Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

PHONG TỤC TANG LỄ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.09 KB, 24 trang )

*
*

ĐỀ TÀI :

*

PHONG TỤC TANG LỄ Ở
ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ


MỤC LỤC
MỤC LỤC ...........................................................................................................1
TỔNG QUAN ....................................................................................................2

1.
2.
3.
4.
5.

Lí do chọn đề tài .......................................................................................2
Mục đích nghiên cứu đề tài ......................................................................2
Đối tượng nghiên cứu ...............................................................................3
Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................3
Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu ..............................................3

NỘI DUNG .........................................................................................................4

Chương 1 : Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn ....................................................4
1. Cơ sở lí luận ..............................................................................................4


2. Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................5
Chương 2 : Sơ lược về đồng bằng Bắc Bộ ......................................................5
1. Điều kiện tự nhiên ở đồng bằng Bắc Bộ ...................................................5
2. Đời sống xã hội ở đông bằng Bắc Bộ .......................................................6
Chương 2 : Tang lễ xưa ở đồng bằng Bắc Bộ .................................................8
1. Trước tang lễ .............................................................................................8
2. Trong tang lễ .............................................................................................9
3. Sau tang lễ ...............................................................................................14
Chương 3 : Tang lễ nay ở đồng bằng Bắc Bộ.................................................19

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 24
Tài liệu tham khảo .............................................................................................23

1


PHẦN TỔNG QUAN
1. Lí do chọn đề tài
Chữ “ Hiếu “ trong tiếng Hán được cấu tạo bởi chữ “ Lão “ ở trên và chứ
“ Tử “ ở dưới. Có nghĩa là cha là bề trên, con là bề dưới , suy rộng ra
nghĩa là con cháu phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Chữ “ Hiếu “
được thể hiện qua từng hành động, lời nói hằng ngày. Đặc biệt nó cịn
được biểu hiện qua các phong tục tập quán của cha ông ta từ xưa tới nay.
Trong lễ tang cũng vậy, đó có thể coi là việc làm cuối cùng của con cháu
dùng để báo hiếu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Các nghi thức trong tang lễ
như lời chia tay mà người ở lại muốn nói với người đã ra đi. Đây cịn là
nét văn hóa dân gian của dân tộc ta.
Phong tục tang lễ ở mỗi vùng miền có những nét đặc trưng riêng, cách
người dân thực hiện các nghi thức tang lễ cũng thể hiện được đặc trưng
về tính cách con người ở vùng miền đó. Miền Bắc là nơi có lịch sử lâu

đời nhất đất nước. Nơi đây đã lưu giữ những nét văn hóa từ thời xa xưa
đến nay, từ thuở khai hoang lập địa. Đã có rất nhiều đề tài văn hóa của
miền Bắc được nghiên cứu và tìm hiểu như món ăn, lễ hội, trang phục ...
và trong đó khơng thể khơng nhắc đến phong tục làm lễ tang. Một phong
tục có từ thời xa xưa đến nay, mà qua phong tục đã toát lên được các đặc
trưng của nền văn hóa dân gian của người dân khu vực đồng bằng sơng
Hồng. Chính vì vậy đề tài về phong tục tang lễ ở đồng bằng Bắc Bộ đã
thu hút tôi. Tôi muốn hiểu rõ hơn về các phong tục , nghi lễ trong đám ma
của vùng đồng bằng Bắc Bộ giữa xưa và nay có gì khác biệt. Đâu là
những truyền thống văn hóa mà lớp con cháu chùng tôi cần phải lưu giữ
và phát huy .
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Để thấy rõ hơn các đặc trưng văn hóa của người Việt nói chung và người
dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Khơng chỉ ở các khía cạnh như
món ăn, lễ hội, các di tích lịch sử mà văn hóa cịn được thể hiện qua các
phong tục tập quán như tang lễ. Qua các nghi thức và cách người dân
thực hiện các nghi thức tang lễ cũng phần nào tốt lên được tính cách thái
độ của con người đối với nền văn hóa của cha ơng truyền lại. Một nền
văn hóa dân gian đặc sắc .
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài này còn giúp các thế hệ sau hiểu hơn và
tiếp tục lưu giữ các giá trị tinh thần mà của cha ơng ta từ xưa tới nay. Có
thể nhìn văn hóa ở góc độ đa chiều.
2


Muốn mang đến cho người đọc cái nhìn đầy mới mẻ về phong tục tang lễ
của cho ông ta. Đây là các nghi thức mà người ở lại làm cho người đã ra
đi , thể hiện sự đau buồn, lưu luyến.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong tục tang ma của người Việt

Nam. Cụ thể là phong tục tang ma của người dân ở khu vực đồng bằng
sơng Hồng.
Tìm hiểu về các nét văn hóa trong các nghi thức tang lễ từ xưa tới nay,
những sự thay đổi trong tư duy con người và những góc nhìn khác nhau .
Vì dân tộc sinh sống chủ yếu ở đồng bằng Bắc Bộ là dân tộc Kinh nên đối
tượng nghiên cứu của đề tài sẽ hướng đến dân tộc Kinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết có sẵn, các nguồn tài liệu
từ sách, báo, từ các bài nghiên cứu cùng đề tài. Từ các nguồn tài liệu đó,
tơi tiến hành sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích đề làm rõ đối
tượng nghiên cứu. Phân tích chuyển biến tâm lí con người qua từng giai
đoạn, nghi thức của lễ tang. Qua việc từng trải nghiệm thực tế một số
tang lễ ở đồng bằng Bắc Bộ từ đó đưa ra những cái nhìn khách quan và
chân thật hơn vào bài viết.
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu
Sau khi nghiên cứu, bản thân người nghiên cứu và người đọc sẽ có thể
hiểu rõ và sâu sắc về phong tục tang lễ của dân tộc vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Hiểu rõ được các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc để từ đó
gìn giữ và phát huy.
Qua phong tục tang lễ có thể khắc họa rõ logic tâm lí con người , cụ thể
là tình cảm của người sống dành cho người chết. Tất cả tình cảm, sự chân
thành được thể hiện qua từng nghi thức trong tang lễ . Bên cạnh việc
giúp lưu truyền và phát huy các giá trị tích cực thì việc nghiên cứu sâu
hơn về đề tài này cịn giúp tơi nhận ra nhận ra những vấn đề bất cập,
những điểm tiêu cực cần hạn chế và loại bỏ trong phong tục tang lễ ở
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

