Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG XỨ NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 26 trang )

ĐỀ TÀI :

LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG XỨ NGHỆ


MỤC LỤC

Nội dung
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 3
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ................................................................................ 3
3. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu .................................................................. 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ................................ 4
1.1.Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 4
1.2. Cơ sở thực tiễn.................................................................................................. 5
CHƯƠNG 2 : MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TIÊU BIỂU .................... 5
2.1. Làng nghề thổ cẩm Nọong Dẻ ( huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An) ................... 5
2.1.1. Hoạt động sản xuất ....................................................................................... 6
2.1.1.1.Nguyên liệu .................................................................................................. 6
2.1.1.2. Kĩ thuật sản xuất ........................................................................................ 6
2.1.1.3. Các loại sản phẩm ...................................................................................... 7
2.1.1.4. Thị trường tiêu thụ .................................................................................... 8
2.1.2: Giá trị làng nghề thổ cẩm Nọng Dẻ ............................................................. 9
2.1.2.1. Giá trị kinh tế-xã hợi.................................................................................. 9
2.1.2.2. Giá trị văn hóa ............................................................................................ 9
2.2. Làng gốm Trù Sơn ( huyện Đô Lương,tỉnh Nghệ An) ............................... 10
2.2.1. Hoạt động sản xuất ..................................................................................... 11
2.2.1.1. Nguyên liệu sản xuất ................................................................................ 11


2.2.1.2. Kĩ thuật sản xuất ...................................................................................... 11
2.2.1.3. Các loại sản phẩm .................................................................................... 12
2.2.1.4. Thị trường tiêu thụ .................................................................................. 13
2.2.2. Giá trị làng gốm Trù Sơn ........................................................................... 14
2.2.2.1. Giá trị kinh tế-xã hợi................................................................................ 14
2.2.2.2. Giá trị văn hóa .......................................................................................... 14
1


2.3. Làng trống Bắc Thai ( xã Thạch Hội, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ) .. 15
2.3.1. Hoạt động sản xuất ..................................................................................... 15
2.3.1.1. Nguyên liệu sản xuất ................................................................................ 15
2.3.1.2. Kĩ thuật sản xuất ...................................................................................... 16
2.3.1.3. Các loại sản phẩm .................................................................................... 18
2.3.1.4. Thị trường tiêu thụ .................................................................................. 18
2.3.2. Giá trị làng trống Bắc Thai ....................................................................... 19
2.3.2.1. Giá trị kinh tế - xã hợi.............................................................................. 19
2.3.2.2. Giá trị văn hóa .......................................................................................... 19
CHƯƠNG 3 : ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG XỨ NGHỆ ............... 19
3.1. Các làng nghề tồn tại chủ yếu ở nơng thơn, gắn bó chặt chẽ với nền nơng
nghiệp ..................................................................................................................... 19
3.2. Nguyên vật liệu tại chỗ .................................................................................. 20
3.3. Công nghệ sản xuất thô sơ,lạc hậu, thủ công ............................................. 20
3.4. Phân chia lao động và tổ chức sản xuất theo hộ gia đình .......................... 21
3.5. Sản phẩm làng nghề thủ cơng xứ Nghệ mang đậm bản sắc văn hóa vùng
miền ........................................................................................................................ 21
3.6. Thị trường tiêu thụ địa phương .................................................................... 21
CHƯƠNG 4. KHẲNG ĐỊNH, GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN TRUYỀN
THỐNG VĂN HĨA DÂN GIAN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG XỨ NGHỆ .... 22
4.1. Vị trí làng nghề thủ cơng xứ Nghệ................................................................ 22

4.2. Các giải phát giữ gìn và phát triển ............................................................... 22
KẾT LUẬN. ....................................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 25

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghề thủ công Việt Nam vốn có truyền thống từ lâu đời. Truyền thống đó gắn
liền với nền văn minh lúa nước, gắn với những tên làng nghề,phổ nghề, và được
biểu hiện bằng những sản phẩm thủ công với những nét độc đáo tinh xảo hoàn mỹ.
Các nhà nghiên cứu khoa học qua khảo cứu dấu vết người vượn ở núi Đọ (Thanh
Hóa) phát hiện thấy hàng vạn công cụ đồ đá ghè đẽo thơ sơ như rìu tay,nạo,… Giai
đoạn đồ đá cũ này đã khẳng định dấu ấn lao động thủ công thô sơ của con người 3,4
vạn năm về trước.
Qua quá trình phát triển,sản xuất thủ cơng mỹ nghệ đã trở thành nghề với các
làng nghề nổi tiếng như : làng gốm Bát Tràng, làng tranh Đông Hồ, làng sơn mài
Cát Đằng (Ý Yên,Nam Định), làng lụa Vạn Phúc, làng gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh),…
hay các vốn nghề như : phố nghề Thành Nam, phố Hàng Thiếc, phố Tô Tịch, phố
Lãn Ông, phố Hàng Hòm, phố Lò Rèn, phố Hàng Mã, phố Hàng Dầu,…
Trên khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Bộ hiện nay đâu cũng
có làng nghề. Làng nghề thủ công truyền thống nức tiếng gần xa được mọi người
quan tâm rất nhiều. Trong đó có các làng nghề thủ công xứ Nghệ mang nét đặc biệt,
dáng dấp riêng biệt của mảnh đất đầy nắng và gió mà ít nơi nào có được.
Với những lí do nếu trên,tôi chọn đề tài nghiên cứu “ Làng nghề thủ cơng xứ
Nghệ” để trang bị cho mình thêm những kiến thức hay và bổ ích, trang bị hành trang
cho bản thân để sống và làm việc trong thời đại phát triển nhanh chóng như ngày
nay
2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu những giá trị văn hóa,kinh tế và xã hội trong phát
triển đối với một số làng nghề thủ công tiêu biểu xứ Nghệ.
Đề tài nghiên cứu này sẽ giúp mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về Văn hóa dân
gian Việt Nam, cụ thể là văn hóa làng nghề thủ cơng xứ Nghệ. Đồng thời có những
hiểu biết nhất định có thể phân tích được ảnh hưởng của văn hóa dân tộc đối với văn
hóa vùng miền. Từ đó góp phần to lớn cho công cuộc khẳng định và phát triển làng
nghề thủ cơng, tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam trong q trình hội nhập hóa,
quốc tế hóa như hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực văn hóa dân gian Việt Nam, cụ thể là làng nghề
thủ công xứ Nghệ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Do các làng nghề thủ công xứ Nghệ là một lĩnh vực kiến thức tương đối rộng lớn
cho nên tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây :
- Áp dụng phương pháp lịch sử,phương pháp so sánh để tìm hiểu nguồn gốc hình
thành và quá trình phát triển; phân loại các loại hình sản phẩm và kĩ thuật sản xuất
tại một số làng nghề thủ công tiêu biểu xứ Nghệ.

