Một số đặc điểm của múa dân gian
Thứ tư, 06 Tháng 10 2010 12:23 Ứng Duy Thịnh
Xem kết quả:
Bình thường
/2
Tuyệt vời
B? phi?u
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những điệu múa dân gian của dân tộc mình. Các dân
tộc Việt Nam đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng nghệ thuật múa quý giá. Nhìn từ góc độ nghệ
thuật múa, có thể nói di sản múa dân gian là cơ sở tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi tộc
người. Trong một xã hội hiện đại, khoa học kĩ thuật phát triển, di sản múa dân gian đối với sự phát
triển của ngành múa chuyện nghiệp Việt Nam trở nên rất quan trọng. Muốn đổi mới, cách tân thì cần
phải nghiên cứu, xác định và hiểu đâu là giá trị đích thực cần phải kế thừa. Nói cách khác, cần phải
tìm ra hằng số giá trị của múa dân gian.
Quan sát, nghiên cứu các điệu múa dân gian, chúng ta có thể nhận biết được thái độ, ý thức, thẩm
mĩ trong lao động của người xưa. Những hình ảnh trong chiến đấu, trong lao động sản xuất, trong
các mối quan hệ xã hội, trong phong tục tập quán, trong đời sống tâm linh... được thể hiện trong
múa dân gian có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hoá của các tộc người. Múa dân
gian biểu hiện tri thức văn hoá của quần chúng nhân dân, biểu hiện bản chất múa của văn hoá dân
tộc. Múa dân gian phản ánh sức sáng tạo, tài năng của nhân dân.
Ngoài ra, múa dân gian cịn có tác dụng thiết thực đối với tình cảm và đời sống của con người. Múa
dân gian được thể hiện trong các lễ thức (múa tín ngưỡng). Những động tác biểu hiện thế giới tâm
linh của con người (cầu mong sự che chở, phù hộ của các đấng thần linh, trời, Phật... ). Ngoài ra, từ
thuở xa xưa, qua các điệu múa, người dân còn muốn truyền lại các kinh nghiệm lao động sản xuất,
săn bắt... Múa dân gian còn thể hiện những hành vi ứng xử của con người, tạo môi trường không
gian để con người đến với nhau. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong sinh hoạt văn hoá dân gian ở
làng, bản như xoè vòng của dân tộc Thái, xoè chiêng của dân tộc Tày. Hoặc có thể lấy ví dụ rõ hơn
như múa lăm vơng của người Lào. Có những điệu múa dân gian cũng mang ý nghĩa đạo đức nhưng
được thể hiện ở góc độ khác nhau. Ví dụ một số điệu múa dân gian như múa dô (gắn với tục thờ
Tản Viên), múa dậm (gắn với tục thờ Lý Thường Kiệt), múa cờ lau tập trận (trong hội Hoa Lư), múa
chèo tàu (gắn với tục thờ các tướng của Hai Bà Trưng), hay là múa dân gian trong hội đền Hùng,
hội Gióng (gắn với tục thờ Phù Đổng Thiên Vương). Những điệu múa đó tuy đơn giản, phức tạp
khác nhau, mức độ, quy mô khác nhau tuỳ theo điều kiện của từng địa phương, từng cộng đồng
người... những đều thể hiện tình cảm của con người, đồng thời qua đó phản ánh những giá trị đạo
đức cổ truyền của nhân dân. Đó là lịng tơn kính và biết ơn với các anh hùng dân tộc. Những giá trị
đó được lưu giữ và tồn tại có tính bền vững trong dân chúng. Bài học đạo đức được thể hiện qua
múa dân gian có ý nghĩa giáo dục đối với các thế hệ; đó là lịng u nước, cuộc sống tình nghĩa,
tình yêu quê hương, thiên nhiên...
Nếu như so sánh múa dân gian người Việt nói chung với múa dân gian của các nước khác, như
múa dân gian Nga chẳng hạn, chỉ nghiên cứu riêng về “cường độ” (độ mạnh, nhẹ), tiết tấu (nhanh,
chậm) đã có sự khác nhau cơ bản. Đa số các bước chân của múa dân gian dân tộc Việt đều bước
đi rất nhẹ nhàng. Có nhà nghiên cứu cho rằng, do người Việt chủ yếu là cư dân nơng nghiệp sống ở
đồng bằng, địa hình bằng phẳng, có thói quen đi chân đất, thích một cuộc sống hiền lành, êm đềm...
Vì thế, phong cách sống của họ đã ảnh hưởng đến bước đi trong múa. Ngược lại, dân tộc Nga ở xứ
lạnh, đương nhiên không ai đi chân không trên tuyết. Đôi giày đối với họ hết sức quan trọng. Vào
mùa đông, đi từ nơi khác về đến trước cửa nhà , mọi người đều có thói quen dẫm thật mạnh nhiều
lần trên bậc cửa cho tuyết rơi xuống đất. Thói quen đó đã được đưa vào múa dân gian. Nhiều điệu
múa dân gian Nga, từ đầu cho đến cuối tác phẩm, mơtip chính chỉ là động tác dậm chân. Những
động tác đó được thể hiện ở những cường độ, tiết tấu khác nhau, tạo nên sức hấp dẫn khác nhau.
Nếu so sánh về tiết tấu, nhịp độ thì múa Nga nhanh và mạnh hơn hẳn múa Việt. Nhanh và chậm đó
cũng là biểu hiện sắc thái, tình cảm, thẩm mĩ rất quan trọng trong nghệ thuật múa, bản sắc dân tộc
của múa.
Qua ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng, một trong những đặc điểm của múa dân gian của người Việt là
tính chất nhẹ nhàng, uyển chuyển, chậm rãi.
Do luôn luôn tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ, múa dân gian thường khơng có một cấu trúc ổn
định, hay nói cách khác, đó là cấu trúc mở. Do có cấu trúc mở, múa dân gian không ngừng được
bồi đắp và bổ sung những sáng tạo mới của các thế hệ tiếp theo với mục đích nhằm thoả mãn nhu
cầu văn hố của cộng đồng, khu vực, quốc gia. Những bồi đắp mới, bổ sung mới được dân chúng
chấp nhận, lưu giữ và sử dụng sẽ trở thành di sản của văn hoá dân tộc, đồng thời là cơ sở, nền
tảng cho những sáng tạo bổ sung của các thế hệ nối tiếp. Cấu trúc mở của múa dân gian là ln
sẵn sàng đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc một sự điều chỉnh mới cho hoàn chỉnh hơn. Do
những sáng tạo của múa dân gian mang tính tự nguyện, thâu nhận vào mình một cách tự nhiên, tự
nguyện, tự giác nên khác với múa chuyên nghiệp, múa dân gian không cần phải xác định “quyền tác
giả”. Tác giả của múa dân gian chính là số đông dân chúng, là nhiều vùng, nhiều thời đại.
Múa dân gian là một hình thái múa phổ biến trong nhân dân. Thông qua các diệu múa, chúng ta
thấy nó mang dấu ấn một cách sinh động cuộc sống lao động, chiến đấu, tình cảm, cách nghĩ và
những quan điểm thẩm mĩ của các cộng đồng, các tộc người, xuất phát từ những điều kiện địa lí, xã
hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc khác nhau. Sự khác nhau đó xét về một khía
cạnh nào đó cũng chính là sự thể hiện bản sắc riêng của từng dân tộc.
Múa dân gian được cách điệu từ cuộc sống lao động, sinh hoạt... của nhân dân. Trong kho tàng
múa dân gian Việt Nam mà cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được, chiếm số lượng lớn là các điệu
múa thể hiện trong lao động nơng nghiệp. Do đó, có thể nói, múa người Việt thể hiện cuộc sống của
các cư dân nơng nghiệp. Ví dụ như múa gặt lúa, múa chạy cày, múa xúc tép, múa soi đèn bắt cá,...