3



PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lí luận
Phong tục đã có từ rất lâu, được dân tộc ta truyền từ này sang đời khác.
Đây là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn đối với nhiều nhà khoa học. Đứng ở
các khía cạnh các góc nhìn khác nhau sẽ cho ra những quan điểm khác
nhau. Vậy phong tục là gì?
“Phong tục là Thói quen sinh hoạt và cách sống lâu ngày đã ăn sâu vào
đời sống xã hội hay toàn bộ hoạt động sống của con người hình thành
trong tiến trình lịch sử, có tính ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, được cộng đồng thừa nhận và tuân theo một cách tự
giác.” ( thư viện pháp luật, )
Nam Việt trong Văn hoá phong tục thế giới qua hình ảnh viết: “Phong
tục là nét đặc trưng riêng của mỗi dân tộc trên thế giới, trở thành luật
tục ăn sâu vào đời sống của nhân dân. Môi trường văn hoá là một trong
những nhân tố quyết định đến phong tục. Văn hoá phong tục là những
căn cứ quan trọng để đánh giá chủ quyền văn hoá của mỗi dân tộc. Bởi
vì nó phản ánh tâm tư tình cảm, diện mạo tinh thần và những thăng trầm
lịch sử của dân tộc đó, từ đó giúp con người hiểu được quá khứ và hiện
tại” (Tạ Đức Tú, Nghiên cứu phong tục trên phương diện khái niệm và
liên
ngành
:8080/dspace/bitstream/TTKHCNDaNang_123456789/76
01/1/88.pdf )
Phong tục tang lễ có thể hiểu là các nghi thức của mà người sống thực
hiện cho người mất được lưu giữ qua nhiều thế hệ, nó đã ăn sâu vào đời
sống xã hội, được mọi người thừa nhận và tuân theo
Chôn cất người chết.thể hiện lịng thương xót cũng như hồi niệm về
những ngày người chết cịn sống.Đồng thời xem đó như là điều sau cuối
cần làm để tiễn người chết về thế giới bên kia.

Việc nghiên cứu về phong tục tang ma đã chỉ ra nét đặc trưng phong tục
tang lễ của Việt Nam,làm tiền đề cho sự so sánh đối chiếu với phong tục
tang lễ của câc nước khác. Và cả sự thay đổi khác nhau giữa xưa và nay.

4


Qua đó giúp bản thân có sự hiểu biết,cái nhìn sâu sắc hơn về nền văn hóa
của dân tộc mình, từ đó góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị thuyết
thống của dân tộc mình.
2. Cơ sở thực tiễn
Mỗi khi có người ra đi, người ở lại sẽ cùng nhau tổ chức đám tang cho
người đó. Mọi người cùng nhau chia buồn, cùng thể hiện sự nuối tiếc và
đau buồn sâu sắc của mình. Đám tang là các nghi lễ được tiến hành để
đưa tiễn người chết. Ở mỗi quốc gia sẽ có những cách cử hành tang lễ
khác nhau và ở các vùng miền trong một quốc gia cũng vậy. Không miền
nào giống miền nào, mỗi miền mang cho mình những đặc trưng riêng.
Qua các nghi thức tang lễ cũng thể hiện nết sống, nền văn hóa riêng biệt.
Và đặc biệt, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ , vùng có lịch sử cùng với nền văn
hóa lâu đời nhất nước ta. Các phong tục được lưu truyền đến ngày nay,
trong đó có phong tục tang ma chính là sản phẩm của văn hóa dân gian
miền Bắc Việt Nam. Qua thời gian lâu dài của lịch sử, các nghi thức đã
dần có sự thay đổi sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
Chương II: Sơ lược về đồng bằng Bắc Bộ
1. Điều kiện tự nhiên ở đồng bằng Bắc Bộ
Đồng bằng Bắc Bộ là khu vực được bồi đắp bởi sơng Hồng, sơng Thái
Bình,sơng Đáy... bao gồm 10 tỉnh thành, là khu vực có mật độ dân số cao
nhất cả nước. Sau hàng vạn năm hình thành và phát triển, nơi đây đã lưu
giữ những phong tục tập quán của cha ông ta từ xưa tới nay.
Đồng bằng Bắc Bộ phía bắc và đơng bắc giáp với vùng Đơng Bắc (Việt

Nam), phía tây và tây nam giáp với vùng Tây Bắc, phía đơng là vịnh Bắc
Bộ và phía nam vùng Bắc Trung Bộ. Là nơi giao thảo giữa các nên văn
hóa phía Bắc. Là nơi có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng ẩm
nhưng mùa đông lạnh và khô.
Qua các cuộc khám phá và nghiên cứu các nhà khảo cổ học đã tìm thấy
các bằng chứng chứng mình cho sự hình thành và phát triển của mộ táng
từ thời nguyên thủy. Qua quá trình phát triển, việc di dân ít nhiều cũng
ảnh hưởng đến q trình hình thành nên những nền văn hóa mới, tạo nên
sự thay đổi trong đời sống văn hóa và các nghi thức tang lễ. Sau đó trở
thành nếp sống mà các đời kế tiếp thực hiện và biến đó trở thành phong
tục của người dân đông bằng Bắc Bộ.
Việc phát triển kinh tế dẫn đến giao thương giữa các vùng ngày càng
phát triển. Người dân trao đổi, buôn bán hàng hóa qua đường bộ, đường
thủy... Điều này cũng tạo ra sự giao lưu văn hóa giữa các vùng.
5


2. Đời sống xã hội của đồng bằng Bắc Bộ
Đồng bằng Bắc Bộ là vùng đồng bằng rộng lớn, có lịch sử phát triển lâu
đời, dân cư đông đúc. Đây là cái nơi của văn hóa Việt. Là q hương của
các nền văn hóa lớn như Đơng Sơn, Thăng Long- Hà Nội...Cư dân nơi
đây sinh sống chủ yếu bằng nghề nơng, một số vùng cạnh biển thì có
thêm đánh bắt cá và làm muối. Ngồi ra cịn hình thành các làng nghề
thủ công truyền thống như nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng...
Khoảng thế kỉ III trước công nguyên, Phật giáo du nhập vào Việt Nam và
được sự tín nhiệm của người dân bởi đó phù hợp với tinh thần, lối sống
vị tha, bao dung cả người Việt nói chung và người dân ở đồng bằng Bắc
Bộ nói riêng. Sự kết hợp hài hịa của Phật giáo và tín ngưỡng bản địa đã
góp phần hình thành nên lối sống, nếp nghĩ của người Việt.
Kế tiếp là Nho giáo, một trong những trường phái triết học bắt nguồn từ

Trung Quốc. Ngồi lĩnh vực chính trị thì Nho giáo cịn ảnh hưởng đến cả
đời sống tinh thần của người dân đồng bằng Bắc Bộ. Trong đó có sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên “ ... một số văn bản về ma
chay bằng chữ Hán , chứ Nôm của đạo Nho ở đồng bằng Bắc Bộ, miền
Trung, miền Nam và cả một số đồng bào dân tộc ít người vẫn lấy đó làm
cốt yếu để tiến hành các bước trong việc tang. Nhưng các nghi thức mà
các nhà Nho ghi lại, nhất là trong tập Thọ mai gia lễ có những điều quá
cẩn trọng, việc hành lễ thời hiện đại đã phải giản tiện đi khá nhiều, để
phù hợp với lối sống mới ...” ( Hồ Đức Thọ, 2016, 25 )

