ “Lục bát biến thể ở đây được quan niệm là những câu ca dao
có hình thức lục bát nhưng khơng khít khịt “trên sáu dưới tám” mà có sự co giãn nhất
định về số lượng âm tiết (tiếng).”. (Mai Ngọc Chừ, 1989: 16)
Lục bát biến thể có ba loại:
- Dịng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi:
5
Cầm vàng ném xuống vực sâu, (6 tiếng)
Mất vàng không tiếc, tiếc mắt bồ câu hữu tình. (10 tiếng)
Ngọc cịn ẩn bóng cay ngâu, (6 tiếng)
Em đang tùng phụ mẫu dám đâu tự tình. (9 tiếng)
- Dịng bát giữ ngun, dịng lục thay đổi:
Chữ nhân dun thiên tải nhất thì (7 tiếng)
Giàu ăn, khó chịu lo gì mà lo. (8 tiếng)
Chồng chung, chồng chạ (4 tiếng)
Ai khéo hầu hạ, thì được chồng riêng. (8 tiếng)
- Cả dòng lục và dòng bát đều thay đổi:
Chân trời lính mộ chàng ra đi, (7 tiếng)
Lo chàng lao khổ, chớ sá gì mẹ con tôi. (10 tiếng)
Ơn cha như biển, nghĩa mẹ như trời (8 tiếng)
Thương mừng ghét sợ, không dám trao lời thở than. (10 tiếng)
Theo Nguyễn Tài Cẩn và Võ Bình về hiện tượng biến thể trong ca dao, có thể giải
thích từ các nguyên nhân: thứ nhất, ca dao biến thể xuất hiện trong giai đoạn thể lục bát
chưa thự định hình. Thứ hai, biến thể xuất hiện do việc đem thể lục bát phục vụ cho
diễn xướng. Thứ ba, biến thể có thể được xuất hiện từ chủ ý của người sáng tác nhầm
mục đích thể hiện một tâm tư, tình cảm, sự việc nào đó.
Đơi ta nghĩa nặng tình dày (6 tiếng)
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. (13 tiếng)
Vô duyên vô phúc múc phải anh chồng già (9 tiếng)
Ra đường người hỏi rằng: Cha hay chồng? (8 tiếng)
Nói ra đau đớn trong lịng (6 tiếng)
Ấy cái nợ truyền kiếp chứ có phải chồng em đâu… (11 tiếng)
Giấy trắng mực đen (4 tiếng)
Duyên ai phận nấy, chớ ghen mà già. (8 tiếng)
6
Lục bát biến thể có thể được sử dụng để diễn đạt sự trùng điệp, cách trở qua đó
khẳng định quyết tâm vượt mọi khó khăn để tìm đến tình yêu, hạnh phúc. Ngoài ra việc
kéo dài câu một cách bất thường hay những câu ngắn đột ngột còn nhầm dụng ý nhấn
mạnh sự đay nghiến, chì chiết, cũng có thể là để chiếm thế chủ động trong các cuộc
tranh luận, đơi khi lục bát biến thể cịn được dùng để biểu thị sự mỉa mai, châm biếm
(thường gặp trong ca dao châm biếm, hài hước).
2. Thể song thất lục bát
Cấu tạo cơ bản của thể song thất lục bát gồm bốn dòng, hai dòng thất (dòng thất
trắc và dòng thất bằng), một dịng lục và một dịng bát:
Ngó lên trời, trời cao lồng lộng,
Ngó xuống đất, đất rộng mênh mơng.
Biết chừ cá gáy hóa rồng,
Đền ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Chữ xuất giá tịng phu phải lẽ,
Gái có chồng bố mẹ quạnh hiu.
Nhớ khi thủa bé nâng niu,
Ngày nay xuất giá bỏ liều mẹ cha.
Khuôn vần của thể song thất lục bát được ghi nhận như sau:
Lụa / làng / Trúc / vừa / thanh / vừa / bóng
(trắc)
(bằng)
(trắc)
(vần)
May / áo / chàng / cùng / sóng / áo / em
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(vần)
Chữ / tình / cùng / với / chữ / duyên
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(vần)
Xin / đừng / thay / áo / mà / quên / lời / nguyền.
(bằng)
(trắc)
(bằng)
(bằng)
(vần)
(vần)
Có nhiều lời ca dao vần vẫn được gieo ở tiếng thứ ba của dòng thất bằng:
7
Thang / mô / cao / bằng / thang / danh / vọng
(vần)
Nghĩa / mô / trọng / bằng / nghĩa / chồng / con?
(vần)
Trăm / năm / nước / chảy / đá / mòn
(vần)
Xa / nhau / ngàn / dặm / dạ / còn / nhớ / thương.