Múa dân gian do mô phỏng hiện thực nên mặc dù đã được cách điệu hố vẫn mang tới cho người
xem những thơng điệp sát thực. Điều này được thể hiện cả hai chiều. Chiều thứ nhất là tự thận điệu
múa được “tác giả dân gian” ghi nhận trong thực tế, từ đó sáng tạo nên. Chiều thứ hai là người thể
hiện (người trình bày điệu múa) cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố sáng tạo
cá nhân trong quá trình thể hiện cũng mang lại những tín hiệu chân thực và có sức hấp dẫn.
Ví dụ, khi quan sát điệu múa dệt vải. Đây là điệu múa dành cho nữ, vì thế, tính chất của điệu múa là
rất mềm mại, nhịp nhàng, nữ tính. Hai bước chân đối nhau, tiến lên đều đặn. Nhìn động tác này, nếu
ai biết chút ít về nghề dệt vải sẽ hình dung thấy hai chân cô gái như đang “đạp cửi” (bộ phận chuyển
sợi dọc của tấm vải). Hai tay mở ra, thu về trước bụng, đổi nhau trên dưới đều đặn, mắt nhìn gần
theo dõi hai bàn tay chuyển động. Người xem có thể nhận ra ngay hành ảnh cơ gái đang ngồi bên
khung cửi dệt vải với hai bàn tay nhịp nhàng đưa thoi. Có thể xem xét một ví dụ khác, đó là múa
chèo đị. Mặc dù múa tay khơng, nhưng ngưịi xem có thể cảm nhận được ngay khơng gian của
vùng sông nước. Với dáng người khi đổ về phía trước, khi ngả về phía sau, người xem có thể
tưởng tượng được hình ảnh của dịng sơng, mái chèo và con thuyền. Các tộc người ở khu vực Tây
Nguyên có động tác đánh chiêng cũng thể hiện rất rõ đặc điểm này. Cũng như động tác “chèo đị”,
khơng có đạo cụ, động tác “đánh chiêng” chỉ dùng tay không nhưng khi múa, người xem có thể hình
dung được ngay hình ảnh trong thực tế.
Một số diệu múa phản ánh cuộc sống lao động, mặc dù đã được cách điệu hố nhưng đều rất gần
với đời thực. Từ đó có thể nói rằng, tính hiện thực là một trong những đặc điểm của múa dân gian.
Như chúng tôi đã nêu ở trên, ở Đan Mạch, người ta đã sử dụng động tác giặt áo của phụ nữ để
sáng tạo nên một điệu múa dân gian. Nội dung, hình ảnh nhận biết trong các điệu múa dân gian đều
rất gần gũi với con người, nó thể hiện một cách sinh động tình yêu cuộc sống của họ đố với cuộc
sống lao động, với thiên nhiên...
Thơng qua hình ảnh các điệu múa dân gian có thể cho chúng ta những thơng tin về lịch sử, về địa lí,
về mơi trường sinh thái.
Việt Nam có nhiều sơng nổi tiếng như sơng Hồng (ở miền Bắc), sông Hương (ở miền Trung), sông
Cửu Long (ở miền Nam)... Ngồi ra cịn có rất nhiều con sơng khác được phân bố khắp nơi như:
sông Đáy, sông Mã, sơng Cả, sơng Gianh, sơng Đà Rằng,... Có lẽ, bắt nguồn từ đặc điểm địa lí Việt
Nam có nhiều sơng ngòi mà động tác múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến trong múa dân gian
của các dân tộc từ Bắc vào Nam. Những công việc lao động trên sông nước được bộc lộ ở những
thao tác và kĩ năng khác nhau. Vì thế, trong múa cũng biểu hiện ở những cường độ và tiết tấu khác
nhau.
ở một số nước châu Âu, mùa đông thường có băng, tuyết. Người dân đi lại trên đường đều tỏ ra vội
vã, khẩn trương. Có lẽ, họ di chuyển nhanh để tránh giá lạnh ngoài trời, nếu phải đứng ở đâu chờ
đợi ai, thường thì mọi người khơng chịu đứng im. Và, để cho cơ thể ấm nóng lên, họ đã liên tục dậm
chân xuống mặt đất. Họ dậm chân để cho tuyết rơi khỏi áo khoác, đồng thời để tránh rét. Đây là
hình ảnh quen thuộc đối với các nước xứ lạnh. Có lẽ, chỉ ở các nước băng giá người dân mới có
những động tác như vậy. Theo chúng tơi, đây là lí do khởi nguồn cho một số điệu múa dân gian
châu Âu.
Trong đời sống văn hố tâm linh của nhân dân có một loại múa đó là múa tín ngưỡng. Một số nhà
nghiên cứu gọi đó là múa tín ngưỡng dân gian. Loại múa này tương đối phổ biến ở nhiều tộc người.
Múa tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi lễ. Ví dụ, người Việt có múa tín ngưỡng hầu bóng, cịn
gọi là múa lên đồng. Đây cũng là một hình thái múa dân gian rất độc đáo. Loại múa này tồn tại, phát
triển trong quá trình hình thành tục thờ Mẫu và đạo Mẫu ở Việt Nam. Múa hầu bóng là một bộ phận
của chương trình lễ hội và nghi lễ đạo Mẫu. Nhìn từ góc độ ín ngưỡng thì động tác, điệu bộ của
người múa thể hiện tếng nói, ý nguyện của thánh thần. Nét độc đáo của múa hầu bóng đó là (theo
quan niệm dân gian) phần xác (ông đồng, bà đồng) là của con người, còn phần hồn là của thánh
thần. Điều này nói lên sức tưởng tượng của con người rất lớn. Con người và thánh thần có thể gần
gũi, hồ quyện với nhau. Đây là lí do làm cho các động tác múa trong hầu bóng trở nên phóng
khống và tự do hơn. Nếu nhìn từ góc độ nghệ thuật thì đây là yếu tố rất đặc biệt của múa hầu
bóng. Ơng đồng, bà đồng, ngồi những động tác múa mang tính quy ước cần phải thể hiện, cịn có
những động tác ngẫu nhiên xuất hiện ở thời điểm mà người ta gọi là nhập đồng (nhập hồn). Ông
đồng, bà đồng thoạt đầu ngồi trong tư thế tĩnh, tập trung cao, người ngồi có cảm giác họ qn hết
mọi sự vật xung quanh, chỉ còn tiếng đàn phách của cung văn và lời khấn tụng của con nhang, đệ
tử. Dần dần, ông đồng, bà cốt bắt đầu đảo vòng, xoay tròn từ thắt lưng trở lên. Từ vòng nhỏ đến
vòng to, từ tiết tấu chậm đến nhanh Âm nhạc, tiết tấu, lời ca càng dồn dập, thôi thúc, ông đồng, bà
đồng càng xoay, đảo mạnh, càng ngây ngất, say sưa. Họ hất khăn đội đầu ra và thời điểm đó được
gọi là nhập đồng (nhập hồn). Động tác múa lúc này khơng cịn giữ được quy cách, khn định như
ban đầu nữa. Tính ngẫu hứng được biểu hiện ở mức độ rất cao, có nghĩa là cùng một thời điểm,
con người vừa trình diễn, vừa sáng tạo. Như vậy, trong môi trường nghi lễ, trong “thời điểm mạnh”
cùng với sự tác động của khách quan (âm thanh, đàn, nhạc, khói hương và những người hầu đồng)
thì ơng đồng, bà đồng đã ngẫu hứng, sáng tạo mạnh hay nhẹ tuỳ theo cường độ, sắc thái, tiết tấu
trong thời điểm đó. Tất nhiên, yếu tố chính vẫn là năng lực cảm nhận và biểu hiện của ông đồng, bà
đồng. Như vậy, trong hoàn cảnh này, múa dân gian đã được đẩy lên ở một mức độ cao hơn.
