HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
TÊN MƠN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TÊN BÀI THU HOẠCH
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TẠI XÃ CHÂU HỒ, HUYỆN GIỒNG TRƠM, TỈNH BẾN TRE
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG .............................................................................................2
1. Quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con người ................................2
1.1. Vị trí của vấn đề con người trong triết học Mác-Lênin....................................2
1.2 Bản chất con người ............................................................................................4
2. Thực trạng cơng tác cán bộ tại địa phương .........................................................8
2.1. Tình hình cơng tác cán bộ tại địa phương ........................................................8
2.2. Những ưu điểm .................................................................................................9
2.3 Những hạn chế .................................................................................................11
2.4. Nguyên nhân của ưu điểm ..............................................................................13
2.5. Nguyên nhân của hạn chế ...............................................................................14
3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ ................................................15
PHẦN III: KẾT LUẬN...........................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................x
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Công tác cán bộ rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng
ta và của dân tộc nói chung, của mỗi cơ quan, đơn vị, nghành, địa phương nói
riêng. Cơng tác cán bộ được quan tâm thực hiện tốt thì sẽ phát huy được khả
năng của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ, thúc đẩy cơ quan phát triển; ngược
lại thực hiện công tác cán bộ không tốt sẽ không phát huy được vai trị của đội
ngũ cán bộ, kìm hãm sự phát triển của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Trong thời gian qua, trên địa bàn xã Châu Hồ, huyện Giồng
Trơm, tỉnh Bến Tre đã đạt được nhiều kết quả tích cực về công tác cán bộ, số
lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được nâng lên, đáp
ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Tuy nhiên trong q
trình thực hiện cơng tác cán bộ ở địa phương cũng còn nhiều vấn đề đáng
quan tâm như: Công tác đánh giá cán bộ, công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ,
công tác quản lý, sử dụng cán bộ, công tác điều động, luân chuyển cán bộ...
cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, cần được quan tâm cũng cố, nâng chất.
Qua nghiên cứu, học tập quan điểm tồn diện trong mơn triết học Mác
– Lênin, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, để góp phần thực hiện tốt
công tác cán bộ tại địa phương, em xin chọn nội dung viết thu hoạch với chủ
đề “ Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức tại xã Châu Hồ huyện Giồng
Trơm, tỉnh Bến Tre” để làm bài thu hoạch mơn triết học Mác- Lênin. Trong
q trình học tập, nghiên cứu, thu thập tài liệu tuy bản thân đã rất cố gắng
nghiên cứu và chọn lọc để hoàn thành bài thu hoạch, song do sự hiểu biết của
bản thân về vấn đề nghiên cứu còn hạn hẹp nên chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý
Thầy, quý Cô để bài thu hoạch của em được hoàn thiện hơn và để sau này vận
dụng vào thực tiễn công tác tại đơn vị tốt hơn.
2
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con người
1.1. Vị trí của vấn đề con người trong triết học Mác-Lênin
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống
nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển
của con người chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên là một trong
những phương diện cơ bản của con người, lồi người.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác ngộ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này được chứng minh bằng toàn bộ sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết
của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới
tự nhiên cũng là “ thân thể vơ cơ của con người”.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác ngộ sau đây:
Thứ nhất, xét từ giác ngộ nguồn gốc hình thành con người, lồi người
thì khơng phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự
nhiên mà có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố
lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua lồi động
vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện
mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về
nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời
giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
Thứ hai, xét từ góc độ tồn tại và phát triển của con người, lồi người
thì sự tồn tại của nó ln ln bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui
luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay
3
đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự
phát triển của xã hội. Ngồi mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại
với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy mà không thể là “con người”
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về
bản chất, “bản tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm
đó thường là những quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã phê phán vắn tắt những
quan niệm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất của con người
khơng phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
Hạn chế căn bản của quan niệm duy vật siêu hình, trực quan là trừu
tượng hóa, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, thường xem
nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội của nó, do đó về căn
bản chỉ thấy bản tính tự nhiên của con người.
Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người
thì sự hình thành và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo
lịch sử của nó cần phải được tiếp cận từ giác độ phân tích và lý giải sự hình
thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử xã hội.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động
thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con
người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch
sử đó.
