Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.81 KB, 4 trang )

tạp chí công thương

Đề xuT MT S GiẢi phÁp nÂnG CAO
vAi Tr CA kiểM TOÁn ni b Ti CÁC
dOAnh nGhiệp việT nAM hiện nAy
l PHM HUY HÙNG

TÓM TẮT:
Kiểm toán nội bộ (KTNB) có vị trí và vai trò rất quan trọng trong bộ máy hoạt động kinh
doanh của các đơn vị, tổ chức nói chung, các doanh nghiệp (DN) nói riêng. Tuy nhiên, có một thực
tế hiện nay là hầu hết các chủ DN tại Việt Nam chưa nhận thức đúng về vai trò, nhiệm vụ và chức
năng của KTNB trong hoạt động kinh doanh của DN. Từ việc phân tích thực trạng, chỉ rõ những
hạn chế yếu kém trong công tác KTNB của các DN Việt Nam thời gian qua, bài viết đề xuất hệ
thống giải pháp nhằm nâng cao vai trò của KTNB đối với hoạt động kinh doanh của DN, đáp ứng
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
T
óa: Kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên, kiểm soát nội bộ, lộ trình, DN.

1. Đặt a đ
Kiểm toán nội bộ (KTNB), xét về bản chất, “là
hoạt động đánh giá và tư vấn độc lập , khách quan,
chuyên nghiệp trong nội bộ tổ chức, được thiết kế
nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động
của tổ chức đó; giúp tổ chức đạt được các mục tiêu
đề ra bằng việc đánh giá và cải tiến một cách hệ
thống và chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản
trị, kiểm soát và quản lý rủi ro”. Với chức năng và
nhiệm vụ nêu trên, KTNB không chỉ có vai trò quan
trọng đối với hoạt động của đơn vị, giúp “bảo vệ giá
trị cho tổ chức”, mà còn “giám sát, bảo trì, nâng cấp
hệ thống kiểm soát nội bộ”, đảm bảo hiệu quả kinh


doanh và xây dựng các thủ tục kiểm soát cần thiết.
KTNB cũng là công cụ giúp phát hiện và cải biến
những điểm yếu của hệ thống quản lý của tổ chức.
Đối với các DN, vai trò và vị trí của KTNB
không dừng lại ở tính kiểm soát và tính tuân thủ, mà
mở rộng đến các mặt, như: tư vấn cho Hội đồng
quản trị và ban kiểm toán, ban giám đốc trong việc
giám sát chung về báo cáo tài chính, kiểm soát nội
bộ, quản lý rủi ro, đạo đức kinh doanh, quản lý tài
sản; tham gia công tác đào tạo cho các bộ phận và
phòng, ban trong DN về các kiến thức liên quan đến

484 Số 2 - Tháng 2/2019

kiểm soát nội bộ, báo cáo tài chính, các quy định
tuân thủ, vv… Tuy nhiên, trong thời gian qua, đã có
không ít các đơn vị kinh tế, các DN chưa làm tốt
công tác KTNB, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung,
của các ngành và địa phương nói riêng. Do đó, để
hạn chế những rủi ro, yếu kém trong hoạt động kinh
doanh của DN, bên cạnh việc nêu cao ý thức trách
nhiệm của người đứng đầu, còn cần thiết nâng cao
vị trí, vai trò của KTNB trong các DN, nhằm đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn nước ta hiện nay. Và đây
là đề tài được tác giả lựa chọn nghiên cứu.
2. T c t a g to c ùc oat ño g kTnb t o g
các dn
2.1. Một số đặc điểm trong tổ chức hoạt động
KTNB trong DN hiện nay