Cấu trúc của múa hầu bóng thuộc loại múa đơn (solo). Đây là múa một người nhưng phải thể hiện
những nhân vật, những giá đồng khác nhau. Vì thế, nó địi hỏi ở người thể hiện phải có kĩ thuật, kĩ
xảo nhất định. Khác với múa dân gian trong lao động, trong sinh hoạt... loại múa hầu bóng khơng
phải ai cũng có thể múa được mà nó địi hỏi cần có một “năng khiếu”, một sự luyện tập tương đối
cơng phu, thậm chí phải có “căn đồng” mới có thể múa được. Ngồi lí do tín ngưỡng, múa hầu bóng
phải tạo ra sức hấp dẫn, thu hút mọi người. Sức hấp dẫn là một trong những chức năng của nghệ
thuật, do đó, có thể nói, múa hầu bóng cịn mang yếu tố biểu diễn. Múa hầu bóng có môi trường
hoạt động đặc biệt như chúng tôi đã phân tích ở trên. Nhìn từ góc độ chun mơn thì đây là điều
kiện khách quan để kích thích sự “thăng hoa” của người trình diễn.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đạo Mẫu, thờ Mẫu là một tục lệ đẹp của cộng đồng người Việt.
Không chỉ ở miền Bắc mà ở miền Trung và miền Nam cũng đều có thờ Mẫu.
Hiện nay, những hoạt động lễ hội tương đối phát triển, thu hút khá đông quần chúng nhân dân ở
khắp mọi nơi. Múa hầu bóng là một trong những sinh hoạt văn hố, tín ngưỡng khơng chỉ diễn ra
vào những dịp lễ hội mà cịn phát triển bên ngồi của lễ hội, do một số cá nhân tự tổ chức. Đây là
một hiện tượng múa dân gian rất độc đáo.
Ngoài múa hầu bóng của cộng đồng người Việt cịn có một số điệu múa trong nghi lễ của một số tộc
người như: người Mường có múa mỡi, múa mo, múa sắc bùa; người Tày có múa tung cịn trong hội
lồng tồng (xuống đồng), múa then, múa đi săn thú, múa chèo thuyền; người Thái có múa tín ngưỡng
kinpangthen; người Dao có múa trong lễ cấp sắc, hát múa đám cưới, đám tang, múa Tết nhảy (nhì
ang chằm đao); người Chăm có múa trong lễ hội Chà Và, múa trong lễ bóng, múa nhảy lửa, múa
gậy, múa roi; người Khơ me có múa thày cúng, múa trống lễ (trống xayăm) cúng trăng, múa dây
bơng (slatho) v.v..
Như phân tích ở phần trên, múa dân gian có một cấu trúc mở, nó khơng bất biến và ln thu nhận
những yếu tố mới vào mình. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều thế hệ, nó được bồi đắp, bổ sung
cho phù hợp và ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Đ ặ c Tr ư n g N g h ệ T h u ậ t M ú a
Tuấn Giang
1.Sự phát triển.
Nghệ thuật múa những năm đầu thế kỷ XXI, công chúng hâm mộ chủ yếu là múa
tạp kỹ, nhảy múa, múa ba lê, cịn khoảng cách. Ngơn ngữ múa biểu cảm có phần
trừu tượng hoặc phương pháp tạo hình động biến đổi nhanh, nhiều động tác ước lệ
chưa biểu cảm trực tiếp trong nhận biết số đông cơng chúng.
Những năm 1954, sau 1975 bình thường sử dụng khái niệm “vũ”, là từ Hán bao
gồm những biến thể nghệ thuật nhảy múa. Nhiều thuật ngữ Hán ảnh hưởng sâu
đậm trong đời sống xã hội và nghệ thuật văn hố Việt. Sau 1954 cịn sử dụng từ
Hán trong ngơn ngữ giao tiếp, nhưng đa số cơng chúng bình dân thường sử dụng
tiếng Việt gọi tên các đoàn nghệ thuật là: ban hát, đồn kịch… khơng sử dụng từ
Hán. Trong kháng chiến hai cách sử dụng ngôn ngữ cứ đan xen nhau, gọi là: đội
tuyên văn, đội tuyên truyền Việt Minh, đồn ca vũ… Năm 1951, Nhà nước chính
thức cơng nhận thuật ngữ ‘đồn văn cơng” khi Bộ Văn hố ra quyết định thành lập
đoàn nghệ thuật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gọi là:
Đoàn [1]Văn công Nhân dân Trung ương, đến năm 1954 đổi thành Đoàn Ca vũ
Nhân dân Trung ương lại thêm từ Hán (vũ) thay cho từ múa. Sau đó, Đồn Ca vũ
đổi thành Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương.
Khái niệm ca múa phổ biến trong ngôn ngữ đại chúng và văn bản Nhà nước.
Những thay đổi ấy như bước thăng trầm định mệnh, múa cịn bỡ ngỡ trước cơng
chúng, trải nhiều thập kỷ múa dần phổ biến được số đông đón nhận, xem là nét
sinh hoạt văn hố. Nhảy múa là nghệ thuạt cổ xưa, ra đời cùng loại hình âm nhạc
trong bầy người nguyên thuỷ cách đây 3000 * năm trước công nguyên với đặc
trưng biểu cảm trực tiếp niềm vui, sự chiến thắng, kết quả săn bắt thú… bằng động
tác biểu cảm các hoạt động đời sống con người. Múa là nghệ thuật tạo hình khơng
gian động, lấy con [2][3]người và đạo cụ làm ngôn ngữ ước lệ, tái hiện các hoạt động
đời sống xã hội. Nghệ thuật nhảy múa ngun thuỷ mang tính tơn giáo - ma thuật,
chưa tách khỏi nghi lễ tâm linh. Vào thế kỷ thứ I năm 96 1 sau cơng ngun, lồi
người phát triển nẩy sinh các thứ bậc xã hội, múa phân hoá biến đổi thành nhảy
múa sinh hoạt dân dã, múa nghi lễ mang tính chuyên nghiệp trong các tu viện, nhà
thờ châu Âu. Khoảng năm 476 2 , kết thúc chế độ chiếm hữu nô lệ mở ra chế độ
phong kiến châu Âu kéo dài đến năm 1640 3 , đây là thời kỳ phát triển múa chuyên
nghiệp, hình thành vũ công, đội múa trong các nhà quý tộc, phong kiến. Múa
chuyên nghiệp chia thành nhảy múa tạp kỹ, múa ba lê.
Múa tạp kỹ là tiết mục nhảy múa riêng, dựa trên chất liệu múa dân gian hoặc hiện
đại cấu thành điệu nhảy mang nội dung cốt truyện, một cảnh múa, diễn trong
chương trình ca múa tổng hợp nghệ thuật tạp kỹ.
Múa ba lê (Balette) ra đời thế kỷ XVII (năm 1661)*, từ múa cung đình Pháp, phát
triển sang Ý, Nga… là nghệ thuật tổng hợp đỉnh cao tạo hình múa. Múa ba lê, cấu
trúc tác phẩm bằng các nhân tố: kịch bản văn học, âm nhạc, nhảy múa đích thực
nghệ thuật tạo hình múa. Múa ba lê, cấu trúc nhiều loại nhảy múa: sô lô, tam tứ,
nhảy múa tập thể – màn ba lê tạo hình. Cấu trúc vở múa ba lê sử dụng ba thành
phần: Nhảy múa ba lê, múa điệu bộ ước lệ tượng trưng, nhảy múa giải trí.