6


Hình : Cuốn Thọ mai gia lễ
Nguồn : />%E1%BB%85&sxsrf=ALeKk01BqaJsm-o-_X_QNXUcd6UC6qiRA:1601614542049&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=2ahUKEwj3
0eGOj5XsAhVHWH0KHXG1DkQ_AUoAXoECAwQAw&biw=1366&bih=608#imgrc=Vu3393SWkY1
FAM
Thọ mai gia lễ là cuốn sách hội tụ các tập tục tang lễ do cư sĩ Hồ Sĩ Tân
ghi chép lại. Dần dần cuốn sách đã trở thành quy chế trong tang lễ thời
xưa.
Ngồi Phật giáo, Nho giáo cịn có Kito giáo, đạo Lão. Trong đó đạo Lão,
gắn liền với tín ngưỡng thờ Thánh, thờ Mẫu.
7


Trong tâm thức của người Việt, đã là con người thì khơng thể tránh khỏi
quy luật sinh lão bệnh tử ai rồi cũng đến lúc phải chết. Chỉ là có người
thì ít nghĩ đến, người thì lo lắng mãi thơi. Càng về già người ta càng lo
lắng về cái chết. Ai cũng mong muốn khi chết đi có thể thanh thản, về
với thế giới vô lo vô âu. Người Việt có câu “ nghĩa tử là nghĩa tận” nghĩa

là con người đối với nhau có gì, giận, ghét, ốn thù... thì đến lúc chết
cũng là hết.
Tang lễ chính là các nghi thức bày tỏ sự nuối tiếc , đau buồn mà người
sống dành cho người chết. Tang lễ cũng chính là hình thức đưa tiễn
người chết . Đây cũng thể hiện chữ “ hiếu” của con cháu đối với ông bà
tổ tiên. Các nghi thức trong tang lễ bị ảnh hưởng khá nhiều từ Trung
Quốc nhưng trong quá trình tiếp thu, để phù hợp với văn hóa của người
Việt thì đã có những thay đổi mang đậm nét nết sơng, văn hóa của người
dân ở đồng bằng Bắc Bộ.

Chương III: Tang lễ xưa ở đồng bằng Bắc Bộ
1. Trước tang lễ
Khi trong nhà có người thân đau ốm bệnh tật sắp không qua khỏi, mọi
người trong nhà thường chạy đôn chạy đáo lo lắng. Cố gắng dùng hết sức
lực, tinh thần của bản thân để chạy chữa. Tâm lí của người thân vơ cùng
lo lắng và buồn bả, muốn níu giữ người thân bên cạch mình, trong lịng
tiếc nuối khơn ngi.
Lúc này người sắp chết rất cần có người bên cạnh, con cháu, họ hàng sẽ
thay phiên nhau túc trực để chăm sóc cho người bệnh. Cũng là lúc những
người con, người cháu ở nơi xa gấp rút trở về để có thể nhìn mặt người
thân mình lần cuối. Dị hỏi xem họ cịn lời gì muốn trăn trối trước khi
chết. Cố gắng thực hiện những di nguyện của người sắp chết nếu như có
khả năng. Làm như vậy để người đó ra đi khơng thanh thản, khơng cịn
tiếc nuối gì. Khi con người sắp chết, cơ thể có biểu hiện vật vả, mắt mở to
co giật rồi đờ đi, tay bắt đầu thả lỏng, buông xuống, hơi thở từ gấp gáp
rồi yếu dần cho đến khi tắt thở. Khi xác nhận người đó đã chết, lúc này
người nhà cần làm các lễ cầu nguyện, rửa tội cho họ để họ có thể ra đi
trong thanh thản hơn. Có thể sử dụng mời thầy chùa tới tụng kinh xám
hối nếu như người chết theo đạo Phật, như vậy sẽ giúp người ra đi bớt
phần nặng nề.


8


Di chuyển người sắp chết ra gian nhà chính, đặt người nằm quay đầu về
hướng đơng , có thể tùy theo điều kiện mà bố trí sao cho phù hợp. Đầu
phải quay về trong nhà nhìn ra cửa. Người trong gia đình tiến hành chuẩn
bị các vật dụng cần thiết để kịp sử dụng khi người không qua khỏi. Chuẩn
bị các vật dụng cần thiết để tắm gội, đồ vật cá nhân mà người mất cần
mang theo lúc khâm liệm, chuẩn bị di ảnh, bát hương, quan tài, nến ...
Trong lúc tang gia rối ren khó tránh khỏi thiếu xót vì vậy việc chuẩn bị
trước là rất cần thiết. Nếu như người sắp chết là người có vai trị trụ cột,
là người đứng đầu trong gia đình thì người cần phải lấy di chúc để các thủ
tục liên quan sau này được dễ dàng hơn. Ngoài ra cần hỏi người sắp chết
về tên hiệu và gia đình đặt tên hiệu cho người sắp chết. Việc đặt tên hiệu
phải xin ý kiến của người am hiểu Hán tự để đặt. Việc đặt tên này được
ảnh hưởng từ Trung Quốc trong quá trình đơ hộ Việt Nam. Thời xưa, tên
này chỉ có giới q tộc mới có, nhưng về sau thì được áp dụng rộng rãi
hơn. Tuy việc đặt tên cho người vừa chết của nước ta giống với Trung
Quốc nhưng vẫn có những điểm khác biệt riêng. Ở Trung Quốc có phân
biệt tầng lớp, giai cấp mới được đặt tên hiệu, nhưng ở Việt Nam nói
chung và ở đồng bằng Bắc Bộ nói riêng thì mọi người dân đều có thể sử
dụng. Việc đặt tên nhằm dùng vào việc cúng kỵ cho người đó.
2. Trong tang lễ
Qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, với vị trí là khu vực trung
tâm miền Bắc, đồng bằng Bắc Bộ là nơi giao thoa giữa các nên văn hóa.
Nơi đây đã vận dụng địa thế của mình, tiếp thu các tinh hoa của các nền
văn hóa một cách có chọn lọc, hình thành nên nhân cách con người đầy
đủ các phẩm chất về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Các phẩm chất này được toát
lên rõ nét qua các hoạt động trong tang lễ của người dân ở miền Bắc xưa.