Bộ phận kiểm toán nội bộ (KTNB) trong các
DN ở nước ta hiện nay, được tổ chức theo nhiều
mô hình khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm và
nhận thức của nhà quản lý đơn vị. Tuy nhiên, về cơ
bản đều tuân thủ theo những nguyên tắc chung
trong xây dựng bộ máy KTNB, và đã hình thành
các mô hình mang dấu ấn riêng, như: Mô hình
KTNB được tổ chức thành một phòng, ban chức


kế toán - kiểm toán

năng riêng biệt trực thuộc tổng giám đốc (Tập
đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, hay Tập
đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam);
Mô hình KTNB được tổ chức thành một tổ kiểm
toán nằm trong Ban kiểm soát (Tập đoàn Tài chính
Bảo hiểm Việt Nam); mô hình KTNB được tổ chức
thành một tổ KTNB nằm trong bộ phận kế toán
của công ty mẹ (Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam). Với các mô hình tổ chức cụ thể, hình thức tổ
chức bộ máy KTNB cũng được lựa chọn tùy thuộc
vào đặc trưng của từng DN và phù hợp với hình
thức tổ chức bộ máy hoạt động chung (hình thức
tập trung, hình thức phân tán và hình thức nửa tập
trung, nửa phân tán). Như vậy, mô hình tổ chức
KTNB là đa dạng, linh hoạt, tùy thuộc vào quy mô
và yêu cầu cụ thể của mỗi tổ chức, đơn vị.
2.2. Thực trạng hoạt động và những tồn tại hạn
chế

Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, KTNB đã có những đóng góp không nhỏ
vào quá trình phát triển chung của đất nước cũng
như của từng DN. Các bộ phận KTNB đã bước đầu
xây dựng được quy chế kiểm toán, phù hợp với đặc
điểm của từng DN. Qua quá trình kiểm tra việc thực
hiện kiến nghị của KTNB đã thể hiện tính ưu việt
của loại hình KTNB so với các loại hình kiểm toán
khác; nhiều trường hợp đã phát hiện ra những sai
sót, những mặt chưa hoàn thiện của đơn vị và cáo
giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, trên bình diện
chung, vai trò của KTNB còn mờ nhạt. Ở không ít tổ
chức, DN, các vấn đề liên quan đến quản trị rủi ro
và KTN chưa được chú trọng một cách đầy đủ. Một
số tổ chức mơ hồ về phương pháp tiến hành xây
dựng hệ thống KTNB, phương pháp đánh giá, cải
tiến… một cách bài bản và hệ thống. Thậm chí, nhiều
DN chưa nắm được nội hàm, bản chất của KTNB,
nhầm lẫn giữa KTNB và kiểm soát nội bộ (KSNB).
Thứ hai, trên thực tế, hoạt động KTNB, còn
thiếu đồng bộ, còn nhiều hạn chế, yếu kém và
chưa thu hút được nguồn nhân lực có chuyên môn
cao trong lónh vực kế toán, kiểm toán. Ở một số
DN, nhân lực kiểm toán chưa được đào tạo bài bản,
chuyên nghiệp; hoạt động KTNB mới chỉ dừng lại
ở kiểm tra các báo cáo tài chính, các phần về bán
hàng, doanh thu, vv... Ngoài ra, việc thu thập thông
tin trong quá trình KTNB chưa được phân định rõ
ràng, ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả hoạt
động của KTNB.