Múa ba lê, tạo dựng hình tượng biểu cảm nội dung tình cảm tư tưởng kịch bản
múa.
Múa điệu bộ, nhảy múa mang tính diễn xuất tái hiện lại những động tác biểu đạt
tình cảm nhân vật, miêu tả tình huống hồn cảnh theo sát nội dung kịch bản múa.
Nhảy múa giải trí, khơng phát triển hành động kịch múa, là những tiết mục riêng
diễn tả tính cách, trạng thái tình cảm nhân vật, hoặc tạo khơng khí vũ hội, xây dựng
mơi trường sống các nhân vật kịch múa.
Những điệu nhảy ra đời năm 570 sau công nguyên ở Tây Ban Nha lan truyền sang
Achentina, Áo, Mỹ… đến thời đại xã hội công nghiệp 1919, chia thành bốn loại:
múa dân gian, múa tạp kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa sinh hoạt đại chúng ra đời
cùng nhạc rock…
Những năm cuối thế kỷ XX, xuất hiện nhảy múa thể thao, kết hợp con người, đạo
cụ làm ngôn ngữ biểu cảm thẩm mỹ. Nhảy múa thể thao thay đổi căn bản ngôn ngữ
nghệ thuật là các đạo cụ: cái vịng, rải lụa, chiếc khăn, đơi giầy ba tanh, dụng cụ
nhào lộn trên không, vũ điệu dưới nước bơi tạo hình… Ngồi ra cịn múa do động
vật trình diễn trong rạp xiếc, bằng những động tác tự nhiên nhào lộn, nhảy theo
điệu nhạc trữ tình, hài hước… mang tính mỹ học, một tinh thần trí tuệ mà cơng
chúng khâm phục hào hứng. Múa đồ vật, là nghệ thuật tung hứng, uốn dẻo tạo hình
nhào lộn trên thang, dây dọc… là những sáng tạo ngơn ngữ múa hiện đại. Ba hình
thức múa mới được công nhận bởi nằm trong cấu trúc loại hình nghệ thuật khơng
thời gian, diễn cảm trực tiếp bằng tạo hình trừu tượng, khơng miêu tả trong cấu
trúc tác phẩm.
Quá trình phát triển nhảy múa cấu thành các thể loại: múa dân gian, nhảy múa tạp
kỹ, kịch múa ba lê, nhảy múa thể thao, nhảy múa đại chúng có hàng chục loại biến
tướng khác nhau rock – rap, rock, hard rock, pop rock, rock heavy me tal, rock &
roll, rock dance… nhảy múa động vật, nhảy múa đồ vật. Những hình thức nhảy
múa mới ra đời là sự lớn mạnh nghệ thuật múa, đáp ứng mọi đối tượng khán giả
mang tính đại chúng.
2.Đặc trưng nghệ thuật múa.
Múa thời hiện đại, hậu hiện đại nhiều thể loại đan xen hồ nhập vào các loại hình
nghệ thuật khơng - thời gian đầy biểu cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật nhảy múa mang
đặc trưng ngơn ngữ tạo hình biểu cảm trực tiếp trong cấu trúc tác phẩm, bằng
những quy phạm chuyển động ngơn ngữ nghệ thuật.
Những hình thức cấu trúc tác phẩm múa tạp kỹ, là các điệu múa đơn lẻ thường bố
cục thể một đoạn, hai đoạn hoặc ba đoạn. Nguyên tắc phát triển ngôn ngữ múa
thường lấy chất liệu dân gian hoặc những động tác múa hiện đại phương Tây, xây
dựng chủ đề, phát triển có nhắc lại hoặc biến hoá. Xem một điệu múa ngắn thường
thấy đoạn A, các thủ pháp phát triển ngơn ngữ tạo hình nhắc lại và kết thúc. Loại
dài có thể cấu trúc hai đoạn A – B, A – B - A’ , hoặc A – B – C. Múa sử dụng động
tác ước lệ diễn tả bằng các loại chuyển động đội hình: vòng cung, hàng dọc, hàng
ngang, vòng tròn, chữ V và các biến thể của những quy ước trên làm phong phú kỹ
thuật tạo hình múa. Những động tác múa khơng bắt chước hiện thực cuộc sống,
thường mơ tả hình tượng diễn biến nội tâm con người, nhân vật múa bằng động tác
ước lệ tạo hình. Múa là nghệ thuật diễn viên gần với sân khấu, nhưng phản ánh quy
luật tình cảm con người bằng động tác biểu cảm. Mỗi dân tộc, tác giả có những
quy ước riêng, khi sáng tác động tác múa sắp xếp thành hệ thống động tác chuyển
động trong câu múa biểu đạt một ý tưởng. Nhiều câu múa liên kết thành tác phẩm
có chủ đề, ý tưởng diễn tả cao trào, tính kịch và kết thúc. Những động tác ước lệ
múa biểu cảm của các dân tộc: múa xoè, múa sạp Thái, nhiều người đã biết, nhảy
múa tồn thân, đơi tay chuyển động cùng những bước nhảy biểu hiện niềm vui rộn
ràng. Múa Then Tày Nùng, ngơn ngữ động tác chuyển động nửa thân phía trên làm
chủ đạo. Luật chuyển động đôi cánh tay, vai và ngực tạo tuyến gấp khúc thành
đường vòng cung, cổ tay nhấn nẩy biểu cảm mạnh, diễn tả tính ma thuật, huyền bí.
Nhìn vào đơi mắt nét mặt bà Then sẽ thấy cái âm u trầm cảm, khi bùng phát bất
ngờ, lúc trầm tư như đang đối thoại với thần quyền tà ma… Múa cổ điển đồng bào
Khơ me Nam Bộ, ước lệ động tác bất biến chào khán giả, tay trái ngửa ngang
ngực, tay phải giơ ra phía trước. Động tác chém cá sấu: hai tay cuộn ngửa, tay trái
co, tay phải vươn ra chặt xuống. Khi khóc: hai tay khoanh lại, buồn tay chống
cằm… Muốn hiểu múa phải theo dõi liên tục hệ thống động tác chuyển động, quan
sát nét mặt, đôi mắt diễn viên là hệ thống biểu cảm nghệ thuật nghe nhìn tổng hợp.
Múa có nhiều loại hình ngơn ngữ khác nhau nhưng đặc trưng là:
- Nghệ thuật tạo hình khơng gian động, ngơn ngữ ước lệ biểu cảm trực tiếp.
- Cấu trúc động tác trừu tượng tạo hình tượng, cảm xúc thẩm mỹ.
- Là loại hình nghệ thuật khơng thời gian, nghe nhìn tổng hợp.
Múa phát triển trong đời sống xã hội cổ xưa đến thời đại cơng nghệ, hình thành bẩy
thể loại, mỗi thể loại ngơn ngữ biểu cảm riêng, cần nhận biết ba hình thức cơ bản.
Nhảy múa sinh hoạt vũ hội đại chúng mang lại niềm vui, thoả mãn người nhảy
múa. Nhảy múa chuyên nghiệp, trình diễn trên sân khấu là nghệ thuật tạo hình
chuyển động theo thời gian, vận động biến đổi biểu cảm trực tiếp nội tâm con
người, thể hiên đời sống xã hội, đáp ứng công chúng. Nhảy múa tâm linh là nghệ
thuật nghi lễ, không để công chúng xem mà mang lại chân ngã thượng thức./.