3


- Áp dụng phương pháp thu thập, xử lí thơng tin,phân tích và hệ thống các nguồn
số liệu,tài liệu thư tịch liên quan.
- Áp dụng phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn chiến lược để tìm hiểu vai
trị cộng đồng gia đình trong phát triển làng nghề thủ cơng xứ Nghệ.
- Áp dụng phương pháp phân tích chính sách để tìm hiểu tác động của chính sách
đối với việc bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của
làng nghề thủ công truyền thống xứ Nghệ.
5. Dự kiến kết quả sau khi nghiên cứu
Bài nghiên cứu về "Làng nghề thủ công Xứ Nghệ" sẽ hoàn thành cơ bản các luận

điểm về đặc điểm làng nghề Xứ Nghệ dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa
học. Từ đó, khẳng định, giữ gìn, và đưa ra các giải pháp phát triển làng nghề tốt
nhất.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1.Cơ sở lí luận
Văn hóa dân gian (foklore, lore trong tiếng Anh) là truyền thống của một nền văn
hóa, cận-văn hóa hoặc nhóm. Nó bao gồm lịch sử truyền miệng, như huyền thoại,
tục ngữ, thành ngữ, truyện kể, truyện cổ tích, truyện cười; các truyền thống kiến trúc
hay các đồ chơi dân gian, thủ công; các phong tục, tập quán, các truyền thống lâu
đời; các tác phẩm âm nhạc, nghệ thuật truyền thống... Nghĩa là văn hóa dân gian là
những giá trị vật chất và tinh thần do dân gian sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Vì
thế phát huy các di sản văn hóa dân gian trong thời kỳ hiện đại tức là bảo tồn cho
đúng các giá trị nguyên bản mà đồng thời phát triển thêm các giá trị tốt đẹp để làm
phong phú đời sống tinh thần của dân tộc.
Ở bài nghiên cứu này, tôi chủ yếu dựa vào thuật ngữ văn hóa dân gian "folklore"
được W J.Thom sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để hoàn thành bài nghiên cứu về
các làng nghề thủ công xứ Nghệ.
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về “làng nghề”. Theo giáo sư
Trần Quốc Vượng trong "Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam"
thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn ni
nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi
trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ cơng chun nghiệp hay
bán chun nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ơng trùm, ơng cả... cùng một số
thợ và phó nhỏ, đã chun tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư
nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản
xuất ra những mặt hàng thủ cơng, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung
quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra

cả nước ngồi”.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng "Làng nghề" là một đơn vị hành chính cổ xưa mà
cũng có nghĩa là một nơi quần cư đơng người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập
4


quán riêng theo nghĩa rộng. Làng nghề không những là một làng sống chuyên nghề
mà cũng có hàm ý là những người cùng nghề sống hợp quần thể để phát triển công
ăn việc làm. Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự vừa làm ăn tập thể, vừa phát
triển kinh tế, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc và các cá biệt của địa phương.
Thủ công là chế tạo các đồ vật như trang sức, đồ trang trí, lưu niệm... hồn tồn
bằng tay, khơng dùng máy móc. Cũng có thể hiểu thủ cơng mỹ nghệ là đồ thủ công
(hand crafted). Những người làm đồ thủ công chuyên nghiệp và lành nghề được gọi
là nghệ nhân thủ công.
Sản phẩm của các làng nghề thủ cơng được nhìn nhận, đánh giá từ nhiều góc độ
của kinh tế xã hội với những giá trị hết sức to lớn và độc đáo. Nhất là trong thời đại
ngày nay, khơng có sản phẩm khoa học cơng nghệ nào có thể thay thế được sự sáng
tạo của các nghệ nhân, nghề truyền thống và giá trị của nhiều nghề truyền thống vẫn
còn mãi với thời gian.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó khoảng 2.000 làng nghề truyền
thống với hơn 50 nhóm nghề như: sơn mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây tre đan,
dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá… Đặc biệt, các sản phẩm thủ công của các làng
nghề truyền thống Việt Nam phong phú, đa dạng, mẫu mã đẹp, chất lượng cao.
Hiện nay, xứ Nghệ có hơn 150 làng nghề và khoảng 300 làng có nghề. Số làng
nghề thủ công này rất đa dạng về mặt loại hình, từ sản xuất mỹ nghệ, may mặc,tiêu
dùng cho đến thực phẩm... Mỗi làng nghề đều có những câu chuyện hấp dẫn riêng,
chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc cũng như nhân sinh quan của
người Nghệ.
CHƯƠNG 2 : MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TIÊU BIỂU

Xứ Nghệ là tên chung để chỉ 2 tỉnh Nghệ An,Hà Tĩnh, còn được biết đến về mặt
văn hóa với tên gọi văn hóa Lam Hồng, bởi có chung núi Hồng, sông Lam. Xứ Nghệ
gắn liền với dải đất Việt Nam từ thời tiền sử, góp phần tạo dựng nền văn hóa,văn
minh Việt Nam. Xứ Nghệ có kho tàng văn hóa dân gian phong phú,độc đáo về hình
thức thể loại như : ca dao,dân ca,huyền thoại,điêu khắc, kiến trúc,trang trí,sân
khấu,… Trong đó, làng nghề thủ cơng xứ Nghệ là nét văn hóa dân gian nổi bật. Có
thể kể đến như : làng nón lá Ba Gian ( xã Phù Việt, huyện Thạch Hà,tỉnh Hà Tĩnh ),
làng rèn Thượng Rừng ( huyện Nghi Lộc,tỉnh Nghệ An), làng gốm Trù Sơn ( huyện
Đô Lương,tỉnh Nghệ An), làng trống Bắc Thai ( xã Thạch Hội,huyện Thạch Hà,tỉnh
Hà Tĩnh ), làng chiếu cói Nam Sơn (huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh ), làng dệt thổ cẩm
Nọong Dẻ ( huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An),...
Ở bài nghiên cứu này, tơi tập trung phân tích nghiên cứu 3 làng nghề tiêu biểu là
làng nghề dệt thổ cẩm Nọong Dẻ, làng gốm Trù Sơn và làng trống Bắc Thai.
2.1. Làng nghề thổ cẩm Nọong Dẻ ( huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An)

5


Bản Noọng Dẻ, xã Nậm Cắn (Kỳ Sơn) nằm cách Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn
khoảng 10 km, về phía Đông và cách Thị trấn Mường Xén chừng 10 km về phía
Tây.
Nép mình bên Quốc lộ 7A và nằm lưng chừng giữa đại ngàn Trường Sơn, Noọng
Dẻ để lại ấn tượng cho những ai từng có dịp qua đây bởi những nếp nhà sàn thấp
thoáng sườn non, và sắc màu thổ cẩm...
Bản là nơi quy tụ của 113 gia đình dân tộc Thái. Bao đời nay, người dân Noọng
Dẻ sống dựa vào núi rừng, chủ yếu bằng nghề phát nương làm rẫy. Chị em phụ nữ
còn có thêm nghề dệt thổ cẩm, một nghề truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc
Thái.
Tính đến nay, cả bản đã có khoảng 100 hộ gia đình theo nghề dệt thổ cẩm và đem
về một nguồn thu đáng kể, góp phần cải thiện cuộc sống gia đình. Năm 2011 vừa