Thứ ba, công tác kiểm tra từ xa chậm đổi mới,

việc áp dụng tin học vào kiểm tra KTNB còn hạn
chế. Đặc biệt tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ
chưa được đảm bảo; trong quá trình làm việc vẫn có
sự ràng buộc giữa các cá nhân, nhiều khi chưa được
giao quyền độc lập làm việc mà vẫn phải chịu sự
chi phối của cấp trên. Sự phối hợp trong quan hệ
giữa phòng nghiệp vụ với bộ phận kiểm tra, KTNB
chưa nhịp nhàng thông suốt, kiểm toán chưa thực
hiện đầy đủ chức năng của nó, chỉ mới dừng lại ở
mức độ phản ánh. Đồng thời, do chưa ý thức được
tầm quan trọng của KTNB nên tại các DN, cơ cấu tổ
chức KTNB nhỏ, số lượng kiểm toán viên còn ít.
Sự hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên
nhân: về mặt khách quan, các quy định pháp lý về
tổ chức KTNB không mang tính bắt buộc và cũng
không quy định một cách rõ ràng, hoặc không xác
định rõ vị trí tổ chức cho bộ máy KTNB trong DN.
Do đó, dẫn tới việc hình thành nhiều mô hình rất
khác nhau, khó khăn cho việc theo dõi, giám sát. Ở
nhiều tổ chức, việc đặt bộ phận KTNB nằm trong
bộ phận kế toán (người phụ trách KTNB là bán
chuyên trách) sẽ ảnh hưởng đến tính độc lập, khách
quan của kiểm toán và dẫn tới những bất cập trong
tổ chức, điều hành. Về mặt chủ quan: tổ chức bộ
máy KTNB trong DN cũng chưa được quy định hay
hướng dẫn khuôn mẫu, hình thức tổ chức phù hợp.
Thực tiễn các DN Việt Nam tự mày mò xác định
hình thức tổ chức bộ máy KTNB phù hợp với đặc

thù đơn vị. Chẳng hạn như tổ chức bộ máy KTNB
theo hình thức tập trung tại Tập đoàn Bưu chính
Viễn thông chưa phù hợp với quy mô (tính đến tháng
5/2016, DN này có tổng cộng 90 đơn vị thành viên,
hình thức tập trung trong tổ chức bộ máy KTNB ở
DN này được cho là khó có thể đáp ứng tốt nhu cầu
quản lý (Điều lệ hoạt động Tập đoàn Bưu chính
Viễn thông 2016).
3. Đ
at g ả
á a
g ị
3.1. Về giải pháp
* Một là, xây dựng lộ trình để nâng cao chất
lượng bộ phận KTNB. Lộ trình này phải đảm bảo
không gây nhiều ảnh hưởng đến hoạt động của DN,
tiết kiệm chi phí và mang lại hiệu quả cao nhất cho
hoạt động của bộ phận KTNB; gồm các khâu: (1)
đánh giá hiện trạng của bộ phận KTNB, trên các
phương diện: năng lực quản trị, con người và nền
tảng hoạt động; giúp lãnh đạo của bộ phận KTNB
và DN thấy được những bất cập trong hệ thống
KTNB hiện tại và nhu cầu chuyển đổi; (2) xác định
tầm nhìn và thiết kế mô hình hoạt động của bộ phận
Số 2 - Tháng 2/2019 485


tạp chí công thương

KTNB phù hợp với điều kiện của DN; (3) tiến hành

chuyển đổi bộ phận khi cần thiết.
*Hai là, Chủ động tháo gỡ khó khăn và giải
quyết các vấn đề cụ thể mang tính cấp bách, như:
(1) Đầu tư vào nền tảng hỗ trợ hoạt động (phương
pháp tiếp cận, công nghệ và công cụ hỗ trợ; quản lý
tri thức; quản lý hoạt động; quản lý chất lượng); (2)
Nâng cao năng lực quản trị cho DN (đảm bảo sự phù
hợp giữa mục đích, tầm nhìn, vấn đề tập trung và
phạm vi hoạt động của KTNB với mục tiêu và chiến
lược chung của DN; (3) Phát triển con người, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực gắn liền với mục tiêu
và tầm nhìn của KTNB; (4) DN cần nghiên cứu về
mô hình tổ chức của bộ máy KTNB chuyên trách
sao cho vừa phù hợp với điều kiện cụ thể vừa phù
hợp với thông lệ tốt nhất. Hoạt động KTNB trong
DN tại Việt Nam đang trong giai đoạn mới phát
triển, hệ thống quản lý chưa đồng bộ, chất lượng
hoạt động còn thấp chưa tương xứng với yêu cầu.
Do vậy, hoàn thiện tổ chức bộ máy đi đôi với nâng
cao vai trò của KTNB là vấn đề cần được quan tâm
một cách thích đáng trong giai đoạn hiện nay.
* Ba là, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
KTNB, như: ban hành các chuẩn mực về kiểm toán
nội bộ, kết hợp với Bộ Tài chính tổ chức các khóa
đào tạo để cấp chứng chỉ cho kiểm toán viên; Xây
dựng và ban hành điều lệ KTNB theo xu hướng mở,
kiểm toán viên được quyền truy cập cơ sở dữ liệu,
các phần mềm quản trị điều hành, vv… Bởi đặc trưng
cơ bản và xuyên suốt trong quá trình tác nghiệp
kiểm toán là việc thu thập bằng chứng để làm căn

