*
*
*
ĐỀ TÀI: VĂN HÓA DÂN GIAN THỂ HIỆN QUA CHỢ
NỔI Ở NAM BỘ
MỤC LỤC
PHẦN I: TỔNG QUAN .............................................................................................. 4
1/ Lý do chọn đề tài : ............................................................................................... 4
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài: ................................................................................ 5
3/ Đối tƣợng nghiên cứu: ......................................................................................... 5
4/ Phƣơng pháp nghiên cứu: .................................................................................... 6
5/ Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu: .................................................................... 6
PHẦN II: NỘI DUNG................................................................................................. 6
1/ Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn: ......................................................................... 6
1.1 Cở sở lý luận : ............................................................................................... 6
1.1.1 Khái niệm chợ: ........................................................................................... 6
1.1.2 Khái niệm chợ nổi: ..................................................................................... 7
1.1.3 Khái niệm văn hóa dân gian:....................................................................... 8
1.2 Cơ sở thực tiễn: ............................................................................................. 9
2/ Chợ nổi dƣới góc nhìn văn hóa:......................................................................... 10
2.1 Địa điểm họp chợ: ....................................................................................... 10
2.2 Chủ thể tham gia: ........................................................................................ 11
2.3 Cách thức mua bán của chợ nổi: .................................................................. 13
3. Văn hóa dân gian trong chợ nổi Nam Bộ: .......................................................... 14
3.1 Tên chợ nổi: ................................................................................................ 14
3.2 Cây bẹo- cách thức rao hàng dân gian độc đáo: ........................................... 15
3.3 Văn hóa, tính cách của thƣơng hồ: ............................................................... 18
3.4 Đời sống tâm linh của ngƣời dân: ................................................................ 19
3.5 Đời sống sinh hoạt của ngƣời dân: ............................................................... 22
3.6 Lễ hội và các điệu hò dân gian:.................................................................... 24
3.6.1 Lễ hội: ...................................................................................................... 24
3.6.2 Điệu hò dân gian:...................................................................................... 25
2
4. So sánh chợ nổi Nam Bộ và chợ nổi Thái Lan: .................................................. 26
5. Biện pháp bảo tồn văn hóa dân gian trong chợ nổi: ........................................... 28
PHẦN III: KẾT LUẬN ............................................................................................. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 29
3
PHẦN I: TỔNG QUAN
1/ Lý do chọn đề tài :
Nam Bộ là vùng đất giàu trầm tích văn hóa, đa dạng tộc ngƣời, tơn giáo, giàu tiềm
năng và có vị trí chiến lƣợc trọng yếu. Từ khi tích hợp về với Đại Việt, Nam Bộ luôn
là một bộ phận không thể tách rời với quốc gia, dân tộc Việt Nam. Sự đa dạng, phong
phú về văn hóa vùng đất Nam Bộ đã vẽ thêm màu sắc cho nền văn hóa Việt Nam.
Nam Bộ là nơi sinh sống của bốn tộc ngƣời : Ngƣời Việt, ngƣời Khmer, Chăm và
ngƣời Hoa, có sự khác biệt về tổ chức xã hội, ngôn ngữ, tín ngƣỡng tơn giáo chính sự
khác biệt đó làm nên tính đa dạng về văn hóa của một nền văn hóa. Tuy nhiên trải qua
hàng trăm năm cộng cƣ, cùng chia sẻ ngọt bùi trong quá trình khai phá đã hình thành
nên nét văn hóa chung của vùng mà khi phân vùng văn hóa ở Việt Nam các tác giả
đều nhất trí cho rằng có sự khác biệt giữa văn hóa Nam Bộ với các vùng văn hóa khác
ở Việt Nam.
Khi nói tới vùng Nam Bộ là nói tới vùng sông nƣớc, những cộng đồng dân cƣ nơi
đây đã biết khai thác một cách có hiệu quả những yếu tố sơng nƣớc khơng chỉ làm
nên nét văn hóa riêng, mà cịn phát triển kinh tế xã hội. Đồng bằng sơng Cửu Long là
vùng đồng bằng màu mỡ, chi chít sơng ngịi, kênh rạch, nơi đây thƣờng có “những
con nƣớc lớn tràn bờ, nƣớc ròng phơi bãi” và ghe thuyền sinh hoạt tấp nập ngày đêm.
Chính điều kiện nơi đây là cơ sở cho sự hình thành những nét văn hóa đặc thù của
vùng mà một trong số đó khơng thể không thể không nhắc đến chợ nổi. Chợ nổi là nét
đẹp riêng có của vùng Đồng bằng sơng Cửu Long. Chợ nổi khơng chỉ là hình thức
sinh hoạt kinh tế của ngƣời dân Đồng bằng sông Cửu Long mà tồn tại bên trong là
một nét văn hóa đặc sắc riêng biệt. Mà để cấu thành nên nét văn hóa riêng biệt ấy, văn
hóa dân gian đóng vai trị quan trọng, giống nhƣ cái gốc của một nền văn hóa khơng
chỉ với Nam Bộ mà là hầu hết các nền văn hóa khác. Văn hóa dân gian ở chợ nổi Nam
Bộ đƣợc thể hiện qua cách thức sinh hoạt chợ, qua thời gian sinh hoạt chợ và cả
những con ngƣời, thời gian sau khi chợ tan tầm…Trong bối cảnh chung của toàn cầu
4
hóa, chợ nổi Nam Bộ có nhiều cơ hội để phát triển, để giao lƣu tiếp biến với các nền
văn hóa khác tuy nhiên đó cũng là thách thức bởi trong q trình chuyển mình ấy, rất
khó để giữ lại những gốc gác tồn tại lâu đời nhƣ văn hóa dân gian. “Văn hóa và văn
hóa dân gian được phát huy đúng mức sẽ là “nguồn năng lượng nuôi dưỡng sức
mạnh kinh tế và chính trị mỗi quốc gia để vượt qua thử thách, khai thác thời cơ” (TS
Trần Hữu Sơn, Văn hóa dân gian-mã định danh hội nhập thế giới). Chính vì lẽ đó,
với đề tài Văn hóa dân gian thể hiện qua chợ nổi Nam Bộ, ngƣời viết mong muốn có
thể đƣa con ngƣời về với cái truyền thống, với “văn hóa mẹ” để có thể hiểu hơn và
một lần nữa đƣa văn hóa dân gian và đặc biệt là văn hóa dân gian trong chợ nổi miền
sơng nƣớc về với tâm thức của mỗi ngƣời và phát huy “nền văn hóa gốc” để chúng
tồn tại trong mọi thời đại.