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người, ta có
thể thấy:
4
Thứ nhất, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì
khơng thể chỉ đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn
bản hơn, có tính quyết định phải là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ
những quan hệ kinh tế – xã hội của nó.
Thứ hai, động lực cơ bản của sự tiến bộ và sự phát triển của xã hội
chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực
sáng tạo của mỗi con người, vì con người chính là phát huy nguồn động lực
quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Thứ ba, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng
tạo lịch sử của nó phải là hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh
tế – xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó có thể thấy: Một trong những
giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở mục tiêu
xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội áp bức và bóc lột ràng buộc khả
năng sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân – những chủ thể sáng tạo đích
thực ra lịch sử tiến bộ của nhân loại; thơng qua cuộc cách mạng đó nó cũng có
thực hiện sự nghiệp giải phóng tồn nhân loại bằng phương thức xây dựng
mối quan hệ kinh tế – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa nhằm
xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành
điều kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện
triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mình vì mọi
người; mọi người vì mình”.
1.2 Bản chất con người
Trãi qua chiều dài lịch sử, có rất nhiều cách tiếp cận vấn đề con người.
Phật giáo xem con người khác con vật ở chỗ có tâm và có thức. Quan niệm cơ
bản của Phật Giáo về con người và cuộc đời con người tập trung thể hiện ở
nhân sinh quan Phật Giáo, cụ thể là ở tứ diệu đế : khổ đế, nhân đế, diệt đế,
đạo đế.
5
Các nhà tư tưởng Nho giáo đã tuyệt đối hóa bản chất con người ở
phương diện đạo đức. Theo Khổng Tử, bản tính tự nhiên vốn có của con
người khi mới sinh ra đều như nhau đó là ngay thẳng do trời phú cho nhưng
sau này do hoàn cảnh sống của con người khác nhau, cơng việc khác nhau,
thói quen khác nhau,v.v.. mà khiến cho bản tính tự nhiên đó ngày càng khác
xa nhau. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người là thiện. Khác Mạnh Tử,
Tuân Tử lại cho rằng con người sinh ra vốn đã ác - “Nhân chi sơ tính bản ác”.
Trong khi đó ở phương Tây, một số trào lưu triết học lại giải thích bản
chất con người từ góc độ những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất.
Bản chất đó là bản tính tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác
và dục vọng để phát triển nịi giống; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong
khn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã
hội hiện thực của nó. Tính chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất
con người biểu hiện ở chỗ coi bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về
bản chất tự nhiên, tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.
Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể
trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người
sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn
tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Luận điểm nổi tiếng về con người được C.Mác viết trong Luận cương
về Phoi-ơ-bắc (1845): "Bản chất con người không phải là một cái gì trừu
tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" .
Với quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là
trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là
một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố
xã hội mới là bản chất đích thực của con người.
6
Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người
sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự
phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá nhân là sự
tổng hợp khơng chỉ của các quan hệ hiện có, mà cịn là lịch sử của các quan
hệ đó.
Thơng qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã
hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người.
Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con
người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết
học mác - xit.
Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln chú ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là
cả loài người" .
Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội,
con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con
người hoạt động và sinh sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối
quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi
con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong
đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong
đó con người là một bộ phận không thể tách rời.
Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể
thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống
cấu trúc bao gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh
thần...
7
Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát
triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội,
nhân tố quyết định thành công của cách mạng.
Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn
sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.
Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền
kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa
dạng, phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để
phát triển cá nhân.
Tuy nhiên, cơ chế này có thể dẫn tới tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, dẫn
đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập
giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường, phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người
của Đảng ta là một mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết tốt mối quan
hệ cá nhân - xã hội: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao
động, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong cơng nghiệp, có ý thức cộng
đồng, tơn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hồ trong gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Đặc biệt, quán triệt sâu sắc tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng là phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam, khơi dậy khát vọng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm (2021-2030) bổ sung, làm sâu sắc, phong phú hơn quan điểm về nguồn
lực con người: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
8
phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nhân tố con người, coi con người là
trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển;
lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy
tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải
hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân”.