Khi người bệnh trút hơi thở cuối cùng, gia đình cần nhanh chóng chọn ra
tang chủ tức là người chủ trì trong suốt quá trình tang lễ diễn ra và cần
tìm người để giúp việc trong tang lễ. Nếu người chết là bố mẹ thì tang
chủ sẽ là con trai trưởng. Sau đó con cháu trong nhà cần thực hiện lễ mộc
dục hay còn gọi là tắm gội cho người chết. Phải là người trong nhà thực
hiện nghi lễ này chỉ trong trường hợp khơng có người thân thì mới phải
nhờ đến người ngồi. Lễ mộc dục mang ý nghĩa là gội rửa bụi trần cho
người chết. Sử dụng nước ấm pha với ngũ vị hương lau rửa sạch sẽ cho
thi thể, cắt móng tay móng chân sau đó thay quần áo mới cho người
chết.Người thân dùng đũa để ngang hàm, bỏ vào miệng người chết gạo và
ba đồng tiền coi như là lệ phí đi đường. Tùy theo hồn cảnh của mỗi nhà
mà lễ phạn hàm sẽ có những vật dùng khác nhau. Đối với nhà giàu có thì
9


họ cho vào miệng người chết là vàng và ngọc trai. Tiếp đến là nghi thức
thiết hồn bạch, tức là dùng 3m lụa trắng đặt lên ngực người chết, kết
thành hình người có đầu và hai tau dang ngang, phần vải dư làm chân, đợi
khi nào nhập quan thì lấy hồn bạch đó đặt trên bàn thờ. Việc làm thiết
hồn bạch với ý nghĩa mong giữ được chút hơi ấm hay linh hồn của người
đã chết. Và sau đó đặt thiết hồn bạch lên bàn thờ để thờ cúng.
Khi mua quan tài về cần được sơn kín lại,.. để tránh quan tài bị rò rỉ, dùng
vải trổ 7 lỗ đặt trên giấy bản, gạo rang, tro bếp để hút nước.
Nghi lễ tiếp theo là một trong những nghi lễ vô cùng quan trong, đó là lễ
khâm liệm. Trước khi thực hiện nghi lễ cần đi xem giờ lành, ngày tốt để
thực hiện. Không chỉ lễ khâm liệm mới cần xem giờ mà cả giờ động
quan, di quan, đào huyệt, chôn cất cũng cần phải xem giờ. Theo quan
niệm tâm linh của con người, nếu không may thực hiện các nghi lễ vào
giờ xấu, giờ khắc thì sẽ ảnh hưởng đến linh hồn người chết và cả cuộc
sống của người thân. Nên việc đi xem ngày giờ tốt để chôn cất là một

bước quan trọng. Sau khi chọn được giờ tốt thì bắt đầu tiến hành khâm
liệm, “ khâm liệm nghĩa là cuốn gói thi thể trước khi cho vào quan tài,
gồm có các cơng đoạn như tiểu liệm, đại liệm, tạ quan, bổ khuyết để thi
hài được chèn chặt trong áo quan, sau đó đậy nắp, đóng đinh và tiếp tục
dùng son ta miết kín “ ( Hồ Đức Thọ, 2016, 62 )
Vị trí đặt quan tài cũng phải theo quy luật, quan tài đặt ở giữa nhà, đầu
quay theo hướng Nam. Phía trước quan tài để bàn độc, trên bàn có bát
hương, có di ảnh, bài vị hay hồn bạch, có bình hoa, thưởng sử dụng hoa
có màu trắng nhưng đa phần đều sử dụng hoa cúc trắng. Phía trên quan
tài đặt các ly nến đỏ hoặc trắng.
Tiếp theo là lễ phát tang, tang phục là một nét văn hóa độc đáo của dân
tộc. Tang tục thể hiện cho sự bi thương sầu thảm. Trang phục tang lễ thời
xưa tuy có phần rườm rà và phiền tối nhưng cũng là một nét văn hóa độc
đáo mà ta cần biết đến và phải trân trọng.
Thời gian chịu tang cũng dài , thường là ba năm. Đã từng có những vị
quan từ bỏ quan chức để về quê chịu tang cha mẹ, có một câu chuyện kể
rằng về Hồng Giap – Đỗ Huy Liệu khoa Kỷ Mão ( 1879) .” Ông sống u
uất trong cảnh nước mất, lại đau xót vì mẹ mất nên sau khi mai táng mẹ,
ông đã chết theo, để lại cho con cháu, họ tộc nhiều nỗi đau thương trằn
trọc. Phải chăng đây cũng là đỉnh tột cùng của chữ hiếu. “ ( Hồ Đức
Thọ, 2016, 109 )
Tang phục cũng có những quy tắc riêng mà người xưa đã đặt ra như Trảm
khôi, Tề khôi “ Trảm khôi nghĩa là không khâu gấu và dùng loại vải thô,
10


xấu nhất để chứng tỏ khi mất cha là mất đi trụ cột, chỗ dựa của gia đình
nên con cái đau xót tột độ. “ ( Hồ Đức Thọ, 2016, 109 ). Các con trong
nhà kể cả con dâu thì đội khăn sơ, ngồi qng sợi dây chuối hoặc dây
hoặc dây gai bện lại, thắt dây lưng bằng chạc. Cháu nội thì đội mũ mấn,

khăn trắng, mặc áo thụng trắng, thân thuộc cũng mặc đồ trắng cả. Người
chịu đại tang ngồi trang phục kể trên cịn phải chống gậy tre. Có thể thấy
tang phục cũng là một cách để thể hiện sự đau buồn của người sống.
Suốt quá trình làm đám tang, khơng thể khơng có lễ chiêu tịch điện, “ lễ
chiêu tịch điện như thờ khi người còn sống. Buổi sáng con cháu bưng
chậu nước, khăn mặt, cau giầu cho vào chơc giường nằm, khóc ba tiếng
rồi cho hồn bạch ra chỗ linh tọa, mới dưng cúng. Buổi tối dưng cúng
xong lại rước vào chỗ linh sàng, buông màn, đắp chăn rồi mới ra “
( Phan Kế Bính, 2016, 24 ). Lễ chiêu tịch điện là cách mà con cháu ở xa
về muộn, khi về đến nhà qua nghi lễ này để làm tròn chữ hiếu. Lễ này
được thực hiện vào buổi sáng và buổi tối, con cháu làm lễ trước linh sàng
với ý nghĩa sáng mời linh hồn người chết dậy ăn, cịn tối thì mời linh hồn
đi ngủ.
Trong nhà có tang , tất cả người trong họ phải biện lễ đến phúng viếng.
Họ khơng góp tiền cũng góp cơng để lo cho đám tang được trọn vẹn. Tùy
vào hồn cảnh của mỗi nhà mà số tiền góp sẽ khác nhau. Ở thời xưa,
trong họ ai đủ 15 tuổi đều phải tham dự và góp tiền cho trưởng họ. Ai
không làm theo sẽ bị phạt tiền và phải mang trầu để xin họ bỏ lỗi.
Khi mai táng cần chọn ngày giờ tốt để thực hiện, người nhà tìm đến
những vị thầy cúng để xem ngày. Việc chọn ngày giờ chôn cất bắt đầu từ
quan niệm tâm linh của người Việt ta. Người ta cho rằng, chọn ngày chôn
cất để tránh ảnh hưởng đến người sống, nó vừa thể hiện việc làm tròn đạo
hiếu với người đã chết vừa tránh những điều xấu xảy ra. Trước giờ di
quan động quan thì tế lễ cho vong linh quá cố, sẽ có một người lớn có vai
vế trong làng đứng ra đọc tóm tắt về cuộc đời của người chết. Ở trên
đường đưa linh cửu cần làm lễ cáo Thần lộ ở các ngã ba, tư,... Hơm đưa
linh cửu đi thì sẽ có người nhà, con cháu và cả bà con hàng xóm đến đưa
đi. Con cháu theo thứ bậc người chống gậy, người rước bài vị, di ảnh , bát
hương... ra xe, những người thân thích đi bên cạnh gọi là hộ tang còn
người đi đưa gọi là tống tang. Nghi trượng đi đường bao gồm hai thần