2/ Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nhận định về văn hóa dân gian, nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đây chính là
“bộ gen của văn hóa dân tộc”, là “vƣờn ƣơm cho văn nghệ chuyên nghiệp, là sự giữ
gìn cốt cách bền vững của dân tộc”. Do đó, việc sƣu tầm và nghiên cứu văn hóa dân
gian chính là cách “biến di sản quá khứ thành tài sản hơm nay”. Chính vì vậy đề tài
này đƣợc nghiên cứu với mục đích giúp ngƣời đọc hiểu hơn về văn hóa dân gian chợ
nổi Nam Bộ và từ đó có cái nhìn khác hơn, sâu sắc và xa hơn về chợ nổi trong lịch sử
lẫn tƣơng lai. Bởi chợ nổi cần đƣợc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống nhƣng vẫn khơng tách biệt với thời đại để nó tránh khỏi nguy cơ “chìm” trƣớc
đà phát triển của xã hội đƣơng thời.
3/ Đối tượng nghiên cứu:
Chợ nổi ở khu vực Nam Bộ
5
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, liệt kê: Dựa vào việc sƣu tầm các nguồn tài liệu
trên internet, sách, báo đài, video liên quan đến văn hóa, con ngƣời chợ nổi Nam
Bộ…
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: So sánh chợ nổi Nam Bộ với chợ nổi của Thái Lan
để tìm ra hƣớng đi, hƣớng phát triển cho chợ nổi Nam Bộ.
5/ Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu:
Nếu việc tìm hiểu văn hóa dân gian Chợ nổi Nam Bộ thành công sẽ giúp cho nguồn
tƣ liệu về chợ thêm phong phú, kết quả sau khi nghiên cứu sẽ đƣợc thêm vào những
bài nghiên cứu, sách, báo là nguồn tƣ liệu cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.
PHẦN II: NỘI DUNG
1/ Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn:
1.1 Cở sở lý luận :
1.1.1 Khái niệm chợ:
Định nghĩa của từ điển Tiếng Việt: “Chợ là nơi công cộng để nhiều người đến mua
bán vào những buổi hoặc những ngày nhất định; chợ là nơi gặp gỡ nhau giữa cung
và cầu các hàng hóa, dịch vụ, vốn; nơi tập trung các hoạt động buôn bán hàng hóa
giữa người sản xuất, người bn bán và người tiêu dùng”…
Định nghĩa thƣờng dùng trong lĩnh vực thƣơng mại: “Chợ là loại hình thương
nghiệp truyền thống khá phổ biến ở nước ta; chợ là hiện thân của hoạt động thương
mại, là sự tồn tại của không gian thị trường mỗi vùng, nhất là vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới và tập trung nhiều nhất ở các vùng đô thị, các thành phố
lớn”.
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về phát triển và
6
quản lý chợ “Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển
mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng nhu
cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư”.
Theo Thông tƣ số 15/TM-CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thƣơng Mại hƣớng
dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương nghiệp được hình thành và
phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".
Từ những khái niệm trên, có thể nói chợ là nơi trao đổi, mua bán hàng hóa gồm hai
thành phần chủ lực: Bên bán và bên mua. Tùy từng vùng, từng khu vực mà có những
nét đặc trƣng riêng. Chợ cịn là biểu hiện của sự sung túc hay nghèo nàn của một địa
phƣơng.
1.1.2 Khái niệm chợ nổi:
Tƣơng tự nhƣ chợ thì chợ nổi cũng có 2 thành phần: ngƣời mua và ngƣời bán, nhƣng
thay vì họp chợ ở trên bờ thì chợ nổi lại diễn ra trên sông. Khái niệm chợ nổi chỉ xuất
hiện khoảng ba mƣơi năm trở lại đây, ban đầu thì chợ nổi chỉ bao gồm một nhóm cƣ
dân buôn bán với nhau nhƣng dần dần các nhà nghiên cứu bắt đầu phát hiện ra nét
độc đáo của hình thức này. Cũng bắt đầu từ đó mơ hình chợ nổi mới đƣợc đề cập
nhiều.
Cho đến nay, đã có một số tác giả đƣa ra định nghĩ về chợ nổi và nội hàm khái niệm
gồm: là một loại chợ, nhóm, họp trên sông, phƣơng tiện đi lại trong giao dịch là ghe,
xuồng ( Nhâm Hùng, 2009; Ngô Văn Lệ, 2014; Trần Ngọc Thêm và ctv,2014).
Theo Nhâm Hùng (2009,tr19): “Chợ nổi là cách nhóm chợ trên sơng. Người mua kẻ
bán đều giao thương trên ghe, xuồng, tàu, bè trong một khoảng thời gian nhất định.
Trên chợ nổi có đầy đủ chủng loại hàng hóa và dịch vụ nhưng chủ lực là nông sản”.
7
H1: Chợ nổi Ngã Bảy (Hậu Giang)
Nguồn: />*So sánh chợ nổi và chợ:
Chợ nổi và chợ đều là nơi diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa và đều có hai thành
phần: ngƣời mua và ngƣời bán.
Tuy nhiên, mua bán ở chợ diễn ra trên bờ, có ban quản lý chợ và phải đóng thuế, bất
cứ địa phƣơng nào cũng có chợ dù là lớn hay nhỏ và chợ bán tất cả các mặt hàng.
Cách thức rao hàng của chợ chính là bảng hiệu. Ngƣợc lại với chợ, chợ nổi mua bán
trên sơng nƣớc, mang tính tự phát, và cách thức rao hàng là cây bẹo, không phải địa
phƣơng nào cũng có chợ nổi.
1.1.3 Khái niệm văn hóa dân gian:
“Theo đúng nghĩa, văn hóa dân gian là nền văn hóa của dân chúng. Văn hóa này
bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Thuật ngữ quốc tế chính xác nhất
mang nghĩa văn hóa dân gian là từ tiếng anh: Folkculture (…) Khái niệm này rất
rộng, bao gồm tồn bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của dân chúng. Nội hàm
của nó có vấn đề phương thức sản xuất ra của cải, có phong tục, tập quán, sinh hoạt
tinh thần, tri thức tự nhiên và xã hội, quan niệm đạo đức, nhận thức, tình cảm về thế
giới nhân sinh”. ( Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Vũ 2002: 620-621).