(vần)
Theo Nguyễn Xuân Kính, số lời ca dao được sáng tác theo thể song thất lục bát chỉ
chiếm số lượng rất ít so với thể lục bát (khoảng 2%). Theo Phan Ngọc, cấu trúc 7 – 7 –
6 – 8 tiếng cho phép thể thơ này có tác dụng thể hiện sự đi về của cảm xúc như những
đợt sóng lên cao xuống thấp rồi lại dàn ra đón lấy một đợt sóng khác. Có một điều đặc
biệt ở thể song thất lục bát là mỗi lời ca chỉ gồm một khổ (bốn câu) và rất hiếm, thậm
chí là khơng có lời ca nào từ hai khổ trở lên.
Biến thể của song thất lục bát chỉ xảy ra ở ca dao, còn thơ trữ tình bát học thì hồn
tồn khơng có:
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược (8 tiếng)
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang (8 tiếng)
Thuyền em xuống bến Thuận An (6 tiếng)
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn, anh ơi! (8 tiếng)
Bên đây sông bắc cầu mười tấm ván, (8 tiếng)
Bên kia sông lập cái quán mười hai từng. (9 tiếng)
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng, (6 tiếng)
Sáng chiều đăm đắm trơng chừng đợi anh. (8 tiếng)
Do có nhịp điệu thơ mang sắc thái giãi bày nên thể song thất lục bát thường được
dùng trong những bài hát có âm điệu “nói lối” và ca xướng.
3. Thể song thất và thể hỗn hợp
Bên cạnh thể lục bát và song thất lục bát phổ biến hơn cả, trong ca dao còn ghi nhận
các thể song thất và thể hỗn hợp tuy nhiên chỉ chiếm số lượng ít.
3.1.
Thể song thất
8
Thể song thất trong ca dao không phổ biến:
Áo vá vai vợ ai khơng biết,
Áo vá qng chí quyết vợ anh.
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ vừa năm.
Hiện tượng lời ca dao được cấu tạo từ hai cặp song thất (trong đó có một cặp biến thể)
lại càng hiếm hoi hơn:
Trầu không vôi ắt là thuốc lạt (7 tiếng)
Cau không hạt ắt là cau già (7 tiếng)
Mình khơng lấy ta ắt là mình thiệt (8 tiếng)
Ta khơng lấy mình ta biết lấy ai? (8 tiếng)
3.2.
Thể hỗn hợp
Theo Nguyễn Xuân Kính, thể hỗn hợp trong ca dao chỉ chiếm số lượng khoảng 1%,
sự hỗn hợp này khá đa dạng:
Bốn câu bốn tiếng và hai câu mười tiếng:
Con chim nho nhỏ,
Cái đi nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó đậu cành bàng,
Nó kêu, bớ tiết Đinh Sơn, bớ chàng Ninh Sĩ!
Em có chồng rồi, em khơng thể nghĩ đến anh.
Chỉ có bốn câu, mỗi câu bốn tiếng:
Củ lang Đống Ngỗ,
Đỗ phụng Đồng Đinh
Chàng bịn thiếp mót
Để chung một gùi.
Sự kết hợp giữa hai cặp lục bát biến thể:
Bướm xa hoa bướm còn nhớ cảnh
Vượn xa ngành vượn còn nhớ cội cây
9
Em xa anh trách mẹ cùng thầy
Khơng phải vì anh xảo ngôn lệch sắc quá tay không gặp nường.
Mở đầu bằng một cặp lục bát, kết thúc bằng một dòng lục, ở giữa là hai cặp song thất,
bên cạnh nhịp điệu êm ái của cặp lục bát còn bổ sung thêm nhịp ¾ của cặp song thất
thể hiện sự trắc trở, éo le:
Chịng chành như nón khơng quai
Như thuyền khơng lái, như ai khơng chồng
Gái có chồng như gơng đeo cổ
Gái không chồng như phản gỗ long đanh
Phản long đanh anh cịn đóng được
Gái khơng chồng chạy ngược chạy xi
Khơng chồng khổ lắm ai ơi!