qua, người dân Noọng Dẻ hết sức vui mừng và phấn khởi khi được đón nhận danh
hiệu Làng nghề Dệt thổ cẩm.
2.1.1. Hoạt động sản xuất
2.1.1.1.Ngun liệu
Nếu như người Mơng, người Hà Nhì trồng lanh thì người Thái chọn trồng bơng
để dệt vải. Ngồi ra, người dân ở đây còn nuôi tằm để kéo lấy tơ dệt vải.
Hầu hết các loại vải và quần áo của người Thái đều được dệt từ sợi bông, do đó
việc trồng bơng là khơng thể thiếu. Q trình trồng bông và chế biến sợi khoảng từ
2 -3 tháng. Bông sau khi thu hoạch về thì phơi khoảng 1- 2 ngày cho khô rồi dùng 2
thanh gỗ cán, ép quả bông lại cho tách vỏ bông ra khỏi sợi bông bên trong. Hạt bông
được giữ lại, chọn lọc cất cẩn thận để gieo cho vụ mùa năm tới. Sợi bông được tách
ra sẽ được đưa vào máy bật bông cho tơi xốp, sau đó bơng được cuốn thành những
con bơng.
Ngồi ra, bà con còn nuôi tằm để kéo kén lấy tơ. Thời gian nuôi tằm kéo dài
khoảng 1 tháng rưỡi, khi tằm chín đóng kén, người ta bắt đầu ươm tơ. Khi kéo tơ,
bà con đun một nồi nước to và ln để trên bếp, giữ ở tình trạng sơi lăn tăn, thả từng
nắm kén vào nồi, sợi tơ được mắc vào xa quay và quay tay đều để cuộn tròn lại và
quấn vào khung để tạo thành bó tơ. Họ quay xa quay cho đến khi nào tổ kén trong
nồi chỉ còn lại ao kén và xác con tằm (nhộng). Tơ tằm là rất dai, bóng và đẹp. Chính
vì thế, tơ được sử dụng để dệt các mặt hàng dệt cao cấp, thường là trang phục cưới
của cô dâu hoặc trang phục lễ hội của phụ nữ. Vải tơ tằm thường được dùng trong
nghi lễ của người Thái hoặc làm quà biếu, tặng có giá trị cả về vật chất lẫn tinh thần.
2.1.1.2. Kĩ thuật sản xuất
Vải thô sau khi dệt có hai màu tự nhiên là màu trắng và màu nâu nhạt. Để có màu
vải như ý cũng như tạo độ bền cho vải bà con thường nhuộm chàm. Trước đây trên
nương, người Thái thường giành một mảnh trồng chàm. Ngồi lá chàm, người Thái
còn trồng cây “hóm” để nhuộm vải. Bên cạnh đó còn dùng nhiều cây rừng khác để
nhuộm tạo ra các sản phẩm có màu sắc khác nhau như: Cây “co phang” nhuộm màu
6



đỏ, cây “co hem”, cây “pui” nhuộm màu vàng; cây “xét” tạo màu da cam, củ nâu
ngâm với chàm tạo màu đen nâu.
Một số người dân bản Nọng Dẻ còn pha màu đỏ từ cánh kiến, màu vàng từ nghệ,
màu vàng cam từ cây “xồm pu”. Từ những màu này,họ tự pha ra các màu khác như
tím, xanh. Mỗi màu lại có ý nghĩa riêng: màu trắng tượng trưng cho trời; màu đen
tượng trưng cho đất; màu đỏ tượng trưng cho lửa, mặt trời; màu vàng tượng trưng
cho mặt trăng; màu xanh chàm tượng trưng cho sự sống, vạn vật. Sợi được ngâm
màu và phơi khô, đảm bảo độ săn, dai, bền và chắc sẽ được mắc vào khung cửi để
dệt
nên
những
tấm
vải
theo

muốn
của
người
dệt.
Người Thái ở đây cũng có một số kiêng kỵ trong nhuộm chàm, chẳng hạn kiêng
phụ nữ mang thai khấy nồi chàm, kiêng người lạ ngó nhìn chum chàm của họ.
Công đoạn dệt cũng đòi hỏi sự khéo léo của đôi tay, nhịp nhàng của đôi chân và
tinh tế của đơi mắt để làm nên những sản phẩm có đường nét nhuần nhuyễn, màu
sắc hài hòa, hoa văn tinh xảo.

Hình ảnh 1 : người phụ nữ Thái bản Nọong Dẻ dệt thổ cẩm
( Theo Dulichvn, internet )
2.1.1.3. Các loại sản phẩm
Từ tấm vải, bà con không chỉ tạo ra các sản phẩm để mặc mà còn tạo ra những

sản phẩm liên quan đến ngủ, chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng. Đệm Thái có hai
loại là đệm nằm và đệm ngồi. Ga đệm được làm từ vải bông, là tấm vải dài hơn so
với đệm nằm khoảng 5-10cm. Gối được nhồi bằng bông lau hoặc bông gạo còn vỏ
gối được làm từ vải thơ và vải thổ cẩm. Gối có hình hộp chữ nhật, hai đầu được thêu
7


hoa văn rất ưa mắt. Màn của người Thái trước đây làm từ vải bơng nhuộm chàm
đen, kích thước của màn đủ để bao quanh cả chiếc đệm lớn, tùy thuộc vào đệm đơn
hay đệm đôi mà làm màn cho phù hợp. Màn Thái được làm từ 5 tấm vải lớn màu
đen, khâu lại với nhau để trùm lên chăn đệm khi người ngủ, để tránh muỗi và tạo ra
những khoảng không gian riêng.
Quả “còn” dùng trong các lễ hội cũng là 1 trong những sản phẩm của nghề dệt
thủ cơng của người Thái. Quả “còn” hình vng to bằng nắm tay người lớn, được
khâu bằng nhiều múi vải màu, bên trong nhồi thóc và hạt bơng. Quả còn có các tua
vải nhiều màu sắc, khi bay tựa như rồng uốn lượn trên không gian trông thật vui
mắt, thêm phần náo nhiệt trong các ngày hội. Đặc biệt là, thổ cẩm của người Thái
với những họa tiết hoa văn phong phú, độc đáo đã chiếm được cảm tình của bất kỳ
ai khi tiếp cận.

Hình ảnh 2 : Các sản phẩm thổ cẩm bản Nọong Dẻ
( Theo : Báo Nghệ An )
2.1.1.4. Thị trường tiêu thụ
Trước đây, sản phẩm thổ cẩm được làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu trong gia
đình, làm của hồi mơn cho con gái khi về nhà chồng. Ngày nay, các sản phẩm thổ
cẩm đã có mặt rộng rãi trên thị trường và được người tiêu dùng ưa chuộng bởi chất
lượng tốt, mẫu mã phong phú, tinh tế trong bố cục và hài hòa trong cách phối màu.
Các sản phẩm dệt thổ cẩm ở bản Nọng Dẻ được tạo ra rất đa dạng như: đệm nằm,
đệm ngồi, gối tựa, ga trải giường, túi, khăn, quần, áo, váy thổ cẩm, đai lưng, túi các
8



loại phù hợp với thị trường, từng bước tạo được uy tín đối với khách hàng trong và
ngồi tỉnh.
Bản Nọng Dẻ cách Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn không xa, lại nằm cạnh tuyến
đường chiến lược về giao lưu kinh tế và phát triển du lịch, dịch vụ; khơng ít khách
du lịch qua đây dừng lại để chọn mua một số sản phẩm làm quà lưu niệm và dành
tặng người thân, bạn bè.
Đặc biệt hơn, vừa qua, Trung tâm Nghiên cứu, Liên kết và Phát triển thủ công
mỹ nghệ (gọi tắt là Craft link) phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, Hội Phụ nữ
huyện Kỳ Sơn xây dựng mơ hình dệt thổ cẩm cho 60 chị em ở bản Noọng Dẻ, xã
Nậm Cắn và bản Na, xã Hữu Lập (Kỳ Sơn).
Thơng qua mơ hình này, các hội viện phụ nữ của bản Nọng Dẻ được tập huấn
nâng cao tay nghề dệt thổ cẩm thông qua các mẫu thiết kế ứng dụng dựa trên những
hoa văn truyền thống của dân tộc, tạo ra những sản phẩm đang được thị trường ưa
chuộng.
Cùng đó huấn luyện nâng cao kỹ năng quản lý nhóm; Thiết kế phát triển và hồn
thiện sản phẩm; Quản lý chất lượng sản phẩm; Đóng gói sản phẩm và quảng bá sản
phẩm ra thị trường.
2.1.2: Giá trị làng nghề thổ cẩm Nọng Dẻ
2.1.2.1. Giá trị kinh tế-xã hội
Trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên huyện hỗ trợ 10 máy
khâu công nghiệp, 20 khung cửi dệt và Trung tâm Craft Linh cung cấp toàn bộ
nguyên vật liệu sản xuất, và bao tiêu đầu ra toàn bộ sản phẩm. Trong cuộc phỏng
vấn của đài NTV, bà Trần Tuyến Lan - Giám đốc Craft Linh cho biết: “Hàng năm
Trung tâm Craft Linh sẽ thu mua tất cả các sản phẩm thổ cẩm đã được chúng tôi đặt
hàng để phân phối cho các đại lí, cửa hàng trong nước. Ngồi ra, chúng tơi còn xuất
khẩu các sản phẩm thổ cẩm đi 10 nước trên thế giới”.
Nhờ vào tay nghề khéo léo, sự quan tâm của nhà nước, hiện nay thổ cẩm Nọng
Dẻ có đầu ra, có thu nhập cho bà con, góp phần giải quyết việc làm, ổn định cuộc