8
Về mặt giá trị, văn hoá dân gian bao gồm tổng thể các giá trị do ngƣời bình dân sáng
tạo ra nhằm đáp ứng những đòi hỏi về mặt vật chất và thoả mãn những nhu cầu về đời
sống tinh thần của chính họ. Bản chất văn hố dân gian thể hiện qua nguồn gốc, hình
thức lƣu truyền và đồi tƣợng tiếp nhận, trong đó hình thức lƣu truyền giữ vai trị quan
trọng nhất. Văn hố dân gian có phạm vi rất rộng, trong đó bộ phận nghệ thuật ngơn
từ giữ một vị trí đặc biệt. Nghệ thuật ngơn từ vừa là sản phẩm văn hoá, vừa là phƣơng
tiện sáng tạo, lƣu giữ và chuyển tải các giá trị văn hố (kinh nghiệm, tri thức, phong
tục, tín ngƣỡng…). Ngồi ra, ngơn từ cịn là bộ phận của nhiều hiện tƣợng văn hố
nhƣ: lễ hội, tín ngƣỡng, trị chơi, phong tục… Sở dĩ nhƣ vậy là do ngơn từ có khả
năng biểu đạt phong phú, đa dạng nhất. Ở Việt Nam, suốt thời kỳ Bắc thuộc, ngôn
ngữ truyền miệng trở thành cơng cụ chính yếu bảo lƣu và chuyển giao văn hoá dân
tộc.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay, việc khai thác và bảo tồn chợ nổi còn nhiều bất cập, trong khi các văn bản
về quản lý loại hình chợ đặc thù này chƣa có nên kinh phí đầu tƣ, tơn tạo và phát triển
cịn gặp nhiều khó khăn. Song song đó, cùng với sự phát triển nhanh của giao thơng
đƣờng bộ, cơng tác giải phóng mặt bằng, xây dựng bờ kè bên bờ sông ảnh hƣởng đến
qui mô chợ nổi. Mặt khác, tiến hành các giải pháp bảo vệ môi trƣờng, điều kiện sinh
sống của thƣơng hồ cịn khó khăn. Hoạt động thu hút đầu tƣ chƣa hiệu quả, sản phẩm
và dịch du lịch chƣa phong phú, đa dạng nên chi tiêu của khách du lịch tại đây cịn rất
ít, khách chủ yếu tham quan, chụp ảnh.
Chính vì các tiềm năng du lịch bản địa chƣa đƣợc khai thác nên những giá trị truyền
thống dần dần bị lãng quên, mai một. Những lễ hội, hoạt động truyền thống ít đƣợc
phổ biến, đƣợc tổ chức nên ngƣời dân khơng có cơ hội tiếp xúc và quảng bá những
nét đặc trƣng của chợ mình. Với sự phát triển của khoa học, cơng nghệ nhất là các
dịch vụ mua sắm trực tuyến, đi chợ online, ngƣời ta càng ít đến chợ hơn, những cây
9
bẹo cũng dần đƣợc thay thế bởi bảng hiệu,…nên ngƣời ta quên dần các giá trị dân
gian trong chợ nổi Nam Bộ
2/ Chợ nổi dưới góc nhìn văn hóa:
2.1 Địa điểm họp chợ:
Chợ nổi Nam Bộ đƣợc tổ chức mua bán trên sơng, chợ nổi phải họp ở nơi có vị trí
đầu mối giao thơng mà ghe xuồng từ khắp nơi có thể tụ về một cách thuận lợi nhất.
Các vùng miền khác ở Việt Nam, dù là vùng đồng bằng Bắc Bộ hay gần nhất là Đông
Nam Bộ, đều khơng ở đâu có một mạng lƣới sơng nƣớc kênh rạch phủ kín giúp cho
ghe xuồng có thể len lỏi tới khắp nơi nhƣ Tây Nam Bộ.
Địa điểm họp chợ nổi phải nằm trên tuyến giao thơng chính nơi sơng rạch cắt nhau
tại các thành ngã ba, ngã năm, ngã bảy. Những nơi dƣới nƣớc đã có sơng rạch cắt
nhau, thì thƣờng trên bờ, đƣờng bộ cũng tụ hội tạo nên các thị tứ, thị trấn. Cũng do là
ngã ba, ngã năm nên các khúc sông này phải đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn phải tƣơng đối
rộng để có chỗ tụ tập ghe xuồng mà vẫn còn khoảng trống để lƣu thơng, khiến giao
thơng khơng bị tắc nghẽn. Cũng vì cần phải tƣơng đối rộng nên nơi họp chợ nổi chỉ có
thể là sơng chứ khơng phải là kênh rạch. Tƣơng đối rộng nhƣng khơng đƣợc q lớn,
vì sơng lớn thì sóng gió cũng lớn theo theo gây nguy hiểm cho ghe thuyền neo đậu.
Khúc sông nơi họp chợ nổi không đƣợc sâu quá mà cũng không cạn quá. Nếu sông
cạn q lúc nƣớc rịng thì có thể bị mắc cạn, nếu sơng sâu q thì khó neo đậu ghe
thuyền và độ an tồn thấp.
“Chợ nổi đa phần đóng ở nơi giáp nước để thương đồ dừng tay chèo đợi con nước
thuận, có khi phải ở lại vài ba ngày nên các sinh hoạt chợ nổi rất nhộn nhịp, kể cả
sinh hoạt văn nghệ”(x. vd: Nguyễn Ngọc Phan 2009). Nguyễn Hiến Lê cũng đã từng
ghi nhận rằng: “Đi trên kinh rạch Nam Việt, gặp chỗ giáp nước thì ln ln ta thấy
một cái chợ hoặc lớn hoặc nhỏ, ít nhất cũng là một xó có vài qn hàng, vì chỗ giáp
nước la chỗ đổi con nước; mười ghe thì chín ghe đậu lại đợi con nước sau. Trong khi
10
nghỉ người ta lên bờ mua thức ăn, đồ dung, uống trà, cà phê, thế là tự nhiên nổi lên
cái chợ”(Nguyễn Hiến Lê 2002; 34). Song chợ mà Hiến Lê nói đến là chợ trên bờ
giáp với nƣớc chứ khơng phải chợ dƣới sông. Ở dƣới sông, do hai con nƣớc chảy
ngƣợc chiều gặp nhau dừng lại nên chỗ giáp nƣớc cũng là nơi mà lục bình, rác rƣởi
tập trung dồn lại. Nơi sơng nhỏ hẹp, lục bình có thể tập trung dày đặc đến mức ghe
xuồng không bơi qua đƣợc, phải chờ nƣớc chảy mới thông luồng, hoặc nếu gấp thì
phải vác xuồng qua đoạn sơng đó mới thả xuống bơi tiếp đƣợc. Nhƣ thế, nơi giáp
nƣớc không phải là địa điểm thuận tiện cho việc hình thành chợ nổi đƣợc; trên thực tế,
các chợ nổi đều đặt ở những nơi sông rạch cắt nhau.