Có thể khẳng định, Luận điểm của C.Mác về bản chất con người đến
nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đó là những bài học hết sức
quý báu trong việc phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước, góp phần sớm hiện thực hóa mục tiêu “đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” .
2. Thực trạng công tác cán bộ tại địa phương
2.1. Tình hình cơng tác cán bộ tại địa phương
Xã là một đơn vị cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống
quản lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng thấp nhất
khơng đồng nghĩa với ít quan trọng nhất.
Do vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ xã là nhiệm vụ rất quan trọng. Đội
ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự lãnh
đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt,
tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi
chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như mọi
chương trình, kế hoạch của chính quyền xã.
Cán bộ xã là cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, nhà nước với nhân
dân vì cán bộ xã là cán bộ cấp cơ sở, cấp gần dân, sát dân nhất.
9
Đội ngũ cán bộ xã giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc
đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở.
Về tình hình cán bộ, công chức và những người hoạt động không
chuyên trách tại địa phương hiện nay tổng số là 37 người trong đó:
Cán bộ chuyên trách 11 người, trong đó 10/11 người đạt chuẩn đạt tỷ lệ
90.9%. Cụ thể như sau: Tốt nghiệp trung học phổ thông 11/11 người đạt tỷ lệ
100%; trung cấp là 02 người đạt tỷ lệ 18%; Đại học là 08 người đạt tỷ lệ 72%,
Cao cấp chính trị 01 người đạt 9%; trung cấp chính trị 9 người đạt tỷ lệ 81%;
sơ cấp chính trị 01 người đạt tỷ lệ 9%; trình độ A, B ngoại ngữ 10 người đạt
tỷ lệ 90.9%; trình độ A, B tin học 10 người đạt tỷ lệ 90.9%.
Công chức 12 người, trong đó 11/12 người đạt chuẩn đạt tỷ lệ 91.66%.
Cụ thể như sau: Tốt nghiệp trung học phổ thông 12/12 người đạt tỷ lệ 100%;
Đại học 11 người đạt tỷ lệ 91.66%; trung cấp 01 người đạt tỷ lệ 8.3 %; trung
cấp chính trị 08 người tỷ lệ 81.18%; sơ cấp chính trị 04 người đạt tỷ lệ 33%;
có trình độ A ngoại ngữ trở lên 12 người đạt tỷ lệ 100%; có trình độ A tin học
trở lên 12 người tỷ lệ 100%.
Người hoạt động không chuyên trách xã 14 người, trong đó 9/14 người
đạt chuẩn chun mơn đạt tỷ 64%. Cụ thể như sau: Tốt nghiệp trung học phổ
thông là 12/14 người tỷ lệ 85.7 %; đại học 04/14 tỷ lệ 28.5%: trung cấp 05/14
người tỷ lệ 35.7%; 03/14 người khơng đạt chuẩn tỷ lệ 21% ,trình độ ngoại
ngữ A là 4/14 người tỷ lệ 28%; trình độ tin học A trở lên 6 người tỷ lệ 42%. .
2.2. Những ưu điểm
Nhận thức của cả hệ thống chính trị về công tác cán bộ được nâng lên.
Trong triển khai thực hiện cơng tác cán bộ có qn triệt đầy đủ, kịp thời các
chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác
cán bộ.
10
Cơng tác cán bộ có nhiều đổi mới, chuyển biến về nội dung, phương
pháp theo hướng ngày càng dân chủ, cơng khai minh bạch, cả hệ thống chính
trị cùng tham gia vào công tác cán bộ, từng bước đưa công tác cán bộ đi vào
nề nếp, sát thực tế hơn, hiệu quả hơn. Cụ thể:
Về số lượng và chất lượng cán bộ, công chức xã: Đội ngũ cán bộ của
địa phương hiện nay đảm bảo về số lượng theo quy định, cơ cấu tương đối
hợp lý, chất lượng từng bước được nâng lên đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ;
cán bộ nữ, trẻ được quan tâm sắp xếp , bố trí phù hợp về cơ cấu và số lượng. (
Tỷ lệ nữ tham gia cấp uỷ trong nhiệm kỳ 2020-2025 là 6/15 đạt tỷ lệ 40 %.