Hà Nội tháng 9 năm 2010.
* Theo Lịch sử phật giáo.
1.2.3 Theo trang 3 Lịch sử thế giới trung đại – NXB Giáo dục 2003.
* Theo Phạm Ngọc Chi trang 128 - Âm nhạc và múa thế giới – NXB Thế giới –
2002.
Một số đặc điểm của múa dân gian
•
ỨNG DUY THỊNH
•
Thứ ba, 08 Tháng 4 2014 16:44
•
font size
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những điệu múa dân gian của dân tộc
mình. Các dân tộc Việt Nam đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng nghệ thuật múa
quý giá. Nhìn từ góc độ nghệ thuật múa, có thể nói di sản múa dân gian là cơ sở
tiêu biểu xác định bản sắc múa của mỗi tộc người. Trong một xã hội hiện đại, khoa
học kĩ thuật phát triển, di sản múa dân gian đối với sự phát triển của ngành múa
chuyện nghiệp Việt Nam trở nên rất quan trọng. Muốn đổi mới, cách tân thì cần
phải nghiên cứu, xác định và hiểu đâu là giá trị đích thực cần phải kế thừa. Nói
cách khác, cần phải tìm ra hằng số giá trị của múa dân gian.
Quan sát, nghiên cứu các điệu múa dân gian, chúng ta có thể nhận biết được thái
độ, ý thức, thẩm mĩ trong lao động của người xưa. Những hình ảnh trong chiến
đấu, trong lao động sản xuất, trong các mối quan hệ xã hội, trong phong tục tập
quán, trong đời sống tâm linh... được thể hiện trong múa dân gian có vị trí và ý
nghĩa quan trọng trong đời sống văn hoá của các tộc người. Múa dân gian biểu
hiện tri thức văn hoá của quần chúng nhân dân, biểu hiện bản chất múa của văn
hoá dân tộc. Múa dân gian phản ánh sức sáng tạo, tài năng của nhân dân.
Ngoài ra, múa dân gian cịn có tác dụng thiết thực đối với tình cảm và đời sống của
con người. Múa dân gian được thể hiện trong các lễ thức (múa tín ngưỡng). Những
động tác biểu hiện thế giới tâm linh của con người (cầu mong sự che chở, phù hộ
của các đấng thần linh, trời, Phật... ). Ngoài ra, từ thuở xa xưa, qua các điệu múa,
người dân còn muốn truyền lại các kinh nghiệm lao động sản xuất, săn bắt... Múa
dân gian còn thể hiện những hành vi ứng xử của con người, tạo môi trường không
gian để con người đến với nhau. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong sinh hoạt văn
hoá dân gian ở làng, bản như xoè vòng của dân tộc Thái, xoè chiêng của dân tộc
Tày. Hoặc có thể lấy ví dụ rõ hơn như múa lăm vơng của người Lào. Có những
điệu múa dân gian cũng mang ý nghĩa đạo đức nhưng được thể hiện ở góc độ khác
nhau. Ví dụ một số điệu múa dân gian như múa dô (gắn với tục thờ Tản Viên), múa
dậm (gắn với tục thờ Lý Thường Kiệt), múa cờ lau tập trận (trong hội Hoa Lư),
múa chèo tàu (gắn với tục thờ các tướng của Hai Bà Trưng), hay là múa dân gian
trong hội đền Hùng, hội Gióng (gắn với tục thờ Phù Đổng Thiên Vương). Những
điệu múa đó tuy đơn giản, phức tạp khác nhau, mức độ, quy mô khác nhau tuỳ theo
điều kiện của từng địa phương, từng cộng đồng người... những đều thể hiện tình
cảm của con người, đồng thời qua đó phản ánh những giá trị đạo đức cổ truyền của
nhân dân. Đó là lịng tơn kính và biết ơn với các anh hùng dân tộc. Những giá trị
đó được lưu giữ và tồn tại có tính bền vững trong dân chúng. Bài học đạo đức được
thể hiện qua múa dân gian có ý nghĩa giáo dục đối với các thế hệ; đó là lịng u
nước, cuộc sống tình nghĩa, tình u q hương, thiên nhiên...
Nếu như so sánh múa dân gian người Việt nói chung với múa dân gian của các
nước khác, như múa dân gian Nga chẳng hạn, chỉ nghiên cứu riêng về “cường độ”
(độ mạnh, nhẹ), tiết tấu (nhanh, chậm) đã có sự khác nhau cơ bản. Đa số các bước
chân của múa dân gian dân tộc Việt đều bước đi rất nhẹ nhàng. Có nhà nghiên cứu
cho rằng, do người Việt chủ yếu là cư dân nông nghiệp sống ở đồng bằng, địa hình
bằng phẳng, có thói quen đi chân đất, thích một cuộc sống hiền lành, êm đềm... Vì
thế, phong cách sống của họ đã ảnh hưởng đến bước đi trong múa. Ngược lại, dân
tộc Nga ở xứ lạnh, đương nhiên không ai đi chân không trên tuyết. Đôi giày đối
với họ hết sức quan trọng. Vào mùa đông, đi từ nơi khác về đến trước cửa nhà ,
mọi người đều có thói quen dẫm thật mạnh nhiều lần trên bậc cửa cho tuyết rơi
xuống đất. Thói quen đó đã được đưa vào múa dân gian. Nhiều điệu múa dân gian
Nga, từ đầu cho đến cuối tác phẩm, mơtip chính chỉ là động tác dậm chân. Những
động tác đó được thể hiện ở những cường độ, tiết tấu khác nhau, tạo nên sức hấp
dẫn khác nhau. Nếu so sánh về tiết tấu, nhịp độ thì múa Nga nhanh và mạnh hơn
hẳn múa Việt. Nhanh và chậm đó cũng là biểu hiện sắc thái, tình cảm, thẩm mĩ rất
quan trọng trong nghệ thuật múa, bản sắc dân tộc của múa.
Qua ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng, một trong những đặc điểm của múa dân gian
của người Việt là tính chất nhẹ nhàng, uyển chuyển, chậm rãi.
Do ln luôn tồn tại và phát triển qua nhiều thế hệ, múa dân gian thường khơng có
một cấu trúc ổn định, hay nói cách khác, đó là cấu trúc mở. Do có cấu trúc mở,
múa dân gian khơng ngừng được bồi đắp và bổ sung những sáng tạo mới của các
thế hệ tiếp theo với mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu văn hoá của cộng đồng, khu
vực, quốc gia. Những bồi đắp mới, bổ sung mới được dân chúng chấp nhận, lưu
giữ và sử dụng sẽ trở thành di sản của văn hoá dân tộc, đồng thời là cơ sở, nền tảng
cho những sáng tạo bổ sung của các thế hệ nối tiếp. Cấu trúc mở của múa dân gian
là luôn sẵn sàng đón nhận những sáng tạo, bổ sung hoặc một sự điều chỉnh mới
cho hoàn chỉnh hơn. Do những sáng tạo của múa dân gian mang tính tự nguyện,
thâu nhận vào mình một cách tự nhiên, tự nguyện, tự giác nên khác với múa
chuyên nghiệp, múa dân gian không cần phải xác định “quyền tác giả”. Tác giả của
múa dân gian chính là số đơng dân chúng, là nhiều vùng, nhiều thời đại.