2.2 Chủ thể tham gia:
Chủ thể tham gia chợ nổi thƣờng là chủ nhân của những ghe xuồng liên tục đến đi,
ken đặc trên cả hàng sơng dài hàng km. Ta khơng thể biết chính xác đƣợc là tổng
cộng có bao nhiêu ghe xuồng nhƣng nếu ƣớc chừng thì ở một chợ nổi ít nhất cũng có
vài trăm đến dăm bảy trăm chiếc ghe xuồng đang tham gia mua bán trên sông. Những
ghe xuồng này có nguồn gốc từ khắp các địa phƣơng trong và ngồi vùng. Các ghe
loại vừa là ghe bn bán nhỏ trong địa phƣơng, còn các ghe lớn là của các thƣơng lái
thu gom hàng đƣa lên thành phố hoặc đƣa sang Campuchia, Thái lan, Trung Quốc.
Muốn biết ghe xuống đến từ địa phƣơng nào, chỉ cần nhìn vào hai chữ cái đầu viết tắt
tên tỉnh trong số hiệu in trên mạn ghe, nếu thấy ghi “ĐT” thì ta biết ghe này đến từ
Đồng Tháp. Những chủ ghe bán hàng cùng quê hoặc quen biết nhau thƣờng cột nối
các ghe thành một chiếc bè lớn, mũi ghe quay ra sơng đón khách. Ngƣời Việt thƣờng
quan niệm “bn có bạn, bán có phƣờng”; liên kết chặt lại với nhau, ngƣời bán hàng
dễ bề giúp đỡ nhau khi cầ thiết. Trên sông, ca-nô, xuồng vỏ lãi chạy qua chạy lại với
tốc độ cao tạo nên sống mạnh vỗ vỗ vào mạn khiến những chiếc ghe xuồng đang neo
đậu chao đảo chòng chành; khi các ghe nƣơng tựa tạo thành bè kết nối với nhau thành
bè nhƣ vậy thì tác động của sóng đã giảm đi rất nhiều. Với ngƣời mua, một khi đã
bƣớc lên bè mà không mua đƣợc hàng ở ghe này thì bƣớc sang ghe bên cạnh sẽ rất
11
tiện. Khi cần chuyển dịch một khoảng cách ngắn, tất cả các ghe cùng đồng loại nổ
máy trông rất vui mắt.
Theo Trần Nam tiến cho rằng: “Điểm lý thú của chợ nổi là nơi hội tụ của các loại
người tứ xứ đến mua bán, làm ăn. Từ những người dân bình thường cho đến những
người tứ cố vơ thân, rời bỏ quê hương tha phương kiếm sống, với: ki-ốt nổi là chiếc
ghe bán hàng hóa, trái cây, khi nơi này khi nơi khác. Chỉ cần có một chiếc ghe và sản
phẩm hàng hóa có thể họp chợ mua bán…”. Chính vì nhƣ thế mà chủ thể sản sinh ra
chợ nổi chính là những ngƣời mua bán trên sơng. Những ngƣời tham gia thuộc đủ mọi
thành phần già trẻ, gái trai vừa cung vừa cầu, bổ sung cho nhau tạo nên diện mạo của
chợ nổi Nam Bộ.
Phần đông các chợ nổi lớn ở Tây Nam Bộ là chợ bán sỉ (bán bn); chợ bán lẻ cũng
có nhiều ngƣời mua sỉ để buôn lại, cho nên một số lƣợng lớn ngƣời mua là chính các
khách thƣơng hồ. Bên cạnh khách thƣơng hồ, ln có ngƣời địa phƣơng đi chợ mua
bán phục vụ sinh hoạt hằng ngày. Gần đây, khách du lịch ngày càng tăng lên, nhƣng
họ khơng phải là khách hàng chính của chợ nổi. Chỗ khác biệt cơ bản của chợ nổi Tây
Nam Bộ so với chợ nổi Thái Lan nằm ở chỗ khách hàng của chợ nổi Thái Lan tuyệt
đại bộ phận đều là dân du lịch chứ không phải là ngƣời địa phƣơng.
Mặt hàng hóa phổ biến nhất ở chợ nổi Tây Nam Bộ là trái cây, rau củ các loại. Ở
vùng nhiệt đới gió mùa sơng nƣớc này, trái cây, rau củ vô cùng đa dạng và phong phú
quanh năm. Đó chính là đặc sản số một của miệt vƣờn. Thƣơng lái theo kênh gạch len
lỏi vào các ngõ ngách tìm mua tại vƣờn các loại nơng sản rẻ để đƣa ra các chợ bán.
Ngồi nơng sản ra, chợ Nam Bộ còn mua bán các loại thủy sản nhƣ tơm, cua, cá,
rắn…và có hàng chục các ghe xuồng bán tạp phẩm, nƣớc giải khát, có cả ghe bán
xăng dầu, bán vé số...đa dạng, đầy màu sắc không kém gì với chợ trên bờ.
12
H2. Ghe bán hủ tiếu tại chợ nổi
Nguồn: />2.3 Cách thức mua bán của chợ nổi:
Trên mỗi ghe hàng đều cắm một vài cây sào, trên sào treo lủng lẳng những ngƣời mà
ghe mình có bán. Ngƣời ta gọi đó là cây bẹo. Hình thức “cây bẹo” ở hầu hết các
thuyền, các ghe bán hàng là sự sáng tạo của ngƣời dân nơi đây trong việc quảng cáo
hàng hóa, vừa thay cho bảng hiệu, để thuyền di chuyển thuận lợi mà khơng bị chắn
gió. Cây bẹo thƣờng là cây sào tre dài 5-7m treo các thứ hàng hóa có trên thuyền, ghe
để khách hàng biết trên thuyền có bán các loại hàng hóa nào, sản phẩm gì. Cây bẹo
đƣợc treo với độ cao trung bình, khơng q cao cũng khơng q thấp, vừa tầm nhìn
của khách hàng, bởi tính chất phù hợp của nó mà cây bẹo trở thành tín hiệu cụ thể
nhất để các thƣơng hồ quảng cáo các loại hàng muốn bán. Ngƣời đi chợ thì chỉ càn
nhìn cây bẹo sẽ biết ghe nào bán thứ mình muốn mua. Xét ở góc độ sâu xa và nguồn
gốc, hình thức cây bẹo trƣớc hết đƣợc xuất phát từ yếu tố cạnh tranh, nhu cầu tiếp thị,
quảng bá của hoạt động mua bán trên sông. Cây bẹo hầu nhƣ đƣợc sử dụng để chào
hàng các loại trái cây, hàng tạp hóa, rau củ…
13
H3. Cây bẹo
Nguồn: />3. Văn hóa dân gian trong chợ nổi Nam Bộ:
3.1 Tên chợ nổi:
Tên và cách đặt tên của chợ nổi cũng mang đậm tính dân gian bởi cái tên vừa là do
ngƣời dân đặt dựa vào đặc trƣng hay những câu chuyện về lịch sử hình thành của chợ
nổi vùng đó, và dần dần những câu chuyện đi vào tâm thức của những ngƣời nơi đây
và lƣu truyền cho những thế hệ sau. Hễ nhắc đến cái tên của chợ, ngƣời ta sẽ biết chợ
này kinh doanh gì, hình thành nhƣ thế nào…
Một ví dụ điển hình chính là chợ nổi Cái Răng. Theo Vƣơng Hồng Sền, Cái Răng có
nguồn gốc tiếng Khmer là: “karan”, nghĩa là “cà ràng - ơng táo”, có dạng hình số 8, là
thứ lò đƣợc nắn bằng đất của ngƣời Khmer. Trƣớc đây ngƣời Khmer ở Xà Tón (Tri
Tơn, An Giang) làm rất nhiều karan rồi chất đầy mui ghe lớn dọc sông Cái, đến đậu
nơi Cái Răng hiện nay để bán, năm nay qua năm nọ, dần dần ngƣời dân địa phƣơng
phát âm karan thành Cái Răng, và địa danh Cái Răng chính thức ra đời từ đó. Ngƣời
dân tại Cần Thơ lại kể theo một truyền thuyết nhƣ sau: Tên gọi Cái Răng xuất phát từ
câu chuyện hồi đầu thời khẩn hoang, lập ấp. Truyền thuyết nói về con cá sấu với thân
14
hình rất lớn dạt vào đây, răng của nó cắm vào miệng đất này. Từ đó mà khi chợ nổi
hình thành lên, ngƣời ta đã dùng tên Cái Răng để đặt cho chợ nổi.