Hiện Phó Bí thư thường trực Đảng uỷ, Chủ tịch MTTQ VN xã, Phó Chủ tịch
UBND xã, Bí thư xã đồn là nữ)
Về lập trường chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng: hầu hết đội
ngũ cán bộ, công chức ở xã đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham
gia hoạt động cách mạng và trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần
chúng nhân dân; là những người có uy tín, được nhân dân tín nhiệm, ln hết
lịng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đội ngũ cán bộ xã phần lớn vững
vàng về chính trị, nỗ lực phấn đấu học tập, rèn luyện và trưởng thành từ cơ
sở; một số được đào tạo cơ bản về trình độ chun mơn và lý luận chính trị.
Về năng lực lãnh đạo, quản lý và công tác không ngừng được nâng lên, góp
phần thực hiện hồn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của địa phương,
cơ sở.
Về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị: Đã từng bước được nâng
lên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức có
bước chuyển biến trong nhận thức của các cấp uỷ đảng. Bước đầu khắc phục
được tình trạng chủ quan, bị động, chắp vá trong công tác cán bộ .
11
Công tác tạo nguồn quy hoạch cán bộ, công chức: được tập trung chỉ
đạo và thực hiện có hiệu quả, đa dạng hố các loại hình đào tạo theo từng loại
đối tượng cán bộ, chú trọng cả đào tạo lý luận chính trị và chun mơn nghiệp
vụ; quan tâm đào tạo cán bộ chủ chốt trong diện qui hoạch, từng bước đáp
ứng được yêu cầu trước khi đề bạt, bổ nhiệm và chuẩn hoá cán bộ.
Việc sắp xếp, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đề án vị trí việc
làm; bố trí kiêm nhiệm, giảm người hoạt động không chuyên trách cấp xã
được thực hiện đúng theo qui định như: Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày
24 tháng 4 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán
bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở
thôn, tổ dân phố; Đề án số 02-ĐA/TU, ngày 28/9/2018 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Bến Tre về “Sắp sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị Bến Tre ... Đa số cán bộ, cơng chức có ý
thức tổ chức kỷ luật, thực hiện tốt nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, có
tinh thần trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2.3 Những hạn chế
Về chất lượng:
Về lập trường chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng: vẫn còn một
vài cán bộ, đảng viên suy thối về chính trị, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối
sống, quan liêu, chưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xa rời quần chúng
nhân dân.
Về trình độ học vấn: Cũng cịn một vài đồng chí chưa tốt nghiệp cấp
ba.
12
Về trình độ chun mơn: Thực tế cho thấy, trình độ chun mơn của
đội ngũ cán bộ, cơng chức có nâng lên nhưng vẫn cịn một vài đồng chí có
trình độ chuyên môn hụt chuẩn theo quy định .( cấp uỷ viên hoặc công chức
trong nhiệm kỳ 2020-2025 quy định phải có trình độ đại học nhưng vẫn cịn
đồng chí chưa có đại học) .
Về trình lý luận chính trị: Đa số đáp ứng đủ điều kiện, tuy nhiên vẫn
cịn một số đồng chí trong cấp uỷ và một số cán bộ, công chức chưa có trình
độ trung cấp chính trị.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ, cơng chức sau đào tạo cịn bất cập, một số
chức danh chưa phù hợp giữa chuyên môn đào tạo với lĩnh vực được phân
công, phụ trách.
Công tác quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, công
chức thiếu sự đồng bộ. Với thực trạng đó, đa số họ làm việc chủ yếu theo kinh
nghiệm, lối mịn, chất lượng và hiệu quả cơng tác không cao.
Về đánh giá cán bộ cán bộ, công chức xã: Đơi lúc vẫn cịn hình thức,
thể hiện ở kết quả đánh giá cán bộ không tương xứng với thực chất hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, cuối năm tất cả cán bộ được đánh giá
từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên . Như hiện nay, đời sống kinh tế của nhân
dân ở xã tuy có nâng lên nhưng vẫn cịn chậm, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng lại
có nguy cơ tái nghèo, cơng tác tiếp dân có chuyển biến nhưng vẫn cịn hạn
chế, an ninh trật tự kéo giảm nhưng tệ nạn xã hội vẫn cịn xảy ra…như vậy
những trách nhiệm này thì thuộc về tập thể, chứ không phải là riêng của một
cán bộ, công chức nào cả. Thực trạng trên cho thấy việc đánh giá cán bộ cịn
hình thức, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hạn chế cho các khâu tiếp
theo của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã.