phương tướng làm bằng giấy có bốn mắt nhìn rất hung dữ , có treo lồng
đèn đề chức tước, hiệu của người chết... Các vật dụng trong đám tang tùy
theo điều kiện của gia chủ mà có những sự lựa chọn khác nhau. Con cháu
theo tống tang linh cữu có bạch mạc để che cho khỏi nắng. Trong khi đi
11


đường khơng qn rải giấy tiền vàng bạc vì dân gian cho rằng trên đường
có quỷ phụ nếu khơng rắc giấy tiền bạc sẽ bị quấy nhiễu, quan tài nặng
khó đi. Ở ngã ba đường cịn có đốt một đống lửa để linh hồn người mất
không bị lạc đường.
Xe tang khi đi đến nghĩa địa cần cúng xin thần linh để cho người chết
nhập nghĩa địa. Khi đã được phép của thần linh, tiến hành đưa quan tài
đến chỗ đã đào huyệt trước đó.

Hình : Cảnh hạ huyệt
Nguồn
:
/>%E1%BA%A1+huy%E1%BB
%87t&tbm=isch&ved=2ahUKEwi_9LCzmZbsAhUZBXIKHSktAVMQ2
-cCegQIABAA&oq=c%E1%BA%A3nh+h%E1%BA%A1+huy
%E1%BB
%87t&gs_lcp=CgNpbWcQAzoECCMQJzoCCAA6BwgjEOoCECc6BQ
gAELEDOggIABCxAxCDAToECAAQQzoGCAAQBRAeOgYIABAIE
B5Q1r4BWMHlAWDV5wFoCHAAeAOAAYMBiAG3E5IBBDE4LjiY
AQCgAQGqAQtnd3Mtd2l6LWltZ7ABCsABAQ&sclient=img&ei=zkN3
X7_VOJmKyAOp2oSYBQ&bih=657&biw=1366#imgrc=uJXh48Ag0B
VIQM
Khi đã hạ huyệt, con cháu, người thân lấy từng nắm đất thả xuống mộ.
Việc này mang ý nghĩa là “ tưởng nhớ đến nét mặt người chết, người

12


khác lại hiểu là lấp mặt người chết một lần cuối” ( Nguyễn Dư, Phong
tục
về
tang
ma,
).
Khi trong làng có đám tang, cả làng thường sẽ bỏ lại công việc của mình
để phụ giúp và đi đưa. Đây là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt,
thể hiện tình cảm xóm làng tối lửa tắt đèn có nhau . Cịn là tinh thần
tương thân tương ái của bà con người Việt.

Hình : Cảnh đưa tang
Nguồn />%A3nh+ng%C6%B0%E1%BB%9Di+d%C3%A2n+%C4%91i+
%C4%91%C6%B0a+tang+th%E1%BB%9Di+x
%C6%B0a&sxsrf=ALeKk02YC1X-PhC6Mm6pk5wsv1NDDp7Dw:1601609952796&source=lnms&tbm=isch&sa=X&v
ed=2ahUKEwjjj7iC_pTsAhWHfH0KHaKXB_gQ_AUoAXoECA4QAw
&biw=1366&bih=608#imgrc=5Vq3DkRCEHsHbM
3. Sau tang lễ
13


Sau khi chôn được ba ngày, gia chủ làm lễ mở cửa mả. Dân gian quan
niệm rằng, lễ mở cửa mả chính là để cho linh hồn người chết tìm về với
nhà của mình nơi đặt bàn thờ của họ. Trong suy nghĩ của người Việt ta,
người chết có ba linh hồn. Một linh hồn về với cõi âm, một linh hồn ở
trong mộ, một linh hồn thì ở trên bài vị hoặc di ảnh. Vào ngày mở cửa mã
thì linh hồn thứ ba này về nhà để con cháu thờ cúng, hương đèn.

Tiếp sau đó là lễ cúng 49 ngày, trong Phật giáo, theo kinh Địa Tạng nói :
“ Người chết sau 49 ngày, gọi là chung thất, thì vong linh của người mất,
tùy nghiệp mà thọ sanh chiêu cảm quả báo. Nếu hiện đời tạo nhiều điều
lành, thì sẽ thọ sanh về cảnh giới an lành. Ngược lại, thì thọ sanh vào
cảnh khổ. Tùy chỗ tạo nghiệp thiện ác, mà thọ sanh qua các loài và các
cảnh giới sai biệt trong vịng lục đạo ln hồi. Cũng chính theo lời dạy
nầy, mà Phật tử thường hay cúng Trai Tăng vào ngày chung thất. Mục
đích là nhờ sức chú nguyện của chư Tăng Ni, gọi là đức chúng như hải,
mà hương linh thác sanh về cảnh lành.” ( Thanh Tâm, Việc cúng 49 ngày
cho người quá vãng có ý nghĩa gì?,
)
Tùy theo người mất lúc sống có theo đạo hay khơng mà sẽ có những món
đồ cúng khác nhau. Nếu người đó theo đạo Phật thì đồ cúng sẽ gồm các
món chay, bánh trái và hoa quả. Cịn khơng theo đạo thì trên mâm cúng
thường có gà luộc, xơi, món canh, món mặn, các món mà người đó lúc
cịn sống thích ăn, tùy theo điều kiện của gia đình mà trên mâm cúng
được bày các món khác nhau. Chỉ cần tránh những điều kiêng kị mà ông
cha ta từ xưa đã nhắc nhỡ là được. Như vậy sẽ không bị người trên quở
trách.