H4. Cà ràng hình số 8
Nguồn: />Ngồi chợ nổi Cái Răng ra, các chợ nổi khác nhƣ: Chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang),
Phụng Hiệp (Hậu Giang), chợ nổi Ngã Năm (Sóc Trăng), Gành Hào (Cà Mau)…cũng
có lịch sử hình thành cái tên rất thú vị.
3.2 Cây bẹo- cách thức rao hàng dân gian độc đáo:
Theo từ điển phƣơng ngữ Nam Bộ, “bẹo” là một động từ có nghĩa là “chƣng ra, đƣa
ra để khêu gợi”; “bẹo mặt” là “chƣờng mặt ra để trêu tức”, “bẹo hình bẹo dạng”: “phơ
trương hình dáng, chưng diện hình dáng, có ý khoe khoang” [Nguyễn Văn Ái (cb)
1994: 83].
“Cây trái rộn ràng từ vườn nhà em
Gọi ta dậy từ nửa đem về sang
Cắm cây sào tre bẹo hình bẹo dạng
15
Xơn xao xuồng ghe họp chợ chồng chành…”
Hình 5. Cây bẹo trên ghe bán rau củ
Nguồn: />Buổi sáng đến chợ nổi Cái Răng, ta thấy vô số những cây bẹo nhơ lên nhƣ những cây
phi lao vƣơn mình khỏi mặt nƣớc. Mỗi cây bẹo đều có ý nghĩa tƣợng trƣng cho mặt
hàng mà ngƣời trên ghe đang bán, các ghe bán đủ kiểu đủ loại nhƣ : bẹo chuối, bẹo
dƣa hấu, bẹo bí, bẹo hành…Sắc màu khác nhau của những sản phẩm trên các cây bẹo,
các ghe là cho khung cảnh chợ nổi thêm sống động.
Tuy ngƣời dân treo gì bán nấy thơng qua những cây bẹo, nhƣng cũng có trƣờng hợp
ngoại lệ:
-“Có những thứ treo mà khơng bán" - đó là quần áo. Vì sống bằng nghề thƣơng hồ,
chiếc ghe vừa là phƣơng tiện làm ăn, vừa là nhà ở của họ, họ sinh hoạt, nghỉ ngơi trên
chính chiếc ghe của mình. Cứ mỗi lần quần áo đƣợc giặt xong là họ phơi ngay bên
ngồi chiếc ghe của mình để kịp nắng kịp gió, sớm mai có quần áo để mặc. Do đó
quần áo thƣờng đƣợc treo ngồi ghe nhƣng không bán.
16
-“Có những cái bán mà khơng treo” – Chính là các thuyền bán đồ ăn uống, nƣớc giải
khát. Những thứ này khơng thể treo lên đƣợc, một phần vì chúng rất khó để treo lên
bởi vì rất dễ vỡ và một phần cũng vì khơng có vật gì thay thế (hủ tiếu, bún riêu…) để
biểu thị cho thứ mình đang bán cho khách thấy đƣợc. Các ghe bán hàng ăn uống dạo
thƣờng thay các bẹo hình bẹo dạng bằng bẹo âm thanh. Có ngƣời bấm kèn bằng tay,
có ngƣời vừa chèo ghe vừa dung chân đạp lên kèn (loại kèn lớn, gọi là kèn cóc).
-“Treo cái này, bán cái khác”- đây là hình thức “bẹo lá bán ghe”, chính là treo lá dừa
nhƣng lại bán thuyền, ngƣời dân muốn bán ghe xuồng của họ thƣờng treo lên thuyền
một cây sào, trên đó có gắn một miếng lá dừa. Vì cây dừa là loại cây đặc trƣng cho
vùng đất Nam Bộ, nên mái nhà của ngƣời dân thƣờng đƣợc lợp bằng lá dừa. Vì vậy
treo lá dừa có nghĩa là họ muốn bán thuyền, muốn bán ngôi nhà trên sông của mình.
Hình 6. Treo lá dừa để bán thuyền
Nguồn: Chudu24.com
Cây bẹo ngồi chức năng quảng cáo, cặm xuồng, nó cịn dùng để chống ghe luồn
lách những con sông, rạch nhỏ, và cũng là một “trƣờng côn” để chống chọi đám cƣớp
cạn đang trực chờ nơi bụi hoang bờ vắng
Hiện nay, tại các ghe tƣơng đối cố định nhƣ các ghe bán xăng dầu, ghe sửa đồ cũng
dùng những hình thức bẹo hàng hiện đại nhƣ dùng bảng hiệu, hộp đèn màu…Nhƣng
trải qua bao biến đổi thăng trầm cây bẹo cũng là một nét văn hóa độc đáo của chợ nổi
17
Nam Bộ, khó có vật gì có thể thay thế đƣợc vai trò của cây bẹo trong việc quảng cáo
mặt hàng, trong lịng của những thƣơng hồ nơi miền sơng nƣớc. Về mặt thẩm mỹ, cây
bẹo đã vơ tình tơ điểm thêm cho cảnh chợ nổi những đƣờng nét, màu sắc, dáng
vóc…một vẻ đẹp lạ lung trên sơng nƣớc. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng:
“Cây bẹo ở chợ nổi là một sự sáng tạo đặc sắc; một nét văn hóa tiếp thị và quảng cáo
ra đời rất sớm trên sơng nước. Nó vừa đậm nét truyền thống dân gian, vừa mang giá
trị thời đại”.