cứ hình thành các ý kiến đánh giá, kết luận, kiến
nghị của kiểm toán viên (KTV). Chất lượng của
cuộc kiểm toán chỉ được đảm bảo khi các KTV thu
thập các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp.
Tính đầy đủ thể hiện ở số lượng bằng chứng cần thu
thập; còn thích hợp là thước đo chất lượng thể hiện
độ tin cậy, sự xác đáng, phù hợp của bằng chứng
kiểm toán. Điều này được quy định tại Khoản 4
Điều 30 Luật KTNN về “Trách nhiệm của kiểm
toán viên nhà nước” như sau: “Thu thập bằng chứng
kiểm toán, ghi sổ nhật ký kiểm toán và các tài liệu
làm việc khác của KTNN theo quy định của Tổng
KTNN”. Như vậy, cả về mặt lý luận và quy định
thực tế đặt ra yêu cầu cho KTV phải thực hiện tốt
trách nhiệm thu thập bằng chứng kiểm toán.
3.2. Một số đề xuất, kiến nghị
*Về phía Nhà nước
Một là, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý

486 Số 2 - Tháng 2/2019

về KTNB. Hệ thống văn bản pháp lý về KTNB
cần quy định một cách rõ ràng, xác định vị trí tổ
chức cho bộ máy KTNB trong các DN. Các văn
bản về KTNB do Bộ Tài chính ban hành cần phải
làm tăng tính hiệu lực trong thực thi. Thay vì những
quy định mang tính định hướng, gợi mở hay là
hành lang pháp lý chung cho loại hình KTNB trong
DN, những quy định này cần hướng dẫn cụ thể tổ
chức KTNB trong DN.

Hiện nay, Dự thảo Nghị định KTNB đã có những
quy định mới khá chặt chẽ về KTNB như: Xác định
rõ một số loại hình DN bắt buộc phải có KTNB,
trách nhiệm báo cáo của người đứng đầu bộ phận
này. Tuy nhiên, vẫn chưa có những hướng dẫn cụ
thể nhằm hướng hoạt động KTNB theo một khuôn
mẫu nhất định.
Ngày 22/1/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị
định về Kiểm toán nội bộ (Số 05/2019/NĐ-CP),
trong đó đã có những quy định mới khá chặt chẽ về
KTNB đối với các DN (Điều 10), như: Xác định rõ
một số loại hình DN bắt buộc phải có KTNB, trách
nhiệm báo cáo của người đứng đầu bộ phận này…
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ tháng 4/2019.
Như vậy, sẽ có những hướng dẫn cụ thể nhằm hướng
hoạt động KTNB theo một khuôn mẫu nhất định.
Hai là, hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy
KTNB. Cần ban hành các mô hình mẫu về tổ chức
KTNB trong DN. Mô hình tổ chức bộ máy KTNB có
thể thay đổi theo hướng hoàn thiện hơn về tính độc
lập của bộ phận này bằng mô hình trực thuộc lãnh
đạo cao nhất trong DN, đảm bảo thực hiện tốt các
chức năng của bộ phận KTNB.
*Về phía doanh nghiệp
Cần xây dựng và hoàn thiện Điều lệ KTNB,
trong đó quy định về mục đích, quyền lợi, trách
nhiệm của KTNB, thiết lập vị trí hoạt động của
KTNB trong tổ chức, bao gồm cả chức năng báo
cáo, quyền tiếp cận tài liệu, con người và các tài
sản của DN, đồng thời đưa ra các phạm vi kiểm