Thường gặp nhất là thể hỗn hợp có một cặp lục bát xen giữa là hai câu thất:
Đêm qua nguyệt lặn về tây (6 tiếng)
Sự tình kẻ đấy, người đây còn dài (8 tiếng)
Trúc với mai, mai về trúc nhớ (7 tiếng)
Mai trở về, mai nhớ trúc không? (7 tiếng)
Bây giờ kẻ bắc, người đông (6 tiếng)
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư. (8 tiếng)
Từ thể lục bát đến lục bát biến thể, từ song thất lục bát đến song thất lục bát biến
thể, từ những thể hỗn hợp có những câu rút ngắn chỉ ba bốn từ đến những câu dài tận
mười ba từ thậm chí là hơn thế đã cho thấy sự tự do trong sáng tác của người bình dân,
họ khơng tn theo những niêm luật khắc khe như các tác phẩm văn học viết ( tiêu biểu
là các thể thơ Đường luật). Từ sự tự do trong sáng tác có thể nhận xét về cuộc sống,
sinh hoạt của người bình dân là một cuộc sống thoải mái giữa ruộng đồng, nhà tranh
vách nứa chan hịa với cỏ cây khơng có những khn khổ ràng buộc khắc khe. Ngồi
ra từ các thể thơ của ca dao cũng có thể nhận thấy sự hạn chế của tác giả dân gian trong
việc tung hoành ý thơ giữa các niêm luật khắc khe, trong khi các nhà thơ như Hồ Xuân
Hương, Cao Bá Quát,… lại làm rất tốt. Sự ngắn gọn của lời ca dao cũng phần nào phản
ánh được tâm lý của người bình dân, họ thường trực tiếp bày tỏ cảm xúc ngay lúc cảm
xúc xuất hiện, khơng có sự chất chứa, quan sát tỉ mỉ hay có sự tham khảo, vận dụng các
điển cố điển tích như các nhà thơ của văn học viết.
Chương III: Các dạng kết cấu của ca dao
10
1. Kết cấu một vế đơn giản
Trong kết cấu một vế đơn giản, nội dung của lời ca dao là một ý lớn do các phán
đốn tạo thành.
Chim khơn lựa nhánh, lựa cành (a)
Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân. (b)
Cả hai vế a và b đều nhằm diễn đạt một lời khuyên, một kinh nghiệm về việc lựa
chọn chốn tựa nương tốt để có được cuộc sống bình n và hạnh phúc dài lâu.
Làng tơi có lũy tre xanh,
Có sơng Tơ Lịch uốn quang xóm làng
Bên bờ vải, nhãn, hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Tất cả các vế của lời ca dao trên đều cùng chỉ một địa điểm là “làng tôi”, một ngôi
làng xưa của mảnh đất thủ đơ nằm n bình bên dịng Tô Lịch ngàn năm trôi chảy tưới
mát cho cây cối hai bên bờ sông, mang đến nguồn thủy sản trù phú.
Ổi Quảng Bá, cá Hồ Tây,
Hàng đào tơ lụa làm say lòng người.
Ở lời ca dao trên hai câu là ba phán đoán chỉ những đặc sản và địa danh nổi tiếng
của Hà Nội.
Những lời được kết cấu theo dạng một vế đơn giản ít nhất phải có một phán đốn xét
về mặt logic và hai dịng thơ xét về mặt cấu trúc.
2. Kết cấu một vế có phần vần
Trong kết cấu một vế có phần vần, lời ca dao được cấu tạo từ hai phần rõ rệch bao
gồm phần miêu tả ngoại cảnh mà Đinh Gia Khánh gọi là phần gợi hứng và phần chính
của lời.
Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa
Lấy anh từ thuở mười ba
Đến năm mười tám thiếp đà năm con
11
Ra đường người nghĩ còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Ở lời ca dao trên, quả cau là hình ảnh gọi hứng và “thiếp” năm con là hình ảnh chính.
Giữa hai phần của lời ca dao cịn có thêm mối liên hệ hồi tưởng: quả cau –> ngày cưới
-> cuộc sống hôn nhân hiện tại (năm con).
Bướm vàng đậu đọt mù u,
Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn.
Ở lời ca dao trên đây quan hệ giữa hai phần là một sự liên tưởng gián tiếp. Ngồi ra
cịn có trường hợp giữa hai phần là mối liên hệ về mặt ngữ âm, mặt vần thuần túy:
Trên trời có ông sao vàng
Có ai đâu nữa mà chàng phụ tôi?
Mười hai cửa bể, tình ơi
Gửi thư, thư lạc, gửi lời, lời bay
Nhạn ơi, trăm sự nhờ mày
Gửi thư đem tới tận tay cho chàng.
Giải thích cho việc giữa phần gợi hứng và phần chính chỉ có mối liên hệ về ngữ âm
và vần thuần túy Chu Xuân Diên cho rằng nên đi từ đặc điểm của quá trinh sáng tác ca
dao, dân ca. Trong các cuộc thi hát đối đáp người hát phải vừa hát vừa suy nghĩ để đối
đáp lại đối phương cho hay lại phái sát và phải nhanh nên các từ chỉ mang tính chất đưa
đẩy, bắt vần xuất hiện. Hơn nữa nhiều câu miêu tả thiên nhiênđã xuất hiện ở các lời ca
dao khác nên người sáng tác khơng thể hát lại vì sẽ mắc lỗi “vi phạm bản quyền”.