sống cho nhiều người lao động nơi đây. Bản Noọng Dẻ thuộc xã Nậm Cắn có 114
hộ đang có nhiều bước chuyển mình nhờ phát huy nghề truyền thống dệt thổ cẩm.
2.1.2.2. Giá trị văn hóa
Các hoa văn trên vải thổ cẩm Nọng Dẻ được thể hiện theo nét truyền thống của
dân tộc Thái nơi đây. Nghề dệt thổ cẩm truyền thống được giữ gìn và lưu truyền qua
bàn tay khéo léo của những người phụ nữ trong gia đình.
Trước đây, đã thành truyền thống, bất cứ cô gái nào khi lớn lên đều được mẹ bày
cho cách dệt thổ cẩm, để dệt cho mình những bộ váy và cho cả gia đình của mình
sau này. Những bộ váy đẹp nhất dành cho những ngày lễ hội, cưới xin, xuống chợ.

9


Hình ảnh 3 : Sản phẩm làng dệt thổ cẩm Nọong Dẻ trong trang phục lễ hội
( Theo : truyenhinhdulich.vn )
Bằng đơi tay khéo léo, sự cần cù, óc sáng tạo cùng với các nguyên vật liệu sẵn có
từ rừng, phụ nữ Thái ở bản Nọng Dẻ đã dệt nên những sản phẩm tinh xảo, có hoa
văn độc đáo, màu sắc rực rỡ vừa mang tính dân gian, vừa mang tính hiện đại của
cuộc sống.
2.2. Làng gốm Trù Sơn ( huyện Đô Lương,tỉnh Nghệ An)
Làng Trù Sơn, còn gọi là làng Nồi, xưa thuộc Trù Ú, cách thị trấn Đô Lương, tỉnh
Nghệ An 20km về phía Đơng Nam.
Người già ở làng thường kể nghề làm nồi có nguồn gốc từ Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An. Ngày xưa, có người con gái ở nơi ấy về Trù Sơn làm dâu. Theo luật, nghề chỉ
truyền cho con dâu chứ không truyền cho con gái. Nhưng bà mẹ của cô gái khi đến
Trù Sơn thăm con, thấy cuộc sống vất vả khó nhọc quá, đành bí mật truyền lại cái
nghề này.
Thực ra, khơng ai biết chính xác nghề này ở Trù Sơn từ thời nào, nhưng mọi
người đều chắc chắn một điều rằng vì nghèo khó, vất vả mà có nó. Ở một nơi khí
hậu khắc nghiệt, bốn bề chỉ có đất, người nơng dân đã biết tìm cách tạo ra từ hòn

đất những sản phẩm phục vụ cho đời sống sinh hoạt của mình, sau đó mới nghĩ đến
chuyện mang đi bán.
Hiện nay, ba vị tổ sư nghề gốm ( Hứa Vĩnh Cảo(Kiểu), Lưu Phong Trí, Đài Trí
Tiến) được thờ ở Đình Trung thuộc làng gốm Cẩm Trang, xã Đức Giang, huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
10


2.2.1. Hoạt động sản xuất
2.2.1.1. Nguyên liệu sản xuất
Gốm ở Trù Sơn có lẽ là loại gốm còn giữ được những nét cơ bản nhất của gốm
cổ, không cầu kỳ, sặc sỡ, tuy nhẹ, mỏng, nhưng khá cứng. Để có được loại đất ưng
ý về làm gốm, người Trù Sơn phải xuống Nghi Văn (Nghi Lộc) và lên tận Sơn Thành
(Yên Thành), những nơi đó mới có loại đất sét có màu đỏ, dẻo và đẹp, thích hợp cho
việc làm gốm.
2.2.1.2. Kĩ thuật sản xuất
Khác với Phù Lãng hay Bát Tràng, người thợ gốm Trù Sơn không để cả khối đất
lên bàn xoay, mà dùng đất đã nhào nhuyễn vắt theo hình con chạch mà họ gọi là rói
để ghép nối từng phần.
Tất cả các công cụ làm gốm cũng chỉ gồm một cái bàn xoay, vài miếng giẻ nhỏ
và những khoanh nứa mỏng (gọi là khót) để tạo dáng và làm nhẵn. Vật liệu dùng để
nung gốm chỉ là lá cây, có khi là rơm rạ.
Đất sét được người đàn ông lấy từ làng Hội Yên (Nghi Lộc,Nghệ An), và là Điện
Yên ( Yên Thành,Nghệ An). Đất được đào thủ công giống như đào giếng, độ sâu từ
1,5-2m, chiều rộng 1m, đào cho đến khi gặp lớp đất sét trắng có đường vân vàng,ánh
dầu thì lấy; tiếp tục đào ngang theo hàm ếch chừng 1-1,5m để lấy đất tiếp. Hố đất
sau khi lấy xong thì được hồn thổ để trồng cấy,sau 1 thời gian nhất định,đất sét sẽ
được tiếp tục khai thác. Luyện đất là công việc tiếp sau khâu lấy đất. Đất sét tuyệt
đối phải sạch,nhào cho nhuyễn,để khi nung không bị hỏng.
Đất đã nhồi kỹ sẽ được người thợ cho lên bàn xoay để tạo ra những hình dáng thơ

sơ ban đầu của những chiếc nồi, chiếc siêu. Khi đã làm xong phần thô, những chiếc
nồi sẽ được bàn tay khéo léo của người thợ gọt lại cho thật trơn và đem đi phơi nắng,
sau đó sẽ được đưa vào lò nung. Không giống với các sản phẩm gốm ở nơi khác, để
có một sản phẩm gốm hồn chỉnh phải qua q trình đốt và nung lâu trong lò, sản
phẩm gốm làng Trù lại được nung ngoài trời với vật liệu nung chính là bổi (lá gồi,
lá cây dành dành, lá thơng, lá bạch đàn...) vì những loại lá này có dầu nên khi đốt
tạo cho màu gốm bóng và đẹp.
Để có được mẻ gốm đạt chất lượng, quan trọng nhất vẫn là khâu đun gốm. Các
sản phẩm gốm được nung 2 lần :
- Lần thứ nhất là đun nồi hay hơ nồi. Nồi được xếp ngửa,đáy xuống dưới,miệng
lên trên, cho bổi (mớ cành lá, cỏ rác lẫn lộn, thường dùng để đun) vào đốt ở dưới để
hơi nước còn sót lại trong nồi bay hết. Nung cho đến khi nồi hơi đen không còn chỗ
trắng nữa.