toán, vv… Tùy thuộc vào mỗi một tổ chức, Điều lệ
KTNB sẽ có những điều khoản khác nhau, nhưng
phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phản ánh
trung thực mục đích, quyền hạn, trách nhiệm của
hoạt động KTNB. Điều lệ kiểm toán cũng phải
quy định về đạo đức kiểm toán và các Chuẩn mực
KTNB cần phải tuân theo. Đặc biệt, DN cần thực
hiện tuyển dụng và đào tạo KTV nội bộ đạt chất
lượng, đáp ứng yêu cầu kiểm toán trong điều kiện
phát triển công nghệ thông tin cũng như tính phức


kế toán - kiểm toán

tạp của các giao dịch kinh tế trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
4. k t a
Các DN Việt Nam hiện nay đang đứng trước
nhiều vận hội và thử thách. Để giúp các DN phát
hiện, hạn chế tối đa những rủi ro trong hoạt động
và làm gia tăng giá trị trong quản lý, KTNB được
coi như một biện pháp hữu hiệu. Tác giả cũng đã

hệ thống hóa những vấn đề lý luận, xem xét đặc
trưng cơ bản của tổ chức KTNB trong các DN ở
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phân tích thực
trạng, đề tài cũng chỉ ra những mặt hạn chế yếu
kém, phân tích nguyên nhân, đề xuất hệ thống giải
pháp, nhằm khắc phục những rào cản, nâng cao
vai trò của KTNB trong DN, đáp ứng yêu cầu thực

tiễn hiện nay n

Ti liệu ThAM khẢO:
1. Bộ Tài chính Việt Nam (2016), Dự Thảo Nghị định Kiểm toán nội bộ.
2. Bộ Tài chính (1997), Quyết định số 832TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 ban hành Quy chế KTNB.
3. Victor Z. Brink và Herbert Witt (dịch GS.TS. Nguyễn Đình Hương và các cộng sự (2000)), KTNB hiện đại, NXB
Tài chính, Hà Nội.
4. Linh, V. T. (2014). Hoàn thiện quá trình và tổ chức bộ máy KTNB trong các DN nhà nước Việt Nam. Học viện
Tài chính.
5. Kiểm toán nội bộ - Nghề bảo vệ giá trị doanh nghiệp.
6. Phan Trung Kiên (2011), Kiểm toán lý thuyết và thực hành, NXB Tài chính.

nga
a
nga

nga c a

a : 17/1/2019
đá g á a s ûa c a: 27/1/2019
a đă g a : 7/2/2019

Thông tin tác giả:
T S. phM huy hùnG
T
g Đa oc Ta g
â

a Moâ t


g ha no

prOpOSinG SOMe SOluTiOnS TO iMprOve The CurrenT
rOle Of inTernAl AudiT in vieTnAMeSe enTerpriSeS
l Master. PHAM HUY HUNG

Hanoi University of Natural Resources and Environment
AbSTrACT:
The internal audit plays a key role in the business operation of units and organizations in general,
and enterprises in particular. However, there is a current fact that most business owners in Vietnam are
not properly aware of the role, tasks and functions of the internal Audit in their business activities. By
analyzing the current situation and clearly indicating the weaknesses in the internal audit of
Vietnamese enterprises in the current year, this article proposes a system of solutions to enhance the
role of internal audit on business activities of enterprises to meet the demands of current practice.
k
o s: Internal audit, auditor, internal control, roadmap, enterprise.
Soá 2 - Thaùng 2/2019 487



×