3. Kết cấu hai vế tương hợp
Kết cấu hai vế tương hợp thường xuất hiện trong hát đối đáp với nội dung gồm hai
ý lớn ở thể tương hợp:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Ở lời ca dao trên là hai vế đối đáp người con trai hỏi và ngời con gái đáp lại như một
tín nhiệu thuận tình.
Trong q trình lưu truyền, vế trên có thể bị tách ra riêng biệt và được xem là một lời
riêng biệt vì vẫn đảm bảo đủ ý tứ mà người sáng tác muốn thể hiện. Chẳng hạn ở ví dụ
12
trên, nếu chỉ có hai câu trên thì đó sẽ là một lời tỏ tình của chàng trai và cơ gái im lặng
không hồi đáp. Đây là một dạng kết cấu mở.
4. Kết cấu hai vế đối lập:
Kết cấu hai vế đối lập là dạng kết cấu mà các ý lớn (thường gặp nhất là hai ý) có sự
đối lập nhau, đây cũng là một dạng kết cấu mở:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Gặp đây anh hỏi thực nàng
Tre non đủ lá đan sàn được chưa?
- Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Tre non đủ lá đan chưa được sang
Ngồi chợ có thiếu gì dang
Mà chàng lại nỡ đan sàn tre non
Đan sàn có gốc tre già
Tre non đủ lá được là bao nhiêu!
5. Kết cấu nhiều vế nối tiếp:
Kết cấu nhiều vế nối tiếp là dạng kết cấu có nội dung gồm nhiều ý nối tiếp nhau.
Thuộc dạng này có hai loại, loại thứ nhất giữa các ý khơng có mối liên hệ mạch lạc và
loại thứ hai giữa các vế khơng chỉ gắn bó về vần mà cịn liên hệ chặt chẽ với nhau về
nội dung.
Loại thứ nhất:
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống Sơn Trà,
Kẹo gương Thù Xà,
Mạch nha Thi Phổ.
Yến sào Hịn Nội,
Vịt lộn Ninh Hịa,
Tơm hùm Bình Ba,
Nai khơ Diên Khánh.
13
Loại thứ hai:
- Anh đi lấy vợ cách sông
Em đi lấy chồng giữa ngõ anh ra
- Có lấy thì lấy xa xa
Chớ lấy trước ngõ anh ra, anh buồn
- Buồn thời cất gánh đi buôn
Một vốn bốn lãi anh buồn làm chi?
- Buồn vì con gái nữ nhi
Mẹ cha thách cưới làm chi lỡ làng.
Ai kêu ai hú bên sông,
Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe.
Chồng xuống ghe quạt che, tay ngoắt,
Cất mái chèo ruột thắt từng cơn.
Nguyễn Xuân Kính đã đưa ra nhận xét: “dị bản chỉ có khả năng xảy ra đối với những
văn bản cùng dạng cấu tạo nội dung mặc dù không phải bao giờ hai văn bản cùng cấu
tạo cũng là một lời” (Nguyễn Xn Kính, 2006: 285)
Chương IV: Thời gian và khơng gian nghệ thuật
1. Khái quát chung
Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan được chủ thể sáng
tác đưa vào trong tác phẩm, tạo nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật có thể là thời gian thực, cũng có thể là thời gian ước lệ mang
tính chủ quan của người sáng tác. Thời gian nghệ thuật có thể trơi qua rất nhanh, hoặc
rất chậm, đôi khi như ngưng đọng. Thời gian và không gian nghệ thuật ở mỗi thể loại
lại có sự khác biệt. Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian
diễn xướng “Chiều chiều ra đứng cổng làng/ Nghe trống bãi tràng em chạy đón anh”.
Nếu có thời gian q khứ thì đó cũng là thời gian quá khứ sát gần với hiện tại “Đêm
qua nguyệt lặn về Tây/ Sự tình kẻ đấy, người đây cịn dài…”.
Không gian nghệ thuật, hiểu một cách đơn giản là nơi nhân vật hoạt động. Không gian
nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian thực. Không gian thực
chỉ có thể trở thành khơng gian nghệ thuật khi tác giả cảm nhận và nêu lên cảm nghĩ
của mình. Không gian nghệ thuật là không gian ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc. Không
gian nghệ thuật trong ca dao là những khơng gian gần gũi, bình dị như gốc đa, bến
nước, sân đình,... nơi diễn ra những sinh hoạt hàng ngày của người bình dân.
14
2. Thời gian nghệ thuật
2.1.
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn
xướng
Thời gian hiện tại có thể được bộc lộ trực tiếp bằng những từ như hôm nay, bây giờ:
Hôm nay gặp buổi êm trời
Má đào lại được sánh người trượng phu
Hôm nay sum họp trúc mai
Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm
Bây giờ tờ rã mo rơi,
Đôi ta chểnh mảng mỗi người mỗi phương.