14


Hình : Mâm cơm cúng 49 ngày
Nguồn
:
/>%C6%A1m+c%C3%BAng+49+ng%C3%A0y+c%E1%BB%A7a+ng
%C6%B0%E1%BB%9Di+b%E1%BA
%AFc&tbm=isch&ved=2ahUKEwis0au0_JTsAhUESSsKHUKuDt0Q2cCegQIABAA&oq=m%C3%A2m+c%C6%A1m+c%C3%BAng+49+ng
%C3%A0y+c%E1%BB%A7a+ng%C6%B0%E1%BB%9Di+b%E1%BA

%AFc&gs_lcp=CgNpbWcQAzoECAAQHjoGCAAQCBAeOgQIABAY
UPV9WMqiAWCHpAFoC3AAeAOAAZ8BiAG8EJIBBDIyLjOYAQCg
AQGqAQtnd3Mtd2l6LWltZ8ABAQ&sclient=img&ei=MJ92X6z5IoSSr
QHC3LroDQ&bih=657&biw=1366#imgrc=vYqNPoaG22tsWM
Rồi đến 100 ngày, gia chủ sẽ làm bữa cơm cúng mời linh hồn người chết
về ăn với con cháu bữa cơm cuối cùng trước khi ra đi mãi mãi. Khi cúng
xong, gia chủ sẽ đốt giấy tiền vàng mã, hạ đồ ăn xuống. Cả gia đình sẽ
cùng nhau quây quần ăn bữa cơm để đưa tiễn vong linh người chết. Mâm
cúng cũng có những kiêng kị nên tránh. Đồ cúng thường do người phụ nữ
trong gia đình chuẩn bị. Khơng được cúng các món mà khi người sống
khơng thích hoặc các món có mùi tanh hơi. Đồ cúng thì tuyệt đối khơng
được nếm thử trước, khơng sử dụng đồ đóng hộp để dâng lên người mất.
Nên sử dụng bộ bát đũa mới để dâng đồ cúng, mỗi gia đình nên sắm riêng
15


một bộ đồ dùng cho các dịp cúng để thuận tiện hơn. Người thực hiện các
buổi cúng thường là con trai trưởng hoặc cháu đích tơn của người mất.

Hình : Bữa cơm cúng 100 ngày
(Nguồn: />%A3nh+c%C3%BAng+100+ng%C3%A0y&sxsrf=ALeKk00wWHDa084ASKrypZ0M5ED8rfo2Q:1601609044741&source=lnms&tbm=isch&sa
=X&ved=2ahUKEwjE6bjRpTsAhUQXSsKHaf1CgUQ_AUoAXoECAwQAw&biw=1366&bih=657#
imgrc=O-7E6lmDyb5uOM )
Cúng 100 ngày rất quan trọng, nên gia chủ cần chuẩn bị chu đáo không
được qua loa sơ sài, những người thân phải thật sự thành tâm thì người
sống mới được an lịng mà ra đi. Vì vẫn cịn trong kì tang chế nên người
chịu tang vẫn phải mặc tang phục để thực hiện cúng. Để thể hiện sự bi
thương, sầu thảm, nổi nhớ khôn nguôi đến người đã chết.
16



Tiếp sau đó là các ngày giỗ hằng năm, giỗ đầu là quan trong nhất rồi đến
giỗ hết và giỗ thường. Giỗ đầu được tổ chức tròn một năm sau khi khi đó
mất, đây là kì giỗ vẫn nằm trong kì tang chế nên người chịu tang phải
mặc tang phục làm lễ để thể hiện sự nhớ nhung, bi thương. Trong các lần
tế lễ, văn khấn cũng đóng vai trị vơ cùng quan trọng bà bắt buộc phải có,
điển hình như bài văn tế giữa đường khi đi mai táng :
“Than ơi!
Trời xanh thăm thẳm có biết hay khơng?
Sao mà ngu si thì hưởng phúc!
Nhân hậu hóa đau lịng!
Chúng con quên đâu được tình cảnh này.
Bất bằng thay, đạo trời thay đổi
Lã chã rơi xót bố( mẹ) tháng ngày
Ân cần nuôi nấng, công lao như biển cả non cao, bút nào tả xiết
Chầu chực sớm hôm, phụng dưỡng chỉ quạt nồng ấm lạnh
Vẫn chăm sóc hỏi han, chưa thỏa lúc áo hoa đùa bỡn, bỗng tăm hơi mù
mịt, luống để mình gối đất chua cay.
Lệ nhỏ tràn trề, thân này khơn chuộc
Hồn thơm phảng phất tìm ở đâu đây.
Nay đưa linh cữu: noi theo tổ đạo, tạm trú linh tri.
Đau đớn, ơn gì sâu bằng ni nấng.
Gọi chút lễ mọn tùy nghi kính bày”
( Hồ Đức Thọ, 2016, 144)
Hay bài khấn trong lễ Tế đàm hay còn gọi là lễ hết mặc đồ tang :
“ Đau xót thay, cha ( mẹ) ta xa lánh cõi trần, trước mắt Xuân đường khói
phủ, giọt lệ luống rơi
Ngoảnh đầu núi Hỗ ( Dĩ) mây che, trong lịng những nhớ.
Tính năm đã q hai tường, kể tháng vừa khi đàn tế!
Dẫu từ xấu chuyển sang việc tốt, tang phục hết rồi.

Song con người nghĩ đến thờ thân, hiếu tâm vẫn thế.
Lễ kính bày hồng thủy guản mao,
Tình xin tỏ thiên linh địa nghĩa!”
( Hồ Đức Thọ, 2016, 146 )
Theo cuốn thọ mai lễ, thời gian để tang cũng được ông cha ta quy định từ
xưa. Phân chia thời gian để tang bao gồm: đại tang và tiều tang.
Đại tang là để tang trong 3 năm nhưng trên thực tế thì chính xác là 27
tháng. Có người nói thời gian để đại tang được tính theo 1 năm bằng 9
tháng, tương đương với thời gian mang thai. Cho nên khi xả tang cũng
chính là lúc mà người chịu đại tang đã để tang trong 27 tháng. Người chịu
đại tang là con để tang cho cha mẹ, con dâu để tang cho cha mẹ chồng, vợ

17


để tang cho chồng, cháu đích tơn thừa trọng để tang cho ơng bà, chắt đích
tơn thừa trọng để tang cho cụ ông cụ bà.
Tiểu tang được chia ra theo các bậc, bao gồm bốn bậc:
Cơ niên hay tức là để tang 1 năm, những người phải để tang trong 1 năm
bao gồm:” Cha mẹ để tang cho con trai, con dâu trưởng, và con gái
(chưa đi lấy chồng).
Chồng để tang cho vợ.
Con rể để tang cho cha mẹ vợ.
Anh em và chị em (chưa đi lấy chồng) kể cả anh chị em cùng cha khác
mẹ để tang cho nhau.
Em để tang cho chị dâu trưởng.
Cháu trai và cháu gái (chưa đi lấy chồng) để tang cho ông bà nội.
Cháu để tang cho chú bác ruột và cô ruột (chưa đi lấy chồng).
Cháu dâu để tang cho ông bà nhà chồng.
Đại công: 9 tháng