Múa dân gian là một hình thái múa phổ biến trong nhân dân. Thông qua các diệu
múa, chúng ta thấy nó mang dấu ấn một cách sinh động cuộc sống lao động, chiến
đấu, tình cảm, cách nghĩ và những quan điểm thẩm mĩ của các cộng đồng, các tộc
người, xuất phát từ những điều kiện địa lí, xã hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng
của các dân tộc khác nhau. Sự khác nhau đó xét về một khía cạnh nào đó cũng
chính là sự thể hiện bản sắc riêng của từng dân tộc.
Múa dân gian được cách điệu từ cuộc sống lao động, sinh hoạt... của nhân dân.
Trong kho tàng múa dân gian Việt Nam mà cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được,
chiếm số lượng lớn là các điệu múa thể hiện trong lao động nơng nghiệp. Do đó, có
thể nói, múa người Việt thể hiện cuộc sống của các cư dân nơng nghiệp. Ví dụ như
múa gặt lúa, múa chạy cày, múa xúc tép, múa soi đèn bắt cá,...
Múa dân gian do mô phỏng hiện thực nên mặc dù đã được cách điệu hoá vẫn mang
tới cho người xem những thông điệp sát thực. Điều này được thể hiện cả hai chiều.
Chiều thứ nhất là tự thận điệu múa được “tác giả dân gian” ghi nhận trong thực tế,
từ đó sáng tạo nên. Chiều thứ hai là người thể hiện (người trình bày điệu múa)
cũng hết sức cố gắng bắt chước hiện thực cộng với yếu tố sáng tạo cá nhân trong
quá trình thể hiện cũng mang lại những tín hiệu chân thực và có sức hấp dẫn.
Ví dụ, khi quan sát điệu múa dệt vải. Đây là điệu múa dành cho nữ, vì thế, tính
chất của điệu múa là rất mềm mại, nhịp nhàng, nữ tính. Hai bước chân đối nhau,
tiến lên đều đặn. Nhìn động tác này, nếu ai biết chút ít về nghề dệt vải sẽ hình dung
thấy hai chân cơ gái như đang “đạp cửi” (bộ phận chuyển sợi dọc của tấm vải). Hai
tay mở ra, thu về trước bụng, đổi nhau trên dưới đều đặn, mắt nhìn gần theo dõi hai
bàn tay chuyển động. Người xem có thể nhận ra ngay hành ảnh cô gái đang ngồi
bên khung cửi dệt vải với hai bàn tay nhịp nhàng đưa thoi. Có thể xem xét một ví
dụ khác, đó là múa chèo đị. Mặc dù múa tay khơng, nhưng ngưịi xem có thể cảm
nhận được ngay không gian của vùng sông nước. Với dáng người khi đổ về phía
trước, khi ngả về phía sau, người xem có thể tưởng tượng được hình ảnh của dịng
sơng, mái chèo và con thuyền. Các tộc người ở khu vực Tây Nguyên có động tác
đánh chiêng cũng thể hiện rất rõ đặc điểm này. Cũng như động tác “chèo đị”,
khơng có đạo cụ, động tác “đánh chiêng” chỉ dùng tay khơng nhưng khi múa,
người xem có thể hình dung được ngay hình ảnh trong thực tế.
Một số diệu múa phản ánh cuộc sống lao động, mặc dù đã được cách điệu hoá
nhưng đều rất gần với đời thực. Từ đó có thể nói rằng, tính hiện thực là một trong
những
đặc
điểm
của
múa
dân
gian.
Như chúng tôi đã nêu ở trên, ở Đan Mạch, người ta đã sử dụng động tác giặt áo của
phụ nữ để sáng tạo nên một điệu múa dân gian. Nội dung, hình ảnh nhận biết trong
các điệu múa dân gian đều rất gần gũi với con người, nó thể hiện một cách sinh
động tình u cuộc sống của họ đố với cuộc sống lao động, với thiên nhiên...
Thơng qua hình ảnh các điệu múa dân gian có thể cho chúng ta những thơng tin về
lịch
sử,
về
địa
lí,
về
mơi
trường
sinh
thái.
Việt Nam có nhiều sơng nổi tiếng như sơng Hồng (ở miền Bắc), sông Hương (ở
miền Trung), sông Cửu Long (ở miền Nam)... Ngồi ra cịn có rất nhiều con sơng
khác được phân bố khắp nơi như: sông Đáy, sông Mã, sông Cả, sơng Gianh, sơng
Đà Rằng,... Có lẽ, bắt nguồn từ đặc điểm địa lí Việt Nam có nhiều sơng ngịi mà
động tác múa “chèo thuyền” trở nên rất phổ biến trong múa dân gian của các dân
tộc từ Bắc vào Nam. Những công việc lao động trên sông nước được bộc lộ ở
những thao tác và kĩ năng khác nhau. Vì thế, trong múa cũng biểu hiện ở những
cường
độ
và
tiết
tấu
khác
nhau.
Ở một số nước châu Âu, mùa đơng thường có băng, tuyết. Người dân đi lại trên
đường đều tỏ ra vội vã, khẩn trương. Có lẽ, họ di chuyển nhanh để tránh giá lạnh
ngoài trời, nếu phải đứng ở đâu chờ đợi ai, thường thì mọi người khơng chịu đứng
im. Và, để cho cơ thể ấm nóng lên, họ đã liên tục dậm chân xuống mặt đất. Họ dậm
chân để cho tuyết rơi khỏi áo khoác, đồng thời để tránh rét. Đây là hình ảnh quen
thuộc đối với các nước xứ lạnh. Có lẽ, chỉ ở các nước băng giá người dân mới có
những động tác như vậy. Theo chúng tơi, đây là lí do khởi nguồn cho một số điệu
múa
dân
gian
châu
Âu.
Trong đời sống văn hố tâm linh của nhân dân có một loại múa đó là múa tín
ngưỡng. Một số nhà nghiên cứu gọi đó là múa tín ngưỡng dân gian. Loại múa này
tương đối phổ biến ở nhiều tộc người. Múa tín ngưỡng thể hiện cho các loại nghi
lễ. Ví dụ, người Việt có múa tín ngưỡng hầu bóng, cịn gọi là múa lên đồng. Đây
cũng là một hình thái múa dân gian rất độc đáo. Loại múa này tồn tại, phát triển
trong quá trình hình thành tục thờ Mẫu và đạo Mẫu ở Việt Nam. Múa hầu bóng là
một bộ phận của chương trình lễ hội và nghi lễ đạo Mẫu. Nhìn từ góc độ ín ngưỡng
thì động tác, điệu bộ của người múa thể hiện tếng nói, ý nguyện của thánh thần.
Nét độc đáo của múa hầu bóng đó là (theo quan niệm dân gian) phần xác (ông
đồng, bà đồng) là của con người, còn phần hồn là của thánh thần. Điều này nói lên
sức tưởng tượng của con người rất lớn. Con người và thánh thần có thể gần gũi,
hồ quyện với nhau. Đây là lí do làm cho các động tác múa trong hầu bóng trở nên
phóng khống và tự do hơn. Nếu nhìn từ góc độ nghệ thuật thì đây là yếu tố rất đặc
biệt của múa hầu bóng. Ơng đồng, bà đồng, ngồi những động tác múa mang tính
quy ước cần phải thể hiện, cịn có những động tác ngẫu nhiên xuất hiện ở thời điểm
mà người ta gọi là nhập đồng (nhập hồn). Ông đồng, bà đồng thoạt đầu ngồi trong
tư thế tĩnh, tập trung cao, người ngồi có cảm giác họ qn hết mọi sự vật xung
quanh, chỉ còn tiếng đàn phách của cung văn và lời khấn tụng của con nhang, đệ
tử. Dần dần, ơng đồng, bà cốt bắt đầu đảo vịng, xoay tròn từ thắt lưng trở lên. Từ
vòng nhỏ đến vòng to, từ tiết tấu chậm đến nhanh Âm nhạc, tiết tấu, lời ca càng
dồn dập, thôi thúc, ông đồng, bà đồng càng xoay, đảo mạnh, càng ngây ngất, say
sưa. Họ hất khăn đội đầu ra và thời điểm đó được gọi là nhập đồng (nhập hồn).