Đặc điểm thi pháp này phản ánh lối sống ngay thẳng, rộng lượng của người bình
dân. Họ khơng chấp nhặt, để bụng mà khi có cảm xúc, tình cảm hay sự trăn trở họ sẽ
chọn cách nói ra ngay, họ hỏi thắng nói thật để rồi bỏ qua mọi khuất mắc. Cuộc sống
của người bình dân gắn với ruộng đồng bát ngát là những không gian mở, điều này đã
ít nhiều tác động đến tính cách và lối sống của họ, khiến người bình dân có lối sống
phóng khống “ruột để ngồi da”.
Ngồi ra, thời gian nghệ thuật trong ca dao còn được diễn tả bằng những từ láy toàn
bộ như chiều chiều, đêm đêm, ngày ngày:
Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Nước kia không khát, khát khao duyên chàng
Đêm đêm khêu ngọn đèn loan,
Nhớ người quân tử thở than mấy lời.
Ngày ngày ra đứng bờ ao,
Trông cá: cá lặn, trông sao: sao mờ.
Những câu ca dao này khi được hát (hoặc ngâm, đọc) lên sẽ có cảm giác thời gian
như tuần hoàn, lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác, đều đặn như một thói quen và
khơng có biểu hiện dừng lại. Đặc điểm này phản ánh lối sống nghĩa tình, thủy chung
của người bình dân.
15
Những từ hôm qua, đêm qua cho thấy thời gian xảy ra sự việc, hành động được diễn
tả nếu có xảy ra ở q khứ thì đó cũng chỉ là q khứ gần:
Hơm qua tát nước đầu đình,
Bỏ qn chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá: cá lặn, trông sao: sao mờ.
Trong ca dao cịn có những lời khơng có từ chỉ thời gian. Lúc ấy, người bình dân
hát (hoặc đọc, ngâm) lúc nào thì đó chính là thời gian bộc lộ tâm trạng của người diễn
xướng (thời gian diễn xướng):
Chim khôn chết mệt vì mồi,
Người khơn chết mệt vì lời nhỏ to.
Trai khơn tìm vợ chợ đơng,
Gái khơn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Dâu kia hết lá vì tằm
Nỗi sầu biết gỡ mấy năm cho rồi?
Hoạt động sống chủ yếu của người bình dân Việt Nam là làm nơng nghiệp. Hoạt động
nơng nghiệp phải gắn với tự nhiên, thuận theo tự nhiên. Ca dao là những câu hát cất lên
theo sự ngẫu hứng của người bình dân, ý tứ thế nào thì thể hiện ngay như thế ấy. Người
bình dân khơng mất nhiều thời gian để chỉnh sửa hay phác thảo ý tứ ca dao, họ lao động
và sáng tác theo cùng nhịp với tự nhiên, điều này đã ít nhiều ảnh hưởng đến thời gian
nghệ thuật trong những sáng tác của họ.
Theo nhận định của Lê Chí Quế - Võ Quang Nhơn – Nguyễn Hùng Vĩ, dù có hay khơng
có từ chỉ thời gian thì thời gian trong ca dao vẫn là thời gian hiện tại, thời gian diễn
xướng. Khác với thời gian quá khứ phiếm định trong cổ tích (“ngày xửa ngày xưa”, “đã
rất lâu về trước”, “xưa kia”,…) hay thời gian quá khứ xác định trong truyền thuyết
(“vào thời Hùng Vương thứ mười tám”, “vào thời An Dương Vương”,…).
2.2.
Công thức thời gian trong ca dao
16
Việc thể hiện thời gian trong ca dao đã có những cơng thức, ước lệ mà trong đó thời
gian cá nhân, thời gian khách quan, thời gian xã hội bị nhạt nhịa.
Theo Nguyễn Xn Kính trong quyển Thi pháp ca dao thì số lời ca dao được mở
đầu bằng từ “chiều chiều” là 87, “đêm khuya” là 54, “đêm qua” là 51 và “đêm nằm” là
37, ngồi ra cịn có các lời ca dao mở đầu bằng các từ “ngày ngày”, “hơm nay”, “đêm
hè”,… nhưng tần số xuất hiện có phần ít hơn. Những từ này giữ vai trị trạng ngữ và
đứng ở đầu câu:
Chiều chiều én liệng nhàn bay
Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?
Đêm khuya nghe vạc cầm canh,
Nghe chng đóng sau, nghe anh khun nàng.
Đêm nằm lấy áo kê đầu,
Áo bao nhiêu nếp, dạ sầu bấy nhiêu.