11


Hình ảnh 4 : Sản phẩm gốm Trù Sơn được nung lần 1
( Theo : Báo Nghệ An )
- Lần thứ hai, nồi được xếp ngược lại,miệng xuống dưới,đáy ngửa lên trên. Trong
lòng nồi lót rơm, xếp vung và các loại nồi cỡ nhỏ hơn vào. Nồi được chồng nhiều
lớp,xếp nghiêng vào giữa lò. Đốt bổi nung ở dưới cho đến khi nồi ngả màu đỏ, có
ánh lửa thì vấn lò nồi bằng rơm rạ,lá cỏ cho kín dưới chân,phía trên và xung quanh,
sau đó đốt to lửa để tạo thành một vầng lửa lớn như có “hoa lả”. Nung nồi được làm
vào chiều tối, ủ cho đến sáng sớm hôm sau mới dỡ khi lò đã nguội.
2.2.1.3. Các loại sản phẩm
Sản phẩm gốm Trù Sơn chủ yếu là nồi nhưng khá đa dạng. Có khoảng 30 loại
nồi, từ nồi to nấu nước, nồi thường nấu cơm, nồi nhỏ kho thịt cá, đến nồi đình gánh
nước, ủ giá đỗ, hơng xôi, nấu rượu, rồi các loại chảo rang, siêu sắc thuốc… Xưa kia
còn có cả nồi to đựng hài cốt lúc cải táng, các loại ống nhổ, áo chai để cất rượu vang,

bù đựng nước mát. Ngày nay, các nghệ nhân cũng đã mày mò tạo ra một vài loại
sản phẩm mới như giỏ treo phong lan, ống đựng tiền tiết kiệm khá độc đá....

12


Hình ảnh 5 : Sản phẩm làng gốm Trù Sơn đã hoàn thiện
( Theo : dulich1z.blogspot.com )
2.2.1.4. Thị trường tiêu thụ
Ngày xưa,các sản phẩm của làng gốm Trù Sơn thịnh hành và được chuyên chở
bởi các thương lái trong và ngoài tỉnh để chuyển hàng đi tiêu thụ. Thời bấy giờ, đa
số người dân đều sử dụng các mặt hàng gốm trong đời sống hàng ngày như : nồi nấu
cơm, lu chứa nước, ấm nấu sắc thuốc,bát ăn cơm,bình hoa,chậu cây,... nên sản phẩm
làng gốm Trù Sơn lúc bấy giờ rất thông dụng và nổi tiếng.

13


Hình ảnh 6 : Sản phẩm làng gốm Trù Sơn được đưa đi tiêu thụ
( Theo : dulich1z.blogspot.com )
Ngày nay,do cuộc sống ngày càng hiện đại,nhu cầu của con người ngày càng
cao,các mặt hàng công nghiệp được sản xuất hàng loạt thì thị trường đồ gốm ngày
một thu hẹp do khó tiêu thụ, nhiều gia đình đã phải bỏ nghề chuyển sang nghề khác
sinh sống. Hiện nay các sản phẩm làm ra chủ yếu được tiêu thụ ở địa phương,vùng
sâu vùng xa và các tỉnh lân cận thông qua những người bán dạo và thương lái.
2.2.2. Giá trị làng gốm Trù Sơn
2.2.2.1. Giá trị kinh tế-xã hội
Từ giữa những năm thập niên 90 của thế kỷ XX trở về trước, hầu hết hộ gia đình
nào trong xã Trù Sơn cũng làm nồi đất. Mặc dù là nghề phụ nhưng có thời điểm sản
phẩm gốm đã mang lại thu nhập chính cho người dân xã Trù Sơn. Thế nhưng theo

thời gian, do nhu cầu sử dụng gốm ngày càng ít đi nên số hộ duy trì nghề cứ rơi rụng
dần. Hiện nay, Trù Sơn chỉ còn 300 hộ trong số 2.150 hộ dân trong toàn xã còn theo
nghề, chủ yếu là chị em phụ nữ tranh thủ làm lúc nông nhàn để có thêm thu nhập.
2.2.2.2. Giá trị văn hóa
Làng gốm Trù Sơn đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa,tinh thần
của người dân Đơ Lương nói riêng và mảnh đất xứ Nghệ nói chung. Những sản
phẩm thơng qua kiểu dáng,hoa văn đều hàm chứa sự sáng tạo kinh nghiệm, phản
ánh trình độ nhận thức của người thợ trong từng thời điểm,từng giai đoạn. Bởi thế,
nó được xem như giá trị văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, phản ánh 1 nét sinh hoạt
đời thường trong từng giai đoạn lịch sử.
Chính vì thế, vào năm 2004, để tìm hướng đi cho việc bảo tồn nghề gốm cổ tại
Trù Sơn, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã phối hợp với Sở Văn hóa - Thơng tin
tỉnh Nghệ An, Bảo tàng Nghệ An và UBND huyện Đô Lương tổ chức Hội thảo tìm
giải pháp phục hồi, duy trì và phát triển nghề làm gốm Trù Sơn. Năm 2007, Trung
tâm Hướng nghiệp, Dạy nghề huyện Đô Lương phối hợp với Phòng Công thương
đã xây dựng Đề án khôi phục các làng nghề, trong đó có làng gốm cổ Trù Sơn. Theo
Đề án này, người dân Trù Sơn sẽ được tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật, mẫu
mã để áp dụng vào việc sản xuất gốm, đồng thời được hỗ trợ đầu tư thiết bị hoặc
được vay vốn không tính lãi để bảo tồn nghề. Phòng Cơng thương huyện sẽ hỗ trợ
một phần trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Để bảo tồn và phát triển nghề gốm ở
Trù Sơn nhằm góp phần quảng bá cho hình ảnh một xứ Nghệ với nhiều làng nghề
truyền thống, thiết nghĩ, ngồi những đề án, chính sách hỗ trợ thích hợp, cần phải
có sự phối hợp của các ngành các cấp, để cùng chung tay vào việc giữ cho gốm Trù
Sơn không những không bị mai một mà còn được phát triển, làm phong phú thêm
làng nghề truyền thống của Nghệ An.

14


2.3. Làng trống Bắc Thai ( xã Thạch Hội, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh )

Nghề làm trống ở Bắc Thai xuất hiện đã từ lâu đời, theo nhiều cụ cao niên trong
làng thì khi sinh ra đã nghe thấy tiếng đục, tiếng đẽo của cha ông làm trống. Đến
nay, nghề làm trống phát triển rất thịnh vượng ở làng Bắc Thai.Hiện nay làng trống
Bắc Thai có khoảng 20 cơ sở làm trống chuyên nghiệp theo hình thức “cha truyền
con nối”. Điều thú vị của nghề trống Bắc Thai là hầu hết thợ làm trống đều là con
cháu dòng họ Bùi như hộ ông Bùi Văn Trăn (SN 1944), ông Bùi Văn Điểng (Cố
Đỉnh), Bùi Văn Tứ, Bùi Văn Thuận…
2.3.1. Hoạt động sản xuất
2.3.1.1. Nguyên liệu sản xuất
Da bò: Không giống như làng trống Đọi Tam chọn da trâu để làm trống. Da làm
trống Bắc Thai phải là da bò còn tươi, không chọn dùng da cổ, da bụng, da đùi.
Miếng da tốt cũng phụ thuộc vào chú bò. Bò phải già, thịt nạc và ít mỡ, đặc biệt
miếng da lúc mua khơng được rách.