Về công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức xã: Hạn chế trong
công tác này là cấp uỷ chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trị của cơng tác quy
hoạch cán bộ nên việc tổ chức thực hiện còn lúng túng. Trong quy hoạch còn
dàn trãi, tính khả thi chưa cao; chất lượng và cơ cấu của quy hoạch cịn nhiều
mặt hạn chế; về trình độ trong quy hoạch chưa đảm bảo yêu cầu.
Công tác tạo nguồn quy hoạch cán bộ, công chức xã: Công tác đào tạo
cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Mặt khác, trong đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức là chưa gắn chặt với quy hoạch, cịn đạo tạo dàn trãi, hoặc
tự học.
Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức địa phương những năm gần đây
được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên mơn, nghiêp vụ,
chính trị. Tuy nhiên hiện nay về trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng còn hạn
chế, vẫn chưa cao chưa đáp ứng tốt yêu cầu .
Công tác đánh giá cán bộ, công chức những năm gần đây thực hiện
theo quy định tiêu chuẩn về đánh giá cán bộ có nâng lên. Tuy nhiên trong
đánh giá, phân loại cán bộ, cơng chức vẫn cịn một số hạn chế như: một số ít
cán bộ chưa phát huy tốt cơng tác phê bình, tự phê bình, vẫn cịn trình trạng
tình trạng nể nang, né tránh trách nhiệm, ngại va chạm. Chưa có sự gắn kết
chặt chẽ giữa kết quả đánh giá cán bộ với các khâu khác trong công tác cán
bộ… Sau đánh giá chưa quan tâm đến nội dung khắc phục hạn chế, khuyết
điểm dẫn đến hạn chế, khuyết điểm kéo dài nhiều năm. Nhìn chung đánh giá,
xếp loại chưa thật sự tạo động lực thúc đẩy trong phát huy năng lực trong đội
ngũ cán bộ.
Một số ít cán bộ tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu gương mẫu, tự
phê bình và phê bình chưa cao, chưa thường thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống nên ý thức học tập, tác phong lề lối làm
việc, tính chuyên nghiệp chưa cao.
2.4. Nguyên nhân của ưu điểm
Sự quan tâm chỉ đạo và hướng dẫn lãnh đạo các cấp về công tác cán bộ.
Cấp uỷ đảng ở xã đã phát huy tốt vai trò tham mưu trong xây dựng đội
ngũ cán bộ trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng những quan điểm, nguyên
tắc trong công tác cán bộ của Đảng và nhà nước.
Sự nhiệt tình cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đội ngũ
cán bộ, cơng chức cấp xã.
2.5. Ngun nhân của hạn chế
Vẫn cịn một số đồng chí cấp uỷ đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận
thức đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trị của cán bộ và công tác cán bộ và việc
xây dựng đội ngũ cán bộ.
Năng lực nhận thức và tổ chức triển khai các quy chế, quy định, quy
trình về cơng tác cán bộ của cấp uỷ cơ sở cịn nhiều hạn chế. Sự phối hợp của
các cấp, các ngành và các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa chặt chẽ,
thường xuyên.
Yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ở xã đã gây áp lực rất lớn trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối với cấp xã và kể cả các cơ sở giáo dục, đào
tạo. Một số cán bộ ở cơ sở thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo
đức, lối sống nên ý thức học tập tại các cơ sở đào tạo kém, uy tín đối với quần
chúng khơng cao thậm chí gây mất lòng tin của nhân dân.
Cơ sở vật chất phục vụ cho cán bộ trong những năm gần đây được quan
tâm thực hiện, tuy nhiên chưa đảm bảo, nhất là điều kiện về máy móc, trang
thiết bị phục vụ cho cơng việc .
Chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cấp xã còn thấp
chưa thực sự động viên, khuyến khích cán bộ tích cực cơng tác, chưa thật sự
phát huy hết tài năng, sự sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức cũng như là
chưa đảm bảo để cán bộ, công chức an tâm công tác. Nhất là chế độ chính
sách cho người hoạt động khơng chun trách cấp xã. Chính vì vậy mà một
số cán bộ, cơng chức cấp xã phải thị chân ra ngoài làm thêm nhiều việc để
đảm bảo cuộc sống, với nhiều thứ phải lo toan.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ
Để công tác cán bộ ở cơ sở được thực hiện tốt, phát huy được vai trị
của cá bộ, cơng chức, thúc đẩy sự phát triển của cơ quan, đơn vị cần tập trung
thực hiệm mốt số giải pháp sau:
Một là: Nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác cán
bộ; quán triệt và thực hiện đầy đủ, đúng đắn các quan điểm của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, vận dụng linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Hai là: Trong thực hiện công tác cán bộ phải thực hiện toàn diện, đồng
bộ, chặt chẽ, liên kết giữa các khâu, các quy trình, quy định về cơng tác cán
bộ đặc biệt chú ý cơng tác đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.. trong cơ quan,
đơn vị .
Làm tốt các khâu trong công tác cán bộ. Tránh chủ quan, dân chủ hình
thức, định kiến hẹp hịi kiểu “dịng họ, xóm, làng”.
Đối với cơng tác đánh giá, xếp loại cán bộ: hiện nay Đảng và nhà nước
đã ban hành khung tiêu chí đánh tồn diện cán bộ giá cán bộ như: hướng dẫn
số: 21-HD/BTCTW, ngày 18 tháng 10 năm 2019 của Ban tổ chức Trung ương
về hướng dẫn kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với tổ
chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp;
nghị định số: 90/2020/NĐ-CP, ngày 13 tháng 8 năm 2020 của chính phủ về
đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức và các văn bản
hườn dẫn của Tỉnh, Huyện. Nhìn chung trong đánh giá có chuyển biến từng
bước nâng chất lượng trong đánh giá. Tuy nhiên khâu đánh giá cán bộ vẫn
hiệu quả chưa cao. Dó đó để nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác đánh giá
cán bộ thì vấn đề quan trọng là trong đánh giá phải toàn diện, khách quan,
tránh chủ quan, không được phiến diện, không được định kiến, hời hợt, chủ
quan cảm tính và đánh giá phải dựa trên cơ sở kết quả công việc của từng
ngành gắn với trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân trong tham mưu thực hiện
để đánh giá đồng thời phải có kế hoạch kiểm tra, giám sát kết quả khắc phục
những hạn chế trong kiểm điểm đánh giá cán bộ, cơng chức, tránh trình trạng
khuyết điểm, hạn chế lặp đi, lặp lại, kéo dài nhiều năm do không được kiểm
tra, phúc tra, nhắc nhở thường xuyên.
Ba là: Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng nâng cao
chất lượng, đảm bảo sự đồng bộ theo hướng có tính kế thừa và phát triển. Đào
tạo, bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch, bố trí, sử dụng, phân cơng cán bộ,
cơng chức phải phù hợp với chuyên môn đào tạo, để đội ngũ cán bộ, công
chức sau đào tạo phát huy được sở trường, năng lực của mình trong cơng tác
chun mơn. Quan tâm cơ chế chính sách trong đào tạo, bồi dưỡng, thu hút
cán bộ, công chức.
Thường xuyên thực hiện công tác giáo dục tư tưởng giúp cho cán bộ,
công chức để bản thân họ tự học, tự rèn đạo đức lối sống, nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Bốn là: tăng cường cơng tác giáo dục, quản lý cán bộ, công chức. Tăng
cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát về mặt công tác lẫn quan hệ xã
hội, đạo đức lối sống của cán bộ nhằm ngăn ngừa sai phạm dẫn đến xử lý kỷ
luật, trong đó có kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với cấp dưới trong việc
quản lý cán bộ và kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với thực hiện cơng tác cán bộ
của chính quyền...
Năm là: Đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong thực hiện chính sách
cán bộ. Đồng thời tạo dựng phong trào thi đua, xây dựng môi trường làm
việc tốt
để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến của cán bộ, công chức.
Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, thực hiện tốt công tác thi đua, khen
thưởng đúng người để tạo động lực trong cơng tác, tránh khen thưởng cào
bằng, hình thức, nâng cao chính sách, cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
để cán bộ, công chức tập trung cao trong thực hiện nhiệm vụ cũng như thu hút
nguồn nhân lực về tham gia công tác tại địa phương. Vấn đề nâng cao chính
sách muốn giải quyết phải có sự vào cuộc của nhiều cấp, chứ cấp cơ sở khơng
thể tự tạo ra chính sách.
Trong cơng tác quy hoạch cán bộ: quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị và thực tế đội ngũ cán bộ, công chức của địa phương; phải
gắn công tác quy hoạch với các khâu khác trong công tác cán bộ; bảo đảm sự
liên thông quy hoạch của cả đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, đồng bộ,
tồn diện; có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm chất lượng; quy hoạch có tính
kế thừa, phát triển. Cơng tác quy hoạch cán bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất của cấp ủy Đảng; lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy
hoạch ở cấp trên, quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới; bảo đảm
sự liên thông, gắn kết giữa quy hoạch cấp dưới với quy hoạch cấp trên. Xây
dựng quy hoạch cán bộ phải đồng thời với xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ theo quy hoạch.
Trong công tác cán bộ không thể thiếu vai trò quan trọng của người
đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị, ngoài phẩm chất đạo đức vượt trội, năng
lực tốt thì người đứng đầu phải gương mẫu, là trung tâm, hạt nhân của sự
đồn kết, thống nhất, có tư duy tầm nhìn chiến lược, phải dân chủ, khách
quan, tồn diện.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Tóm lại, hiểu một cách tổng quát xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã toàn
bộ hoạt động của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm làm
nên, tạo ra một đội ngũ cán bộ xã đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập
trường chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ sở. Đồng thời cịn bao hàm cả việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ xã hiện có, để đội ngũ này thích ứng với cơ chế mới, yêu cầu mới của
nhiệm vụ chính trị đang đặt ra hiện nay.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã nhằm tìm ra những con người
thật sự có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh
vác những trọng trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Công tác đó bao gồm: việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách
về cán bộ và cơng tác cán bộ của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ và
đội ngũ cán bộ, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện
đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội
bộ và thực hiện chính sách cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, người hoạt động khơng chun
trách xã có tư tưởng tiến cơng, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo
đức, có lối sống trong sạch, lành mạnh, nói đi đơi với làm, gần dân, sát việc,
năng động, đổi mới, có uy tín, có năng lực và kinh nghiệm thực tiễn; được
chuẩn hóa về trình độ đào tạo theo vị trí việc làm chức danh, chức vụ; có số
lượng cơ cấu hợp lý theo quy định của Đảng, Nhà nước là nhiệm vụ quan
trọng, trực tiếp, thường xuyên và là trách nhiệm chính trị của cấp ủy và của
người đứng đầu cấp ủy địa phương./
x
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban tổ chức Trung ương (2019), Hướng dẫn số: 21-HD/BTCTW,
ngày 18 tháng 10 năm 2019 của Ban tổ chức Trung ương về hướng dẫn kiểm
điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên
và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
2. Chính phủ (2020), Nghị định số: 90/2020/NĐ-CP, ngày 13 tháng 8
năm 2020 của chính phủ về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức,
viên chức.
3.. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII (tập I, II), Nxb chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
4. Đảng uỷ xã Châu Hoà (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu xã Châu
Hoà nhiệm kỳ 2020- 2025.
5. Quốc hội (2008), Luật số : 22/2008/QH12, ngày 13 tháng 11 năm
2008 của Quốc hội về Luật cán bộ, công chức.
6. Quốc hội (2019, Luật số: 52/2019/QH14, ngày 22 tháng 11 năm
2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật cán bộ, công chức và luật
viên chức.
7. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình triết học
Mác- Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
8. Tỉnh ủy Bến Tre ( 2018), Đề án số 02-ĐA/TU, ngày 28/9/2018 của
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre về “Sắp sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy,
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Bến Tre.