Để lí giải nguyên nhân những từ chỉ khoảng thời gian về cuối ngày chiếm số lượng
nhiều trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam cần chú ý đến đặc điểm sinh hoạt của
người bình dân ta. Làng quê Việt Nam xưa nhà cửa rất thưa thớt, vào buổi chiều tối khi
mặt trời đã lặng, khơng gian sẽ chìm vào n tĩnh, chỉ cịn tiếng cơn trùng vo ve ngoài
sân và ngọn đèn dầu leo lét trên bàn. Buổi chiều tối là thời gian của những suy tư. Sau
một ngày lao động vất vả ngoài đồng, chiều tối là thời gian rỗi rãi để người nông dân
nghỉ ngơi. Trở lại với đặc điểm của ca dao, đó là những lời ca tiếng hát cất lên từ sự
ngẫu hứng của người bình dân, người bình dân tìm đến ca dao để tự bộc lộ tâm tình.
Hai lý do trên đã giải thích cho việc những từ chỉ khoảng thời gian về cuối ngày chiếm
số lượng nhiều trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam.
Những công thức miêu tả thời gian đối lập quá khứ - hiện tại và ngược lại có tác
dụng nâng cao hiệu quả việc thể hiện tâm trạng và tạo cảm giác về sự vận động, thay
đổi của thời gian. Các cặp từ đối lập quá khứ - hiện tại có tần số sử dụng lớn (theo
Nguyễn Xuân Kính là trên 200), ngược lại các cặp từ đối lập hiện tại – quá khứ, hiện
tại – tương lai lại có mặt thưa thớt (khơng q 10 lần – theo Nguyễn Xuân Kính).
Các cặp từ đối lặp thường dùng: “khi xưa” – “bây giờ”, “khi đi” – “khi về”, “khi đầu
– bây giờ”, “nào khi” – “bây giờ”, “xưa kia” – “bây giờ”,… Đôi khi các cặp từ trên
được lặp đi lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh sự thay đổi.
Khi xưa một hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn, em quên cả mười.
Xưa kia em đã lượt là,
17
Bây giờ nó rách, nó ra thân tàn.
Khi đi trúc mới le te,
Giờ về trúc đã cánh bè sang sông
Khi đi thì trúc chưa trồng
Giờ về trúc đã hóa long ra rồi.
3. Không gian nghệ thuật
Cây đa, bến nước, mái đình, ngồi đồng, con sơng, sau hè,… là những khơng gian
vật lý quen thuộc trong ca dao. Đó là nơi diễn ra những hoạt động sinh hoạt hằng ngày
của người bình dân, nơi trai gái gặp gỡ, tâm tình, trao dun.
Cây đa cũ, bến đị xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cũ, con đị khác đưa.
Qua sơng em đứng em chờ
Qua cầu em đứng ngẩn ngơ vì cầu.
Nhìn chung trong kho tàng ca dao dân gian Việt Nam, không gian vật lý thường là
khơng gian thân thuộc, bình dị của làng q với quy mơ vừa phải. Tuy nhiên vẫn có
những trường hợp ngoại lệ:
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng.
Anh đây lên thác xuống ghềnh
Thuyền nan đã trải, thuyền mành thử chơi
Đi cho khắp bốn phương trời
Cho trần biết mặt, cho đời biết tên.
Không gian trong ca dao thường là không gian động, thể hiện sự linh hoạt, phong
phú, đa dạng trong lối sống, cách nghĩ của người bình dân.
Rủ nhau bước xuống ruộng vàng
Nơi rộn tiếng hát, nơi vang tiến cười.
Em ơm bó mạ xuống đồng
Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai.
18
Bên cạnh khơng gian vật lý cịn có khơng gian xã hội, nơi thể hiện những mối quan
hệ đa dạng của con người.
Gặp nhau giữa chuyến đò đầy
Một lòng đã hẹn, cầm tay mặn mà.
Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Chẳng tham nhà ngói ba tịa,
Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành.
Thời gian và khơng gian nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ. “Chẳng hạn ở những
câu ca dao đượm buồn thì không gian vật lý, không gian xã hội thường đi liền với thời
gian là lúc nửa đêm”. (Nguyễn Xuân Kính, 2006: 305). Để thể hiện tâm trạng đượm
buồn, nếu không dùng những từ chỉ thời gian lúc nửa đêm thì cũng sẽ không phải là
những từ chỉ khoảng thời gian sớm mai hay trưa hè, những thời gian thể hiện sự tươi
sáng, vui vẻ.
Đêm qua nguyệt lặng về tây
Sự tình kẻ đấy, người đây cịn dài…
Đêm nằm ở dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em.