Hình ảnh 7 : Các nghệ nhân mang da bò được chọn đi phơi
( Theo : baohatinh.vn )
Gỗ: Loại gỗ để làm trống thì duy nhất chỉ là gỗ mít, đây là loại gỗ mềm, khơng
bị cong vênh, nứt vỡ, không thay đổi trước thời tiết bất thường; gỗ mít già, vừa nhẹ,
khơng bị ngót và quan trọng nhất là giữ được “tiếng". Gỗ đem về phơi khô, đo cắt,
15


uốn cong, xử lý mối mọt mới đem ra sử dụng làm thân trống. Để phơi khô gỗ, thợ
làm trống dùng máy căn mỏng từng thanh nhỏ với kích thước khác nhau. Thơng
thường nếu gặp thời tiết nắng to thì chỉ cần 3 -5 ngày là gỗ có thể đem vào sử dụng.
Song (mây): mây dùng làm dây nịt trống
2.3.1.2. Kĩ thuật sản xuất
Để làm ra một chiếc trống bền, đẹp với tiếng trống vang, người làm trống Bắc
Thai có những bí quyết riêng mà trống ở những nơi khác khơng có được. Theo đó,
để làm được một chiếc trống phải rất kỳ cơng, khéo léo và kiên trì. Cơng thức mà

các thế hệ con em ở Bắc Thai truyền tay nhau để gìn giữ và phát huy nghề truyền
thống thể hiện qua câu ca “Trống da bò, chang mít, nịt song”.
Người thợ làng trống Bắc Thai cho biết: “Để làm 1 chiếc trống Bắc Thai mất
khoảng từ 3 đến 4 ngày nếu nguyên liệu có sẵn, ngược lại có khi mất đến gần cả
tháng trời”. Có được những chiếc trống bền đẹp, thợ làm trống phải trải qua hơn 10
cơng đoạn
Việc làm trống trải qua nhiều bước, nhưng có 3 bước quan trọng nhất: Làm da,
chang và bưng trống.
Làm da là giai đoạn đầu tiên. Da bò được mua tại các lò mổ đem về làm sạch,
phơi khô, không được ướp muối hay bất kỳ loại hóa chất nào để đảm bảo độ bền và
âm vực chuẩn. Đặc biệt muốn trống có tiếng kêu thanh, vang thì trước khi bịt, da
phải được bào thật kỹ. Đây là phần việc rất khó, đòi hỏi người thợ phải có sự tỉ mỉ
và cẩn thận.
Làm tang là giai đoạn thứ hai, gỗ mít được cắt thành nhiều khúc, uốn cong, phơi
khơ sau đó pha thành từng “dăm”, ở cơng đoạn này cần phải đo đạc tỉ mỉ để độ cong
và độ dẻo của “dăm” khi ghép với thân trống vừa khít, khơng có kẽ hở. Tùy vào kích
cỡ trống muốn làm mà định số “dăm”. Ngồi ra, để cho trống thật kín người ta còn
dùng sơn miết vào các khe, cứ một lớp sơn lại có một lớp vải màn.
Bưng trống là giai đoạn quan trọng nhất quyết định chất lượng của trống. Da bò
được quây tròn căng hết cỡ trên mặt trống, rồi đóng cố định vào thân trống bằng
đinh chốt làm từ tre già. Việc bưng trống giúp điều chỉnh được âm thanh như: âm
vực cao, âm vực thấp... đây là một kỹ thuật khó, chỉ những người trong nghề lâu
năm mới làm được.

16


Hình ảnh 8 : Nghệ nhân Bùi Văn Tráng đang bưng trống
( Theo : baohatinh.vn )
Trang trí là cơng đoạn cuối cùng để có được một chiếc trống hồn thiện. Bình

thường, những chiếc trống sẽ được vẽ khá đơn giản nhưng nếu là trống cho ngày
khai trường hay mùa lễ hội thì sẽ được trang trí thêm các hoa văn thêm hấp dẫn, sinh
động.
Nghề làm trống không phân biệt già trẻ, trai gái, tất cả đều có thể làm nghề. Phụ
nữ, trẻ em thì làm các cơng đoạn nhẹ nhàng như: phơi da bò, đánh giấy nhám, còn
đàn ơng thì phụ trách các cơng đoạn quan trọng, khó hơn như: xẻ gỗ, ghép chang…
17


Trai làng từ 12 tuổi đã được dạy làm các loại trống nhỏ, đến 16 tuổi thì theo cha,
anh đi làm trống lớn.
2.3.1.3. Các loại sản phẩm
Làng Bắc Thai sản xuất đa dạng các loại trống như: trống trường, trống cơm,
trống đại, trống đội, trống hội, trống đình làng, trống trung thu... với đủ kích thước
lớn bé.
2.3.1.4. Thị trường tiêu thụ
Các sản phẩm làng trống Bắc Thai được đưa đi tiêu thụ khắp các chợ nhưng chủ
yếu vẫn là khu vực chợ tỉnh. Còn có một số sản phẩm trống được đặt trước, thông
thường người đặt mua một số là khách trong tỉnh, còn có khách Quảng Bình, Nghệ
An.

Hình ảnh 9 : Sản phẩm làng trống Bắc Thai được bày bán ở chợ
( Theo : Báo dantri.com )
Trong một năm, người làm trống Bắc Thai bận rộn nhất là từ tháng 7 đến tháng
giêng (âm lịch). Theo đó, vào các dịp như: Rằm tháng 7, khai giảng năm học mới,
lễ hội đầu xuân…nhu cầu mua trống tăng lên. Dịp rằm tháng 7 thì các dòng họ mua
để phục vụ tế tổ, tháng 9 thì các trường học đặt trống trước mùa tựu trường, dịp đầu
năm thì các địa phương mua phục vụ các lễ hội. Ngoài ra, các nhà thờ cơng giáo thì
nhu cầu mua trống quanh năm.
18



2.3.2. Giá trị làng trống Bắc Thai
2.3.2.1. Giá trị kinh tế - xã hội
Theo thống kê của xã Thạch Hội, năm 2018, làng Bắc Thai sản xuất khoảng 2.000
trống các loại. Nghề làm trống đang tạo việc làm thường xuyên cho hơn 50 lao động.
Giá thành bán trống dao động từ 500 ngàn đồng đến 20 triệu đồng. Giá của một
chiếc trống lớn có chiều cao 2m có giá từ 12 triệu đến 20 triệu đồng, trống trung
bình có giá từ 5 – 7 triệu đồng và loại trống cơm thường có giá khoảng 500 ngàn
đồng/chiếc.
Những chiếc trống to nhỏ đã đem lại thu nhập ổn định cho người thợ nơi đây,
trung bình mỗi hộ gia đình Bắc Thai thu nhập 100 triệu đến 200 triệu/năm nhờ nghề
làm trống.
2.3.2.2. Giá trị văn hóa
Trong suốt chiều dài lịch sử, nghề làm trống và sản phẩm trống Bắc Thai luôn
giữ một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. nghề làm trống và sản phẩm trống
có một giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật nhất định trong lịch sử dân tộc nước
nhà.
Những chiếc trống Bắc Thai mang trong mình văn hóa tinh thần người dân Nghệ
Tĩnh : trống thờ ở các ngơi chùa,miếu,đình để trưng bày, thờ cúng như hiện vật;
trống trong các chương trình, hoạt động nghệ thuật dân gian phục vụ cho các chương
trình biểu diễn, ca hát văn nghệ cộng đồng; trống sử dụng trong các môi trường với
vai trò truyền tải thông tin, mệnh lệnh như trong trường học, các dịp lễ, cổ động, cổ
vũ, các lễ hội, thi đấu ở làng quê,...
Giữ gìn và phát triển nghề làm trống Bắc Thai chính là giữ vững và phát huy
truyền thống văn hóa của dân tộc, bảo tồn giá trị tinh thần và truyền thống văn hóa,
giúp con cháu đời sau được nhìn ngắm và chiêm ngưỡng, chế tạo ra sản phẩm cổ
truyền.
CHƯƠNG 3 : ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG XỨ NGHỆ
3.1. Các làng nghề tồn tại chủ yếu ở nơng thơn, gắn bó chặt chẽ với nền nơng