Cha mẹ để tang con gái (đã đi lấy chồng) và con dâu thứ
Chị em ruột (đã đi lấy chồng) để tang cho nhau
Anh em con chú con bác ruột để tang cho nhau
Chị em con chú con bác ruột (chưa đi lấy chồng) để tang cho nhau.
Tiểu công: 5 tháng
Anh chị em cùng mẹ khác cha để tang cho nhau
Chị em con chú con bác ruột (đã đi lấy chồng) để tang cho nhau
Con để tang cho dì ghẻ
Cháu để tang cho ơng chú, bà bác, và bà thím
Cháu để tang cho bà cơ (chưa đi lấy chồng), chú họ, bác họ, thím họ, cơ
họ (chưa đi lấy chồng), ơng bà ngoại, cậu, và dì ruột
Chắt để tang cho cụ ông cụ bà bên nội.
Ti ma: 3 tháng
Cha mẹ để tang cho con rể
Con cô con cậu và đơi con dì để tang cho nhau
Cháu để tang cho ông chú họ, ông bác họ, bà cô họ (chưa đi lấy chồng),
bà cô (đã đi lấy chồng), và cụ cô (chưa đi lấy chồng)
Chắt để tang cho cụ chú cụ bác; và chút để tang cho kỵ ông kỵ bà bên
nội.
( Minh Nguyệt, )
Tang phục được mặc đến khi chơn cất xong, sau đó người ta sử dụng một
mảnh vải nhỏ kẹp trước ngực. Tang phục vẫn sẽ được giữ lại cho đến khi
xả tang. Vào giỗ đầu và giỗ hết người chịu tang vẫn phải mặc tang phục
để làm lễ. Việc để tang thể hiện truyền thống văn hóa của dân tộc ta qua
bao đời. Thời gian để tang được quy định rõ ràng, phân rõ cao thấp lớn
18


bé, tôn ti trật tự, phép tắc hẳn hoi, phân biết thân sơ rõ ràng. Con cháu đời
sau cần được giáo dục và tiếp thu những nét văn hóa trên của dân tộc.

Chương IV: Tang lễ ngày nay ở đồng bằng Bắc Bộ
Do q trình phát triển địi hỏi mọi mặt của đời sống cũng phải thay đổi.
Việc tổ chức tang lễ cũng đã có những thay đổi sao cho phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh. Con người chạy đua với thời gian, công việc bận rộn, vậy
nên việc áp dụng toàn bộ các tập tục tang lễ như xưa đã khơng cịn phù
hợp. Buộc phải rút ngắn thời gian trong các nghi lễ lại, việc để thi hài
trong nhà cũng không quá 48 giờ theo quy định của pháp luật. Một số
nghi lễ không phù hợp cũng dẫn dần được loại bỏ khỏi quá trình tổ chức
tang lễ. Dù vậy tang lễ ngày nay cũng giữ được những nghi thức cơ bản
cần có. Một số nét văn hóa trong tang lễ vẫn được gìn giữ cho đến ngày
nay và được con cháu đời sau thực hiện theo
Khi trong nhà có người bệnh nặng sắp lâm chung, người trong gia đình sẽ
đưa tới bệnh viện chữa trị hoặc chữa trị tại nhà. Tập trung con cháu về
thăm, chăm sóc cho người bệnh. Lấy di chúc để sau này nếu có chia tài
sản sẽ dễ dàng hơn. Thực hiện di nguyện của người sắp chết. Mọi người
trong dòng họ đều lo lắng, cố hết sức chăm nom để làm tròn bổn phận
của mình.
Đến lúc người bệnh trút hơi thở cuối cùng, mọi người từ lo lắng chuyển
sang đau buồn, luyến tiếc cho sự ra đi của người thân. Mọi người nén lại
nỗi đau cùng nhau tổ chức tang lễ một cách chu đáo để người chết ra đi
thanh thản. Người thân báo cho chính quyền địa phương, rồi tiến hành tổ
chức tang lễ. Các thủ tục, nghi thức được rút gọn và giản đơn hơn trước.
Đi xem giờ khâm liệm, đào huyệt để báo cho bà con, hàng xóm biết để
phụ giúp. Việc giữ thi thể lại trong nhà để làm lễ tang hay thời gian quàn
ướp và khâm liệm thi hài phải theo quy định của pháp luật tại Thông tư số
02/2009/TT-BYT “Trong điều kiện thường khơng có bảo quản lạnh: Thời
gian quàn ướp thi hài không quá 48 giờ, kể từ khi chết”,nơi bảo quản thi
hài tại nhà cũng được quy định rõ “Thi hài phải được quàn ướp tại nơi
thơng thống ở trong nhà, được phủ kín bằng chăn hoặc vải và phải có
người trơng coi thường xun để bảo vệ thi hài tránh côn trùng, súc vật

xâm
nhập”
( ) . Để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe của người
sống, bộ y tế đã đưa ra những quy định cụ thể trong việc xử lí thi hài khi
làm đám tang. Đến giờ đi chơn thì sẽ có người đứng ra đọc trước mọi
19


người sơ lược về cuộc đời của người chết. Sau đó đem đi mai táng, đưa
quan tài ra xe tang có người thân cận ngồi bên cạch để đưa tiễn quan tài.
Việc tổ chức tang lễ ở các làng xã và các thành phố lớn ở đồng bằng Bắc
Bộ cũng có sự khác biệt. Theo tìm hiểu thì ở làng, xã các nghi thức vẫn
giống như tang lễ xưa hơn, vẫn có hàng xóm bà con phụ giúp, vẫn giữ
được đa phần các nghi lễ của ngày xưa. Còn ở các đô thị, do sự bận rộn,
tất bậc với lối sống hiện đại, các nghi thức nghi lễ dần dần cũng rút gọn
và đơn giản hơn. Tuy nhiên vẫn giữ được những điều cơ bản cho một
tang lễ cần có.
Việc rải giấy tiền vàng bạc cũng cần được hạn chế bớt. Ở nông thôn, việc
rải giấy tiền vàng mã vẫn cịn khá phổ biến nhưng ở các đơ thị lớn thì
cũng đang dần được hạn chế . Bởi điều này gây ảnh hưởng rất nhiều đến
môi trường xung quanh, gây ô nhiễm môi trường sống, gây mất an toàn
cho những người tham gia giao thông. Việc dọn dẹp giấy tiền vàng mã
trên đường cũng gây vất vả cho lao công đường phố. Cần có những quy
định riêng để hạn chế việc này.
Bên cạch những hạn chế đang khơng cịn phù hợp với ngày nay đang
được hạn chế thì ngồi ra cần khắc phục việc sử dụng âm thanh gây ồn và
ảnh hưởng đến những nhà xung quanh. Sử dụng kèn trống loa với âm
thanh quá lớn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến mọi người xung quanh, tổ chức
tang lễ cũng khơng nên q linh đình, gây hao phí tiền của. Khi người
thân mất đi, chỉ cần dùng lịng thành kính để tổ chức một đám tang chu