Không gian nghệ thuật trong ca dao thường là không gian phiếm chỉ, điều này thể hiện
tính cộng đồng cao, trong ca dao khơng có những cái tơi cá nhân mà chỉ có những tâm
trạng chung, tình cảm phổ biến. Đó là những người nơng dân làm lụng vất vả ngồi
đồng, những chàng trai trót phải lịng cơ gái cùng làng, những cơ gái đang yêu, những
người con hiếu thảo, những người mẹ già nhớ con, những nàng dâu xa xứ,…
Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng, thường
được miêu tả bằng những công thức, ước lệ. Không gian nghệ thuật trong ca dao thường
là những khơng gian quen thuộc, gần gũi với người bình dân, nơi diễn ra những hoạt
động sinh hoạt hằng ngày của người bình dân, nơi trai gái gặp gỡ, tâm tình, trao dun
Thời gian và khơng gian nghệ thuật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau,
hài hịa với nhau để qua đó bộc lộ tâm tư, tình cảm của chủ thể sáng tác.
19
Chương V: Một số biểu tượng, hình ảnh thường gặp trong ca dao:
Biểu tượng là một sự vật mang tính chất thông điệp, là “vật môi giới giúp ta tri giác
cái bất khả tri giác” (Đoàn Văn Chúc, 1997: 67). Biểu tượng thể hiện quan niệm, tư
tưởng, tình cảm của con người về thế giới, được chấp nhận rộng rãi và sử dụng lâu dài.
Từ hình ảnh có thể trở thành biểu tượng, nhưng khơng phải hình ảnh nào cũng là biểu
tượng, biểu tượng có nhiều tầng nghĩa khác nhau. Có thể phân biểu tượng thành hai loại
là biểu tượng thuộc thế giới tự nhiên và biểu tượng thuộc thế giới nhân tạo.
1. Cây trúc, cây mai
Trong ca dao, mai và trúc theo nghĩa biểu vật là một loại cây. Tuy nhiên, tác giả dân
gian thường không tả thực cây trúc, cây mai mà họ mượn hình ảnh trúc, mai để chỉ con
người, nhưng đó khơng phải là những con người cụ thể như Tưởng Hủ, Lâm Bô của
văn học viết.
Trúc, mai được dùng để diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có hi vọng,
có sự háo hức mừng vui, có niềm mơ ước, có sự gửi gắm, có hờn dỗi, và có cả những
nỗi buồn.
Thể hiện sự hi vọng:
Đợi chờ trúc ở với mai,
Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng.
Thể hiện niềm mơ ước:
Bao giờ sum họp trúc mai
Lịng nguyền kết tóc lâu dài trăm năm.
Thể hiện sự vui mừng, háo hức:
Trầu này cúc, trúc, mai, đào
Trầu này thục nữ, anh hào sánh đôi.
Thể hiện sự gửi gắm:
Tìm nơi trúc tốt mai xanh
Tìm nơi bóng cả lắm ngành dựa nương.
Thể hiện sự hờn dỗi:
20
Những là lên miếu xuống ghè
Để tôi đánh trúc, đánh tre về trồng
Tưởng rằng nên đạo vợ chồng
Nào ngờ nói thế mà khơng có gì.
Thể hiện nỗi buồn:
Chiều nay có kẻ thất tình
Tựa mai, mai ngả, tựa đình, đình xiêu.
Trong ca dao, “trúc” có thể dùng để chỉ “em” - một cô gái xinh đẹp, dịu dàng:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh,
Trúc và mai thường được đi cùng nhau để thể hiện sự gắn kết, quấn quýt của đôi
lứa yêu nhau, đôi khi là chỉ sự thủy chung, một lời hứa, lời thề trăm năm:
Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về mai nhớ trúc không?
Hôm qua sum họp trúc mai,
Tình chung một khắc, nghĩa dày trăm năm.
Như vậy, ở ca dao trúc mai thường được dùng để biểu thị cho những cô gái, chàng trai
đang tuổi cập kê, cho đơi lứa u nhau, điều này có phần khác với các nhà thơ của văn
học viết tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm khi chọn trúc, mai là biểu tượng
cho người quân tử. Nhưng đến Nguyễn Du trúc, mai lại được sử dụng để biểu thị cho
tình cảm lứa đôi, điều này giống với ý nghĩa biểu tượng của trúc, mai trong ca dao.
2. Con cị
Con cị là hình ảnh quen thuộc trong ca dao. Hình ảnh con cị thường được so sánh
với người nơng dân. Vì thân cị gầy, đôi chân khẳng khiu, dáng vẻ kiếm ăn của cị cũng
rất tội nghiệp, nó chăm chỉ ngồi đồng từ sáng đến tối, cuối xuống mổ lấy từng con ốc,
21
con cá nhỏ rồi ngước lên, đi một đoạn, lại cuối xuống giống với tư thế cấy mạ của người
nông dân.