nghiệp
Mảnh đất xứ Nghệ với diện tích rộng lớn, trong đó có gần 25% là đơ thị,còn lại
là vùng nông thôn rộng lớn. Với truyền thống trồng lúa nước lâu đời,bên cạnh đó là
các sản phẩm nơng nghiệp khác như : ngô,đậu,lạc,... và chăn nuôi các loại gia súc,gia
cầm. Nghề thủ công vốn ra đời chỉ để khỏa lấp thời gian nhàn rỗi, tăng thu nhập cho
người dân. Các nghề thủ công gắn liền với nền nông nghiệp như : làng miến gạo
Thái Hòa lấy nguyên liệu từ gạo, làng gốm Trù Sơn lấy rơm rạ để nung gốm, hay
19


như làng dệt chiếu Quỳ Châu, làng ghép vải H’Mông, làng thổ cẩm Nọong Dẻ dùng
các sản phẩm từ nông nghiệp như lanh,tơ,đay,cói,...
Các nghề thủ cơng ở xứ Nghệ gắn chặt với nền sản xuất nông nghiệp bởi lẽ các
sản phẩm thủ công thường đáp ứng nhu cầu cho việc sản xuất như : làng rèn Thượng
Rừng sản xuất dao,cuốc,liềm,neo,đinh đóng thuyền,..., làng nung vơi bằng vỏ sò
Quý Hòa sản xuất vôi dùng làm ô nại muối, sân phơi, thùng ngâm, xây dựng cầu
cống,... Nghề thủ công và nghề sản xuất nơng nghiệp ở xứ Nghệ có tác động lẫn
nhau, bổ trợ cho nhau, khi nơng nghiệp gặp khó khăn, thiên nhiên khơng thuận lợi,
người dân có nhiều thời gian nhàn rỗi sẽ sản xuất nghề thủ công, ngược lại sẽ có lúc
nơng nghiệp phát triển dẫn tới nhu cầu mua, sử dụng các sản phẩm sản xuất từ thủ
công nhiều hơn...
Vốn xuất phát từ một nghề phụ, dần dà nhờ vào tay nghề khéo léo, chất lượng
đảm bảo, mở rộng thị trường, và có sự quy hoạch chính sách phát triển của nhà nước
mà các nghề mới trở thành làng nghề mang lại nguồn thu nhập chính ổn định cho
người dân xứ Nghệ.
3.2. Nguyên vật liệu tại chỗ
Các làng nghề thủ công xứ Nghệ sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, trong vùng địa
phương. Có thể kể đến như : làng nghề giấy niệt ( Nghi Lộc, Nghệ An) sử dụng
100% nguyên liệu tại chỗ là vỏ cây niệt và nhựa cây bìm bìm làm ra sản phẩm giấy
mành dùng làm vở cho nho sinh, thầy đồ viết chữ, làm quạt, bọc tằm con... Hay như

làng nghề đúc đồng Cồn Cát ( Diễn Châu, Nghệ An) nguyên liệu không phải được
lấy từ quặng đồng nơi khác nhập về mà được lấy từ đồng nát tức là từ các dụng cụ
bằng đồng đã bị hư hỏng được thu mua về. Hay là các làng thổ cẩm, dệt, nguyên
liệu do người dân đồng bào tự trồng, là các sợi hay các màu nhuộm từ các loại cây
nghệ, vỏ lá cây chàm, cơm nguội...
Nguồn nguyên vật liệu đa dạng, phong phú tại chỗ mang đến nhiều thuận trong
sản xuất và vận chuyển, nhưng cũng dẫn đến một số hạn chế như : chất lượng sản
phẩm, bảo quản chưa toàn diện, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lớn.
3.3. Công nghệ sản xuất thô sơ,lạc hậu, thủ công
Công nghệ sản xuất làng nghề xứ Nghệ mang tính truyền thống, có từ lâu đời.
Cơng cụ lao động chính của người thợ là đôi bàn tay khéo léo và các dụng cụ, thiết
bị đơn giản, do vậy mà năng suất thấp, quy mô sản xuất nhỏ, tiêu hao nguyên liệu
lớn.
Nhắc tới các làng nghề thủ công xứ Nghệ, chúng ta mường tượng ra cảnh người
phụ nữ Thái ngồi bên khung cửi dệt thổ cẩm, ngồi bên xa quay xe sợi, hay nhắc tới
làng rèn Thượng Rừng ta tưởng tượng ra cảnh những người đàn ơng lực lưỡng đập
sắt trên đe,...
Nhìn chung, trình độ kỹ thuật công nghệ còn thấp kém, chủ yếu dựa vào lao động
thủ cơng, vào trình độ thành thạo nghề nghiệp và tài phối liệu của người thợ. Điều
kiện lao động khó khăn nên người thợ làm việc vất vả, giá thành sản phẩm cao, chất
lượng sản phẩm không ổn định. Bởi thế làm suy giảm khả năng cạnh tranh trên thị
20


trường, tác động xấu tới môi trường. Tuy nhiên lại giữ được bản sắc riêng của mảnh
đất xứ Nghệ.
3.4. Phân chia lao động và tổ chức sản xuất theo hộ gia đình
Hộ gia đình là đơn vị sản xuất cơ bản trong làng thủ công xứ Nghệ, với nguồn
nhân lực là các thành viên trong gia đình và cơ sở hạ tầng sẵn có.
Các gia đình sản xuất đơn lẻ, sau đó hợp thành làng nghề. Trong một gia đình tùy

vào nghề mà có sự phân chia lao động khác nhau. Ví như ở làng gốm Trù Sơn, cơng
việc lấy đất nặng nhọc thường do đàn ông đảm nhận, còn công việc làm sản phẩm
thường thuộc về người phụ nữ. Làng nghề làm giấy niệt ( Nghi Lộc, Nghệ An) người
đàn ơng thường làm cơng việc chặt cây, bóc vỏ cây, làm bột niệt, còn công việc
tráng giấy, phơi giấy do bàn tay khéo léo của người phụ nữ,...
Những nghề đơn giản, ít cơng đoạn thì một hộ sản xuất sẽ đảm bảo từ công đoạn
đầu đến công đoạn cuối là cho ra sản phẩm. Còn các nghề phức tạp, đòi hỏi sức lao
động cao như làng rèn Thượng Rừng thì được chun mơn hóa do nhiều nam giới
thực hiện sản xuất.
3.5. Sản phẩm làng nghề thủ công xứ Nghệ mang đậm bản sắc văn hóa vùng
miền
Các sản phẩm làng nghề xứ Nghệ mang tính đơn chiếc, có tính mĩ thuật cao mang
đậm bản sắc văn hóa. Các sản phẩm vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mĩ,
vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, cơng sở nhà
nước. Như các sản phẩm làng trống Bắc Thai vừa có giá trị sử dụng, vừa được trưng
bày tại trường học, chùa chiền, nhà thờ... Các sản phẩm làng gốm Trù Sơn : bình
gốm,chậu cây,bình hoa,... Các sản phẩm làng dệt thổ cẩm : váy, áo, khăn pieu, túi
xách,... Các sản phẩm làng nghề thủ công xứ Nghệ đều là sự kết giao giữa phương
pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Từ những họa tiết trên gốm, trên
vải, tấy cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương.
3.6. Thị trường tiêu thụ địa phương
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hầu hết mang tính địa phương,tại chỗ và nhỏ hẹp.
Bởi các làng nghề ra đời dựa trên nhu cầu về hàng tiêu dùng, sản xuất tại chỗ của
địa phương. Sản phẩm các làng nghề xứ Nghệ được trao đổi buôn bán thông qua các
chợ trong vùng. Hơn nữa, với sự phát triển của khoa học công nghệ như hiện nay,
các sản phẩm công nghiệp dần dần thế chỗ các sản phẩm làng nghề bởi sự tiện dụng,
giá thành hợp lí của nó. Cho đến nay, thị trường làng nghề thủ công xứ Nghệ về cơ
bản vẫn là thị trường địa phương, trong tỉnh và các tỉnh lân cận, hoặc một phần nhỏ
cho khách du lịch, xuất khẩu.