Động tác múa lúc này khơng cịn giữ được quy cách, khn định như ban đầu nữa.
Tính ngẫu hứng được biểu hiện ở mức độ rất cao, có nghĩa là cùng một thời điểm,
con người vừa trình diễn, vừa sáng tạo. Như vậy, trong mơi trường nghi lễ, trong
“thời điểm mạnh” cùng với sự tác động của khách quan (âm thanh, đàn, nhạc, khói
hương và những người hầu đồng) thì ơng đồng, bà đồng đã ngẫu hứng, sáng tạo
mạnh hay nhẹ tuỳ theo cường độ, sắc thái, tiết tấu trong thời điểm đó. Tất nhiên,
yếu tố chính vẫn là năng lực cảm nhận và biểu hiện của ơng đồng, bà đồng. Như
vậy, trong hồn cảnh này, múa dân gian đã được đẩy lên ở một mức độ cao hơn.
Cấu trúc của múa hầu bóng thuộc loại múa đơn (solo). Đây là múa một người
nhưng phải thể hiện những nhân vật, những giá đồng khác nhau. Vì thế, nó địi hỏi
ở người thể hiện phải có kĩ thuật, kĩ xảo nhất định. Khác với múa dân gian trong
lao động, trong sinh hoạt... loại múa hầu bóng khơng phải ai cũng có thể múa được
mà nó địi hỏi cần có một “năng khiếu”, một sự luyện tập tương đối cơng phu,
thậm chí phải có “căn đồng” mới có thể múa được. Ngồi lí do tín ngưỡng, múa
hầu bóng phải tạo ra sức hấp dẫn, thu hút mọi người. Sức hấp dẫn là một trong
những chức năng của nghệ thuật, do đó, có thể nói, múa hầu bóng cịn mang yếu tố
biểu diễn. Múa hầu bóng có mơi trường hoạt động đặc biệt như chúng tơi đã phân
tích ở trên. Nhìn từ góc độ chun mơn thì đây là điều kiện khách quan để kích
thích
sự
“thăng
hoa”
của
người
trình
diễn.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đạo Mẫu, thờ Mẫu là một tục lệ đẹp của cộng
đồng người Việt. Không chỉ ở miền Bắc mà ở miền Trung và miền Nam cũng đều
có
thờ
Mẫu.
Hiện nay, những hoạt động lễ hội tương đối phát triển, thu hút khá đông quần
chúng nhân dân ở khắp mọi nơi. Múa hầu bóng là một trong những sinh hoạt văn
hố, tín ngưỡng khơng chỉ diễn ra vào những dịp lễ hội mà cịn phát triển bên
ngồi của lễ hội, do một số cá nhân tự tổ chức. Đây là một hiện tượng múa dân
gian
rất
độc
đáo.
Ngồi múa hầu bóng của cộng đồng người Việt cịn có một số điệu múa trong nghi
lễ của một số tộc người như: người Mường có múa mỡi, múa mo, múa sắc bùa;
người Tày có múa tung còn trong hội lồng tồng (xuống đồng), múa then, múa đi
săn thú, múa chèo thuyền; người Thái có múa tín ngưỡng kinpangthen; người Dao
có múa trong lễ cấp sắc, hát múa đám cưới, đám tang, múa Tết nhảy (nhì ang chằm
đao); người Chăm có múa trong lễ hội Chà Và, múa trong lễ bóng, múa nhảy lửa,
múa gậy, múa roi; người Khơ me có múa thày cúng, múa trống lễ (trống xayăm)
cúng
trăng,
múa
dây
bơng
(slatho)
v.v..
Như phân tích ở phần trên, múa dân gian có một cấu trúc mở, nó khơng bất biến và
ln thu nhận những yếu tố mới vào mình. Trong tiến trình lịch sử, qua nhiều thế
hệ, nó được bồi đắp, bổ sung cho phù hợp và ngày càng hồn chỉnh hơn.
Nguồn: />Giáo trình:
- Khái luận nghệ thuật múa (Lê Ngọc Canh)
- Phương pháp sáng tác múa (Đặng Hùng)
- Múa dân gian các dân tộc Việt Nam (Lâm Tô Lộc)
- Múa dân gian Bắc Bộ (Phạm Thị Điền)
- Múa tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Lê Ngọc Canh)
- Tạp chí “Nhịp Điệu” – cơ quan ngơn luận của Hội nghệ sĩ múa Việt Nam
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC NGHỆ THUẬT MÚA
I. Khái niệm
- Trong “Bách khoa toàn thư” của Mỹ đầu thế kỷ II: Múa - đó là những động tác
có tiết tấu của cơ thể hoặc là của một phần cơ thể được thực hiện với mục đích để
phản ánh những cảm xúc hoặc phục vụ như là phương tiện biểu hiện những cảm
xúc tôn giáo, như một phương tiện để truyền đạt những tư tưởng của xã hội này
hoặc xã hội khác.
- Trong “Đại bách khoa tồn thư” của Liên Xơ: Múa là một nghệ thuật phản ánh
cuộc sống bằng hình thức đặc biệt của nó. Cơ sở của múa là những điệu bộ, động
tác có quan hệ đến quá trình lao động, sự quan sát thiên nhiên và những ấn tượng
có được từ thế giới xung quanh, những động tác đó được cách điệu hóa nghệ thuật.
- Nhà nghiên cứu người Nga Karalôva: Múa - là loại hình nghệ thuật của khơng
gian và thời gian, những hình tượng nghệ thuật của nó được tạo thành bởi những
phương pháp của động tác và tư thế, được phối hợp có hệ thống với các tiết tấu và
mang giá trị thẩm mỹ.
II. Nguồn gốc của nghệ thuật múa
2.1. Các truyền thuyết, thần thoại về nghệ thuật múa
2.1.1. Truyền thuyết của thần thoại Hy Lạp về nghệ thuật múa
- Thần Apôlông:
+ Cha: thần Dớt
+ Mẹ: thần Lêtô
+ Người em gái sinh đơi: thần săn bắn Atêmít
+ Được thần Dớt cho đàn Lia, cung tên, ngựa xe kéo
2.1.2. Truyền thuyết của thần thoại Ấn Độ về nghệ thuật múa
- Thần Xiva sáng tạo ra nghệ thuật múa. Thần có 3 mắt tượng trưng cho 3 tầng thế
giới (trần gian, âm phủ, thiên đình). Thần khốc áo da hổ, cổ quấn rắn, đứng trong
một vịng rực lửa…
- Có tầng lớp chun biểu diễn múa tại các đền, đài, miếu, mạo (Đêvalasi)
+ Bé gái nghi lễ đặt vòng hoavợ của thần sống trong đền đài ,vai trò của Đêvalasi
được coi trọng như tầng lớp tăng lữ (người ca hát)
+ Đêvalas:
. Được tham gia nghi lễ (đóng vai trị quan trọng).
. Được lựa chọn chồng (không quan hệ).
. Rèn luyện qua 7 năm.
+ Đặc điểm của người múa Ấn Độ: thân người thẳng, vai bằng, thế chân luôn
vững.