Cị có mối quan hệ gần gũi với người nơng dân Việt Nam, họ nhìn thấy cị khi ra
đồng, người nơng dân cày ruộng cị sẽ đi theo luống cày, người nơng dân nghỉ ngơi cị
cũng dừng chân bên bờ ruộng, khi người nông dân trở về nhà sau một ngày lao động
cò cũng lặng lẽ vươn cánh bay về tổ.
Vũ Ngọc Phan đã có những câu văn rất đắt về lồi chim này “Con cị trắng bạch kia
tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó
có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc sống
mà người dân lao động nước ta hằng mong ước”. (Vũ Ngọc Phan, 1987: 71).
Người nông dân Việt Nam mượn hình ảnh cị để thể hiện cuộc sống của mình,
những ước muốn, niềm vui, nỗi buồn, uất ức cũng như những thói xấu đều thơng qua
biểu tượng con cò mà đi vào lời ca tiếng hát:
Một đàn cò trắng bay tung
Bên nam, bên nữ ta cùng hát lên.
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta
Cái cị, cái vạc, cái nơng
Sao mày giẫm lúa nhà ơng hỡi cị!
- Khơng, khơng tơi đứng trên bờ
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tơi.
Cái cị là cái cị quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm!
Lời ca dao dưới đây có nhiều cách hiểu khác nhau, ở mỗi cách hiểu ta sẽ thấy một
ý nghĩa biểu tượng rất khác của hình ảnh con cị.
Cái cò mày mổ cái trai
Cái trai quặp lại, lại nhai cái cị
Cái cị mày mổ cái tơm
Cái tơm quặp lại, lại ơm cái cị.
22
Đầu tiên, có thể hiểu cái cị, cái trai, cái tôm là đại diện cho các thế lực phong kiến
bá quyền, thế lực áp bức và bốc lột người nông dân, lúc này người nơng dân chỉ đóng
vai trị là người quan sát và lời ca dao lúc này có ý nghĩa phản ánh sự đấu đá, xâu xé
nhau giữa các thế lực cầm quyền.
Cao Huy Đỉnh lại cho rằng “Đây là gì? Nếu khơng phải là sự trả thù chân chính
của tập thể nhân dân đối với bọn cầm quyền phong kiến dưới dạng tơm, trai, chống lại
cị?” (Cao Huy Đỉnh, 1974: 73). Với cách hiểu này con cò vẫn được hiểu là thế lực
phong kiến áp bức bốc lột nhân dân nhưng điểm khác trong quan điểm của Cao Huy
Đỉnh là xem cái tôm và cái trai là tầng lớp thấp hơn phải chịu sự áp bức của cị.
Vũ Ngọc Phan lại có một sự phân tích khác với cả hai ý kiến đã trình bày “Có người
cho rằng câu trên đây phản ánh đấu tranh giai cấp, nhưng theo tơi nghĩ thì dù có cường
điệu lên mấy đi nữa mà cho cái tôm, cái trai là những con vật ngang sức với con cò,
cho rằng con cò khơng được coi tơm và trai là thức ăn thì đây chỉ là cuộc đấu tranh
trong nội bộ nhân dân.” (Vũ Ngọc Phan, 1978: 69-70). Theo cách hiểu này hình ảnh
cái cò lại được hiểu là người dân lao động, là quần chúng nhân dân và có quan hệ ngang
hàng, đồng giai cấp với cái tôm, cái trai.
Như vậy, chỉ từ một lời ca dao đã có thể thấy được sự sáng tạo và đa dạng trong sáng
tác của người bình dân đối với hình tượng con cị. Việc biểu tượng con cò thường xuyên
xuất hiện trong ca dao và mang nhiều ý nghĩa khác nhau có thể được giải thích bằng sự
gắn bó giữa hình ảnh con cị với người nơng dân. Hoặc cũng có thể giải thích bằng việc
người nông dân quanh năm chỉ quanh quẩn với ruộng đồng, họ khơng có nhiều cơ hội
để tiếp xúc với những điều mới mẻ ngồi khơng gian làng xóm nên hình ảnh những con
vật, cây cối quen thuộc hằng ngày đã được đưa vào sáng tác, dần dần trở thành những
biểu tượng nghệ thuật mà con cị là một ví dụ điển hình.
3. Hoa nhài (hoa lài)
Hoa nhài là biểu tượng đáng chú ý trong ca dao, loài hoa mang nhiều ý nghĩa biểu
cảm, thể hiện quan niệm thẩm mỹ khác nhau của từng thời đại, từng địa phương. Hoa
nhài thường khơng được gắn với những hình ảnh q cao sang rực rỡ hay chiếm ưu thế
mà đây được xem là loài hoa đại diện cho vẻ đẹp khiêm tốn nhưng duyên dáng:
Đào kia chưa thắm đã phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu…
Hoa lí là chị hoa lài
Hoa lí có tài, hoa lài có dun.
23