21


CHƯƠNG 4. KHẲNG ĐỊNH, GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN TRUYỀN
THỐNG VĂN HĨA DÂN GIAN LÀNG NGHỀ THỦ CƠNG XỨ NGHỆ
4.1. Vị trí làng nghề thủ cơng xứ Nghệ
Với các lợi thế,tiềm năng riêng của mình về nguồn lao động, nguyên vật liệu, thị
trường, làng nghề thủ công xứ Nghệ trong những năm gần đây được khôi phục và
phát triển tạo ra nhiều việc làm, thu nhập cho người dân và góp phần bảo tồn giá trị
văn hóa dân tộc.
Làng nghề thủ cơng xứ Nghệ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong những năm vừa qua, thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, làng nghề truyền thống được phục hồi và phát triển,
sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển mạnh mẽ của làng nghề cho phép khai thác
triệt để tiềm năng về lao động, về nguyên liệu và trình độ tinh xảo của các nghệ nhân
4.2. Các giải phát giữ gìn và phát triển
Làng nghề truyền thống hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị mai một vì những
khó khăn như : khả năng tiêu thụ yếu, thiết bị sản xuất cũ kĩ lạc hậu, thiếu vốn,
nguồn nguyên liệu không ổn định,... Từ những hạn chế trên, tôi xin đưa ra một số
giải pháp giữ gìn và phát triển làng nghề thủ công xứ Nghệ :
- Xây dựng các vùng nguyên vật liệu cho làng nghề : làng nghề có thể phát triển
được hay khơng phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu, các sản phẩm của làng nghề
có thể cạnh tranh được trên thị trường hay không cũng phụ thuộc lớn vào nguồn
nguyên liệu. Nguồn nguyên liệu các làng nghề hiện nay chủ yếu là tự cung tự cấp,
chưa ổn định. Do vậy việc quy hoạch sử dụng vùng nguyên liệu cho việc phát triển
làng nghề tại địa phương là vấn đề cần thiết. Chính quyền địa phương cần quan tâm,
nghiên cứu, xây dựng quy hoạch các làng nghề trên cơ sở khai thác các nguồn
nguyên liệu sẵn có, và đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu cần thiết, từ đó tạo tiền đề
cho làng nghề phát triển ổn định và bền vững

- Phát triển du lịch địa phương gắn với du lịch làng nghề : đây là phương pháp
thu hút khách du lịch thông qua việc đẩy mạnh các cơ sở sản xuất làng nghề, trong
đó giúp du khách có điều kiện học hỏi về sản phẩm, hiểu rõ về chu trình sản xuất.
Hiện nay, ở Việt Nam loại hình thương mại – du lịch gắn với làng lụa tơ tằm Vạn
Phúc và làng gốm Bát Tràng đang rất thành công, cần được tham khảo và nhân rộng.
Đó là cơ hội để đạt hiệu quả cao cả về kinh tế lẫn văn hóa, là dịp để giới thiệu những
giá trị truyền thống văn hóa đặc sắc của dân tộc với cộng đồng quốc tế.
- Phát triển thị trường tiêu thụ : việc sản xuất hàng thủ công xứ Nghệ hiện nay hết
sức thụ động, hoàn toàn phụ thuộc vào các đơn đặt hàng của người dân, thương
nhân. Tổ chức các cuộc triển lãm về các sản phẩm thủ công, giới thiệu sản phẩm
trên mạng internet, giảng dạy và truyền nghề,... là các phương pháp mở rộng thị
trường tiêu thụ khả thi.
22


- Đầu tư cơ sở hạ tầng : việc xây dựng cơ sở hạ tầng tốt sẽ là tiền đề thúc đẩy sản
xuất phát triển. Kết cấu hạ tầng của các làng nghề hiện nay đã được quan tâm đầu
tư nhưng vẫn còn thấp kém như : hệ thống công trình giao thơng, thơng tin liên lạc,
xử lí chất thải vẫn còn nhiều trở ngại khó khăn cho sự phục hồi và phát triển làng
nghề. Vì vậy cần tập trung, ưu tiên phát triển :
+ Hệ thống giao thông trong khu vực làng nghề và các đường dẫn giao thông
đến các trục giao thơng chính.
+ Phát triển mạng lưới cung cấp điện 3 pha tại các làng nghề có nhu cầu lớn về
điện sản xuất.
+ Phát triển hệ thống thông tin liên lạc.
- Đưa ra các giải pháp,cơ chế chính sách hợp lí : các tiêu chí cơng nhận làng nghề,
chính sách hỗ trợ khoa học và cơng nghệ, quỹ khuyến cơng, tín dụng, chính sách
khen thưởng và các chế độ đãi ngộ đối với nghệ nhân, thợ giỏi, những người có năng
lực sáng tạo,... nhằm phát huy vai trò của các nghệ nhân, góp phần phát triển sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh, tăng cường xuất khẩu.


23


KẾT LUẬN.
Qua nghiên cứu một số làng nghề thủ công tiêu biểu xứ Nghệ, có thể rút ra kết
luận chung như sau :
1. Sự hình thành và phát triển làng nghề truyền thống nói chung và làng nghề thủ
cơng xứ Nghệ nói riêng là một tất yếu khách quan, nó gắn bó hữu cơ với nơng nghiệp
và cơng nghiệp góp phần phân công lao động xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nơng nghiệp, nơng thơn. Việc phát triển làng nghề đóng góp vai trò to lớn đối
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động ở nông thôn. Làm phong phú thêm lịch sử văn hóa của địa phương và của
vùng. Từ quá khứ cho đến hiện tại, nó chính là yếu tố biểu hiện tập trung nhất bản
sắc dân tộc của địa phương, do vậy cần được bảo tồn, kế thừa và phát huy hơn nữa.
2. Làng nghề thủ công xứ Nghệ trong những năm gần đây được khơi phục và phát
triển, đóng góp một phần vào sự tăng trưởng kinh tế, thay đổi bộ mặt nông thôn.
Tuy nhiên các làng nghề còn gặp nhiều khó khăn, cần đến hệ thống chính sách, điều
kiện thuận lợi từ nhà nước.
3. Để các làng nghề mang tới hiệu quả cao cần thực hiện một hệ thống các giải
pháp, trong đó các giải pháp trọng tâm là tổ chức lại quan hệ sản xuất, phát triển
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hữu hạn, công ty cổ phần tại các làng nghề có
trình độ phát triển cao; đào tạo nâng cao tay nghề, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư
vốn, xây dựng thương hiệu...
Làng nghề thủ cơng xứ Nghệ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội
và giữ gìn phát triển bản sắc văn hóa vùng, dân tộc. Song các làng nghề thủ công
hiện nay đang đứng trước những khó khăn lớn cần tới sự quan tâm hỗ trợ đúng mức
của Đảng và nhà nước để trong thời gian tới các làng nghề thủ công xứ Nghệ sẽ từng
bước phục hồi và phát triển.


24


×