3.3 Văn hóa, tính cách của thương hồ:
Ngày xƣa giới thƣơng hồ luôn bị coi rẻ và bị coi là nghề hạ cấp. Nhắc tới nghề này
ngƣời ta thƣờng gọi là “con buôn”, “lái trâu”
“Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”
Vì “con bn” hay gian dối và từ thời phong kiến, nƣớc ta chủ trƣơng đóng cửa giao
thƣơng với các nƣớc ngoài nên phát triển thƣơng nghiệp nên nghề này thƣờng bị mọi
ngƣời khinh ghét, ngay cả chính sách của nhà nƣớc cũng bị ảnh hƣởng và sử dụng
chính sách “trọng nông, ức thƣơng” để hạn chế sự phát triển của ngành này. Tuy
“thƣơng hồ” đã sản sinh ra chợ nổi nhƣng con ngƣời nơi đây hoàn toàn khác biệt, họ
là những ngƣời giản dị, chân chất, thật thà chứ khơng phải mánh khóe, gian dối, lọc
lừa. Họ chịu thƣơng chịu khó, bám sơng nƣớc, có ngƣời cịn dành cả quãng đời của
mình để neo đậu lại trên những chiếc ghe hàng.
“Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuống biển, lên nguồn gạo chợ nước sông”
Theo Đinh Văn Liên trong đặc điểm văn hóa phi vật thể của Vùng đất phƣơng Nam
nhận xét rằng: “Tính cách chân chất đến cục mịch, sảng khối đến hào phóng, nhân
18
nghĩa một cách giản dị, trí tín một cách nơng nổi, hậu đãi bạn bè, sống hết lòng, làm,
chơi, chết, bỏ”
Thật vậy, đó chính là tính cách đặc trƣng của ngƣời dân Nam Bộ chứ khơng riêng gì
những ngƣời dân chợ nổi. Ngƣời Nam Bộ hào sảng, phóng khống nhƣng lại bình dị,
chân chất vơ cùng.
Ở chợ nổi, chữ tín lên hàng đầu tạo nên niềm tin cho cả ngƣời bán và ngƣời mua, họ
khơng kỳ kèo, khơng nói thách về giá cả, khơng có chuyện „cị kè bớt một thêm hai”
để cả ngƣời bán và ngƣời mua đều có lợi, khơng những thế mà cịn có chuyện mua
bán “gối đầu”- lần nay bán, lần sau mới thu tiền, ngƣời dân nơi đây rất tin tƣởng
nhau. Bởi thế hoạt động thƣơng mại trên các chợ nổi thƣờng tiết kiệm đƣợc thời gian
vận chuyển, hạn chế chi phí, đƣa hàng nhanh chóng đến nơi cần thiết, đáp ứng nhanh
nhu cầu của ngƣời tiêu dùng. Những ngƣời bán hàng nhỏ lẻ không chỉ bán rẻ mà còn
vừa bán vừa cho thêm; những cô bán hủ tiếu, bún riêu…vẫn dùng bát, đũa để đựng
thức ăn bán cho khách, thực khách có thể vừa ăn vừa vi vu mua hàng chợ nổi và sau
khi ăn xong sẽ gửi cho ngƣời lái ghe để trả lại tô, muỗng cho ngƣời bán.
3.4 Đời sống tâm linh của người dân:
Trong đời sống của mỗi con ngƣời, dù là ở bất cứ nơi đâu trên mặt đất hay trên sông
nƣớc, con ngƣời đều sẽ phải chống chọi với những khó khăn để tồn tại. Có những khó
khăn mà họ không giải quyết đƣợc, khi con ngƣời dần vào bế tắc, thất vọng thì họ cần
có chỗ để bám víu, đặt niềm tin, tin tƣởng rằng mình sẽ đƣợc che chở nếu thành tâm.
Từ đó con ngƣời hình thành nên những tín ngƣỡng, niềm tin riêng của mình.
Đối với cƣ dân vùng sông nƣớc, họ luôn tâm niệm rằng: “Đất có thổ cơng, sơng có
hà bá”, vì gắn liền với sông nƣớc nên họ đặt niềm tin vào Bà Thủy hay Hà Bá. Họ cho
rằng đó là những vị thần dƣới nƣớc rất linh thiêng,có chuyện xích mích, tranh chấp
mua bán họ luôn cầu xin các vị thần này làm chứng, phù trợ.
19
Giới thƣơng hồ luôn nghĩ rằng, họ làm ăn, buôn bán nƣơng theo dòng nƣớc, khác xa
so với dân chai lƣới là những ngƣời khai thác, kiếm sống từ lòng sơng, có nghĩa là
“đâm Hà Bá”, vì thế họ suy nghĩ rất thoải mái; thậm chí là trong các buổi tiệc nhậu,
trƣớc khi uống họ ln rót một ly rƣợu đầy mời Hà Bá, các vị thần trên sông bằng
cách tƣới rƣợu xuống sơng.
Đặc biệt khi nhắc đến tín ngƣỡng của ngƣời dân vùng này, ta còn phải kể đến tục vẽ
mắt thuyền. Ghe thuyền vừa là phƣơng tiện đi lại, làm ăn, vừa là công cụ gắn liền với
phong tục, tập quán, lối sống của cƣ dân vùng sông nƣớc. Ngƣời đi sông đi biển lúc
nào cũng coi ghe thuyền là vật linh và quan tâm đến việc trang trí con mắt ghe sao
cho thật sinh động, giống nhƣ truyền linh hồn cho ghe. Tuy nhiên, mỗi vùng miền đều
có một quan niệm khác nhau về con mắt ghe. Có truyền thuyết cho rằng vẽ giống mắt
thuồng luồng sẽ xua các lồi thủy qi. Lại có truyền thuyết nên vẽ giống mắt chim ó,
khiến thủy qi khơng dám lại gần, ngƣời ta tin rằng vẽ mắt thuyền giúp cho bạn hàng
đƣợc nhiều tài lộc, giúp cho ngƣ phủ tìm đƣợc nhiều cá… . Ngƣời sống bằng nghề
sông nƣớc lâu năm chỉ cần nhìn vào hình dáng, màu sắc của con mắt ghe là biết đƣợc
xuất xứ của ghe thuyền từ đâu đến và phạm vi hoạt động của thuyền bè từng vùng. Từ
Phan Thiết trở ra Trung Bộ, thuyền có mắt hẹp, đi mắt dài, trịng đen, nhãn cầu
trắng nền xanh, hƣớng mắt nhìn thẳng phía trƣớc. Ngƣợc lại thuyền bè từ Bà RịaVũng Tàu trở vào Nam Bộ có mắt hình bầu dục, mở lớn, trịng đen, nhãn cầu trắng vẽ
trên nền đỏ. Do đó khi đến chợ nổi, ta có thể dễ dàng quan sát đƣợc các đặc điểm này.