đáo là đủ, không cần q phơ trương gây hao phí tiền của, ảnh hưởng đến
mọi người. Thiết nghĩ, lễ tang là chuyện buồn, gia chủ cần dành ra không
gian yên tĩnh để mọi người thân, bà con, hàng xóm cùng nhau chia sẻ nỗi
buồn là đủ rồi. Ngày nay, đất chật người đông việc chơn cất cũng gặp trở
ngại lớn vì khơng có đất. Đặc biệt là khu vực đồng bằng Bắc Bộ, với
lượng dân cư đông đúc, việc chôn cất gặp rất nhiều vấn đề. Ở các thành
phố lớn đất trở nên khang hiếm, thay vì chơn cất người ta đang dần
chuyển sang hỏa táng. Việc chơn cất cịn gây ảnh hưởng đến môi trường
đất, gây ô nhiễm nguồn nước khu vực xung quanh.

20


Hình: Cảnh đi đưa tang
Nguồn : />%C4%91i+
%C4%91%C6%B0a+tang&tbm=isch&ved=2ahUKEwjjq9f_nZbsAhV7h
UsFHSD4BzsQ2-cCegQIABAA&oq=c%E1%BA%A3nh+%C4%91i+
%C4%91%C6%B0a+tang&gs_lcp=CgNpbWcQAzoECCMQJzoCCAA6
BggAEAUQHjoGCAAQCBAeOggIABCxAxCDAToFCAAQsQM6BAg
AEBhQwcEDWKv1A2Dk9wNoA3AAeACAAe0BiAGnEZIBBjE3LjMu
MpgBAKABAaoBC2d3cy13aXotaW1nwAEB&sclient=img&ei=oEh3XPbKfuKrtoPoPCf2AM&bih=657&biw=1366#imgrc=O8dKQG3vmTKE
WM
Mai táng xong thì gia chủ làm vài ba mâm cơm để mời bà con hàng xóm
vì đã giúp đỡ gia đình trong lúc tang gia bối rối. Bữa cơm thân mật giản
đơn với ý nghĩa cảm ơn đến bà con hàng xóm vì đã tục trực, chia sẻ nỗi
buồn với gia đình. Nhờ bà con hàng xóm mà tang lễ cũng phần nào được
chu tồn. Giúp đỡ nhau lúc khó khăn đau buồn thể hiện tinh thần tương
thân tương ái của bà con người Việt. Đó là nét văn hóatruyền thống của
dân tộc cần được gìn giữ và phát huy. Dù là xưa hay ngay nay những đức
tính cao đẹp này vẫn ln được đề cao trong lối sống của người Việt. Đây

là nét đẹp trong phong tục tang ma của người Việt. Lo tang lễ cho người
chết là trọng trách, trách nhiệm mà người sống cần thực hiện.
21


PHẦN KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu về phong tục tập quán của tổ tiên là hết sức cần thiết. Đó
là các giá trị tinh thần mà ông cha ta đã dày công vun đắp, nối tiếp từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Và phong tục tang lễ là một phong tục quan
trọng mà cho đến ngày nay vẫn được lưu giữ một cách cẩn thận.
Với mảnh đất có lịch sử lâu đời này, có rất nhiều điều mà tất cả chúng ta
cần tìm tịi và khám phá.Từ điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội của vùng
đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành nên những nét rất đặc biệt trong phong
tục tang lễ của người dân nơi đây.
Việc nghiên cứu về phong tục tang lễ mang đến cho giới trẻ cái nhìn sâu
sắc hơn về các phong tục truyền thống của dân tộc mình. Tránh mất đi
các giá trị mà ông cha ta tạo nên. Mỗi nghi thức trong tang lễ mang một
ý nghĩa riêng. Tất cả đều toát lên được truyền thống yêu thương con
người, uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.
Tổ chức tang lễ phải chân thành hết lịng, trang trọng, bên cạnh đó phải
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, phải tiết kiệm, giữ gìn mơi
trường xung quanh. Tùy theo điều kiện của mỗi người mà việc tang lễ sẽ
thực hiện sao cho phù hợp. Khơng tổ chức q linh đình, khoe khoang,
gây lãng phí khơng cần thiết. Các nghi thức trong tang lễ giữa xưa và nay
có đơi chút khác biệt do sự phát triển của kinh tế, sự giao lưu với các nền
văn hóa hiện đại và cả sự bộn bề của cuộc sống hiện đại. Nhưng khơng vì
vậy mà các dân tộc đánh mất các giá trị văn hóa này, tuy có thay đổi
nhưng vẫn giữ được các nghi thức cơ bản, cái cốt yếu của một đám tang.
Các nghi thức trong tang lễ ở đồng bằng Bắc Bộ đã tôn lên nhưng nét đẹp
trong văn hóa của người Việt nói chung và người dân ở đồng bằng Bắc

Bộ nói riêng. Thể hiện đạo lí “ uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ln
đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Ngồi ra đó cịn là tinh thần “tương thân tương
ái” của đồng bào Việt.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hồ Đức Thọ, 2016. Tang lễ và mộ táng ở đông bằng Băc Bộ. Nhà xuất
bản Văn hóa dân tộc
2) Hồng Quốc Hải, 2001. Văn hóa phong tục. Nhà xuất bản Văn hóa
thơng tin
3) Phan Kế Bính, 2016. Việt Nam phong tục. Nhà xuất bản Hồng Đức
4) Mai Thanh Hải, 2005. Thờ cúng tổ tiên( và lễ tang, ma chay, giỗ chạp)
nên như thế nào. Nhà xuất bản văn hóa thơng tin
5) Tạ Đức Tú, Nghiên cứu phong tục trên phương diện khái niệm và liên
ngành
:8080/dspace/bitstream/TTKHCNDaNang_123456789/
7601/1/88.pdf
6) Nguyễn
Dư,
Phong
tục
về
tang
ma,
/>7) Thanh Tâm, Việc cúng 49 ngày cho người quá vãng có ý nghĩa gì?,
/>8) Minh Nguyệt, Thời gian bap lâu thì mãn tang thì phù hợp
/>
23




×