20
H7. Thuyền ghe đƣợc vẽ mắt
Nguồn: />Ngoài con mắt ghe, thợ đóng ghe thuyền cịn tơn trọng những quy định thật nghiêm
ngặt dù bất thành văn. Chẳng hạn nhƣ sau khi cúng ghim lơ, miếng ván chuẩn đầu
tiên đóng vào sƣờn ghe phải buộc vải đỏ, tuyệt đối không ai đƣợc nằm, ngồi trên
miếng ván lô. Sau khi xong, chủ ghe thu lại những cây đinh hoặc bù lon đóng trên
miếng ván lô cất kỹ, hoặc ném ra giữa sông rồi trám lại lỗ đinh bằng cây. Làm nhƣ
thế sẽ khơng bị kẻ xấu hại. Có ngƣời nghĩ rằng nếu dùng đinh đóng lên miếng ván lơ
sẽ khiến cho thuyền dễ đụng, húc vào thuyền khác. Mỗi ngƣời thợ đóng ghe thuyền
đều có những kinh nghiệm và bí quyết riêng trong nghề. Bởi thế dân gian mới có câu
“Làm ruộng ăn theo mùa. Làm ghe ăn theo mẹo”.
Đời sống tâm linh của ngƣời dân chợ nổi còn đƣợc thể hiện qua việc họ luôn tin vào
vận may, cho rằng nghề buôn bán là nghề Bà Cậu, đầu xuôi đuôi lọt, mua nhanh bán
nhanh, mua may bán đắt nên khách xuống ghe mua hàng bao giờ họ cũng tiếp đón
một cách niềm nở, thân thiện, thao tác nhanh nhẹn không để ngƣời mua chờ lâu. Vào
mỗi buổi sáng, họ cầu mong một ngƣời mở hàng có duyên để cả ngày đều mua may
21
bán đắt. Để lấy sự may mắn khi mở hàng, ngời bán thƣờng rao sát giá nhƣng không
bán liền, mà chờ ngƣời mua mặc cả vài ba câu cho không khí thêm phần rơm rả.
3.5 Đời sống sinh hoạt của người dân:
Cƣ dân trên chợ nổi thƣờng là bán trú nhƣ: Các ghe thƣơng hồ lớn từ các nơi khác
mang hàng đến mua, bán; cũng có ghe mƣớn thêm nhân công chạy máy, lên xuống
hàng; những ghe xuồng dịch vụ bán thức ăn, tạp hóa, vá may, đị ngang, sửa chữa
cung cấp xăng dầu… thì ln có mặt ở chợ nổi suốt ngày đêm. Thông thƣờng ghe cập
bến neo đậu sinh hoạt bận rộn chủ yếu vào buổi sáng, nếu chƣa hết hàng thì đậu lại
nghỉ ngơi.
Bn bán ở chợ trên bờ cực khổ bao nhiêu thì bn bán dƣới nƣớc lại khổ bấy nhiêu,
đơi khi cịn cực khổ hơn bởi ngƣời bán dƣới sông nƣớc phải thức dậy lúc hai ba giờ
sáng, chèo ghe xuồng đi lấy hàng và phải mang hàng trở về trƣớc khi trời sáng, vào
những ngày bình n, trăng thanh gió mát thì khơng sao, những đêm mƣa bão thì thật
vất vả, chƣa kể dến những hiểm nguy đang rình rập họ trên sơng nƣớc. Có những khi
ghe thuyền bị chết máy, những ngày trái gió trở trời ốm đau bệnh tật, ngƣời dân
khơng có nƣớc sạch, phải sử dụng nƣớc sông cho sinh hoạt, trong khi dịng nƣớc ơ
nhiễm vì tình trạng vệ sinh kém. “Có neo ở đây vài chục năm thì người dân cũng chỉ
được đăng ký giấy tạm trú 6 tháng/lần. Họ khơng chấp nhận giấy tạm trú này nên kêu
mình muốn vay tiền phải lên bờ mướn nhà trọ, làm sổ tạm trú dài hạn. Thật phi lý nếu
mướn nhà bỏ khơng để vay tiền sửa bè”, chị Trinh nói. (Chuyện về xóm bè khốn khó ở
chợ nổi Cái Răng).
Khơng gian sống nhỏ hẹp, vợ chồng con cái chỉ quanh quẩn một chiếc ghe chật chội,
thiếu thốn tiện nghi, lại cịn dễ hƣ hao khi gặp giơng bão, con cái của họ khơng có
điều kiện đến trƣờng, Chị Đặng Thị Trang (44 tuổi), ở xóm bè, cho biết: “Con nít ở
chợ nổi này đông lắm, nhưng hầu hết bỏ học ngang hơng vì khơng có hộ khẩu, lấy gì
22
học đến cấp 3” (Chuyện về xóm bè khốn khó ở chợ nổi Cái Răng). Đây cũng là vấn đề
đặt ra đối với chính sách “an sinh” của Nhà Nƣớc, chính quyền địa phƣơng.
Mặc dù khó khăn là thế, đời sống của cƣ dân chợ nổi chƣa bao giờ tẻ nhạt, họ biết
cách làm cho đời sống tinh thần của mình thêm phong phú hơn, ln lạc quan và u
đời. Sách Gia Định Thành Thơng Chí viết: “…Theo con nước lớn ròng, ghe thuyền
chèo chống, ca hát ngày đêm tấp nập…”[tr24,9]
Sau khi tan chợ, chính là cuộc sống sinh hoạt trong ghe của ngƣời dân Những ngƣời
phụ nữ, ngƣời mẹ, ngƣời vợ sẽ đếm tiền xem lời lỗ ra sao, sau đó sẽ nấu cơm, giặt
quần áo,…Cịn những cánh đàn ông sau khi tan chợ sẽ tranh thủ thả lƣới bắt thêm vài
con cá, sửa lại cái ghe hƣ, hoặc chỉ đơn giản là tụ tập với nhau để gầy cuộc nhậu,
đánh cờ giải khuây, dọn dẹp lại ghe xuồng để mai đi có chỗ để hàng đem về bán, sắp
xếp hàng hóa để sáng mai lại bắt đầu một ngày mới. “Đêm về họ lại cùng nhau hát
đờn ca tài tử: vài câu vọng cổ, một lớp Nam ai hịa trong tiếng đờn kìm, tiếng ghi-ta
phím lõm vang lên trên sơng nước, xen lẫn vào đó đơi khi có tiếng mẹ ru con ầu ơ…tất cả cái hợp âm thiết tha da diết đó theo gió đưa xa, tạo nên nét đẹp vừa trữ tình
lãng mạn vừa rất đặc thù không thể trộn lẫn trong bức tranh không thể trộn lẫn trong
bức tranh phong cảnh làng quê Tây Nam Bộ” [Trần Ngọc Thêm,2013:4521].
Ngƣời dân mua bán vùng chợ nổi đều là dân tứ xứ đổ về, mỗi ngƣời trong họ đều có
những xuất phát, nét đặc trƣng vùng miền và quãng đời khác nhau, nhƣng họ không
hề xa lạ, cách biệt mà rất gần gũi, chính sơng nƣớc làm cho họ xích lại gần nhau hơn
nữa. Dù mới gặp hay xa lạ chỉ cần chào hỏi dăm ba tiếng, họ lại trở thành những
ngƣời thân thiết và sẵn sang giúp đỡ nhau khi cần, rồi những lúc rảnh rỗi, họ lại tụ tập
đánh chén với nhau, ngƣời thì góp mồi nhậu, ngƣời thì hùng vài chai rƣợu ngâm, cứ
thế qua những buổi “chén tạc chén thù” họ lại trở thành đôi tri kỷ. Họ tâm sự về
chuyện đời, những chuyện buồn vui trong cuộc sống. Chỉ cần khi ghe mắc cạn hay
chết máy, ngƣời xuồng bên kia sẵn sàng ra tay giúp đỡ, có khi ghe nào có ngƣời bị
23
nạn hay xảy ra bất cứ chuyện gì họ ln sẵn sang cứu giúp mà khơng mảy may suy
nghĩ. Đó chính là khí phách anh hùng, trƣợng nghĩa vốn có từ bao đời nay của ngƣời
dân vùng đất chín rồng này.
Chợ nổi giống nhƣ một xã hội thu nhỏ không chỉ vì cái gì cũng có bán trên sơng hay
ngƣời ta ở trên sông mà mọi ngƣời sống với nhau một cách hịa hợp nhƣ làng xã, xóm
giềng. Làng xã này có những con ngƣời thật thà chất phát và đơn hậu, con trai thì hào
phóng, trƣợng nghĩa, phụ nữ thì hiền lành, dễ mến, lại rất chịu thƣơng chịu khó. Đêm
hơm thanh vắng, ghe xuồng mắc cạn, con gái đứng trên ghe dùng sào để chống, con
trai xoắn quần bùn đẩy ghe:
“Ngó lợi đằng sau tui thấy ba bến nước
Ngó lợi đằng trước tui thấy sóng bủa lao xao”
3.6 Lễ hội và các điệu hò dân gian:
3.6.1 Lễ hội:
Chợ nổi thƣờng đông đúc hơn vào những ngày cận tết. Khoảng 15 tháng Chạp là thời
điểm chợ nổi đông đúc nhất, cả quãng sông dài vài km tấp nập ghe thuyền, ngƣời mua
kẻ bán đông đúc, tắc cả một đoạn sơng. Vào những ngày này, nhà có gì là gia chủ nhà
đó sẽ mang ra bày bán hết để góp vui cho phiên chợ đồng thời hi vọng sẽ buôn may
bán đắt, kết thúc một năm sản xuất, làm lụng vất vả. Ngày cận Tết, giá hàng hóa trên
chợ nổi cao hơn ngày thƣờng một chút, nhất là các loại rau, củ, quả và hoa để trƣng
bày trong gia đình. Tuy nhiên, so với chợ trên đất liền, hàng trên chợ nổi vẫn có giá rẻ
hơn. Ngồi các mặt hàng nơng sản, những ngày này chợ cịn cung cấp thêm nhiều
hàng hóa thiết yếu khác nhƣ: bánh mứt, hoa quả, vải vóc, quần áo,… rực rỡ sắc màu
trên chợ nổi. Nổi bật nhất là những ghe hoa với những hàng mai vàng, hàng cúc xinh
xinh, những chậu vạn thọ to tƣớng phùng phình,… Chợ nổi thêm duyên với những
cây ớt ngun mình đỏ chót, tắc vàng nặng mình trĩu quả,… nhƣ đang tô vẽ thêm mùa
24
xuân đa lộc, đa tài. Điều đặc biệt của khu chợ nổi độc đáo này là thƣờng từ ngày 30
tháng Chạp và ngày đầu năm mới thì vắng khách hơn, vì lúc này gần nhƣ nhà nhà đã
chuẩn bị tƣơm tất cho ngày Tết rồi. Tuy nhiên, thời gian nghỉ Tết rất ngắn, khoảng
mùng Hai Tết, chợ nổi đã “chiều khách” trở lại vì nhu cầu mua hàng đã có.
Riêng chợ nổi cái Răng hằng năm còn tổ chức Ngày hội du lịch chợ nổi cái Răng.
Đây là ngày hội nhằm tơn vinh bản sắc văn hóa miền Tây sơng nƣớc. Ngày hội bao
gồm những hoạt động nhƣ: Diễu hành ghe trên sơng, triển lãm sách ảnh về văn hóa
miền Tây, cuộc thi viết thƣ pháp, đua thuyền rồng, ngoài ra cịn tổ chức đờn ca tài tử
trên sơng, nhạc dân gian, múa truyền thống, và có cả những gian hàng ẩm thực, quà
lƣu niệm…
H8: Ngày hội du lịch chợ nổi Cái Răng
Nguồn: />3.6.2 Điệu hò dân gian:
Thuở mới ra đời, chợ nổi chỉ là nơi tụ tập để mua bán, dần dần khơng khí trở nên sơi
động với những điệu hò điệu hát. Từ những câu rao hàng quen thuộc đến những câu
hát để vơi đi nỗi nhọc nhằn, lúc nào cảm thấy cô đơn, cuộc sống bấp bênh quá họ sẽ
hát cho vơi đi nỗi nhọc. Ngƣời dân còn hay tụ tập đánh chén, đàn hát với nhau trên
sông sau những giờ buôn bán, lênh đênh trên sông nƣớc và những điệu hị cũng ra đời
từ đó:
25