2.1.3. Truyền thuyết của thần thoại Việt Nam về nghệ thuật múa
- Truyền thuyết của người Mông:
- Truyền thuyết của người Chăm:
- Truyền thuyết của người Tày: Siênkăn ngủ mơ →…đàn bầu (tóc tiên, tay tiên, hạt
bầu)
2.2. Các học thuyết về nguồn gốc nghệ thuật múa
2.2.1. Học thuyết bản năng sinh vật-bắt chước, du hý, khoái cảm
- Các nhà nghiên cứu nghệ thuật phương Tây cho rằng múa là bản năng sinh vật
của con người, đó là khả năng bắt chước mọi hiện tượng trong cuộc sống
+ Kant (học giả người Đức) xác định rằng nghệ thuật múa là bắt nguồn từ sự du hý
(đó là vui chơi). Do ý nghĩ thử chơi bắt chước đó mà náy sinh ra múa. Như vậy
múa bắt nguồn từ thời ngun thủy, nó độc lập khơng liên quan đến lao động sản
xuất.
III. Sự hình thành nghệ thuật múa
3.1. Điều kiện xã hội
…
3.2. Điều kiện tự nhiên
…
CHƯƠNG II: CÁC HÌNH THÁI NGHỆ THUẬT MÚA
I. Hình thái múa dân gian
1.1. Khái niệm
- Gs,Ts Lâm Tô Lộc: Múa dân gian là một hình thái múa dân tộc do nhân dân, chủ
yếu là nơng dân sáng tạo theo phương thức: đầu tiên có một người khởi thảo, sau
đó những người khác qua nhiều thế hệ kế tục cơng việc hồn chỉnh điệu múa ấy,
bởi vậy nó chưa có một cấu trúc nghệ thuật ổn định ngay từ đầu mà được lưu
truyền qua nhiều thế hệ để tiếp tục sự sáng tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của
một cộng đồng.
1.2. Một số phương pháp phân loại múa dân gian
- Múa sinh hoạt dân gian
- Múa biểu diễn dân gian
(Múa biểu diễn dân gian là Múa sinh hoạt dân gian được nâng cao lên, mang tính
bán chuyên nghiệp)
1.3. Đặc điểm của hình thái múa dân gian
- Tên của điệu múa dân gian:
+ Thường gắn với tên của địa phương, của đạo cụ, của tộc người
+ Khuyết danh
- Chủ thể sáng tạo: người dân lao động
- Khách thể sáng tạo: người dân lao động
→ Các điệu múa mang màu sắc cuộc sống sinh hoạt; thể hiện tâm tư, tình cảm của
nhân dân; khơng đặt ra nhiều chuẩn mực.
- Múa dân gian mang tính đơn giản trong:
+ Trang phục: phong phú, không quy định chặt chẽ
+ Đạo cụ: gắn với đời sống nhân dân (tre, trúc)
+ Âm nhạc: thường là nhạc cụ truyền thống của dân tộc đó
+ Hình thức: thường là múa tập thể với những động tác đơn giản, kết cấu ngắn,
nhịp chẵn 2/4, động tác múa ngắn gọn
→ Đội hình mang tính đồng đều, tơn lên vẻ đẹp của động tác-đội hình hang ngang
và vòng tròn - rất cơ động
→ Múa thường kết hợp với hát, mang tính dị bản.
II. Hình thái múa tín ngưỡng tơn giáo
2.1. Khái niệm
- Múa tín ngưỡng tơn giáo là một hình thái múa dân tộc phục vụ cho tôn giáo dưới
dạng những lễ thức hoặc mang nội dung tôn giáo do những người làm nghề tôn
giáo hoặc giáo dân biểu diễn
2.2. Vài nét về sự hình thành tín ngưỡng và múa tôn giáo
2.3. Đặc điểm và các loại múa tín ngưỡng tơn giáo
- Sự chế định của kỉ luật, kỉ cương
+ Trang phục: khắt khe
+ Động tác: được luyện tập, quy định khắt khe
+ Âm nhạc:
+ Đạo cụ:
Nhưng cũng rất cởi mở cho con người (có lúc múa tự do, thăng hoa…)
- Thường là múa cá nhân (múa đơn) đòi hỏi động tác phức tạp hơn, mang nét
huyền bí
- Chia làm hai đoạn:
+ Múa của thần thánh: là múa của người mà thần thánh nhập vào họ
+ Múa trước thần thánh: là múa của người trước thần thánh
Ví dụ 1: “Múa hầu đồng”
- Chỗ dựa tinh thần
- Củng cố lịng u nước
- Là mơi trường giá trị văn hóa dân gian
→ tích cực
- Khi con người bị rang buộc quá vào niềm tin, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời sống
→ mê tín dị đoan
Ví dụ 2: “Múa mo trong tang lễ của người Mường”
- Tùy theo địa vị xã hội (lang hoặc dân) đám tang sẽ kéo dài từ 3-12 ngày đêm
- Nhân vật quan trọng trong tang lễ là ông Mo(một thầy cúng)nhằm bảo vệ linh
hồn người chết, đưa người chết từ cõi sống về cõi chết
- Gồm các màn múa:
+ Múa dâng lễ: thầy Mo cầm quạt, rung chuông để mời thánh sư và hồn tổ tiên về
chứng giám lễ đưa hồn người chết về cõi chết. Động tác múa của thầy Mo: 2 tay
dâng lễ, đưa lên hạ xuống, chân bước nhún vừa tiến vừa lùi theo nhịp cồng chiêng.
Vừa múa thầy Mo vừa niệm thần chú để đuổi ma dữ quấy nhiễu hồn người chết.
+ Múa mặt nạ: (do 1 người nam giới đeo mặt nạ hình người hoặc hình thú vật).
Các động tác múa tự do, ngẫu hứng, bước tiến bước lùi, lúc quỳ lúc đứng, ngả
người chạy quanh quan tài, miệng hú đệm theo tiếng cồng chiêng và lời hát Mo.
+ Múa cờ: (đoàn người múa từ 60-70 người, chỉ diễn ra trong đám tang của tầng
lớp lang, tầng lớp quý tộc). Những người này 2 tay cầm cờ, lúc đi lúc chạy, tung
phất cờ sang 2 bên phải trái, lên trên xuống dưới theo nhịp chiêng trống. Điệu múa
này biểu tượng cho đồn qn lính bảo vệ linh hồn người chết khỏi sự quấy rối của
tà ma.
+ Múa quạt ma: (điệu múa đặc sắc nhất trong tang lễ của người Mường). Những
người múa là những nàng dâu trong gia đình, thể hiện tấm lịng hiếu thảo của nàng
dâu với bố mẹ. Các nàng dâu cầm quạt, xếp hàng theo thứ tự thứ bậc từ dâu trưởng
đến dâu út, làm động tác quạt dâng lên hạ xuống, uốn lượn như hình sóng triền
miên khơng dứt, biểu tượng cho tình cảm của người sống, của các nàng dâu đối với
gia đình chồng.
+ Múa phá ngục: giải thốt cho linh hồn người chết.
III. Hình thái múa cung đình
3.1. Vài nét về sự phát triển của múa cung đình
- Đối tượng múa chuyên nghiệp, là những nghệ nhân múa giỏi trong dân gian → là
sự phát triển vượt bậc, các điệu múa có sự tập luyện cơng phu với nhiều động tác
phức tạp
- Có sự đầu tư thỏa đáng về vật chất và tinh thần → tạo ra không gian sáng tạo
- Mang trong mình nét đặc trưng, nét tinh hoa của múa dân gian các dân tộc
- Sự quy định, chế định chặt chẽ về (địa điểm, thời gian, trang phục)
3.2. Các loại múa cung đình
…
CHƯƠNG III: ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT MÚA
I. Đặc trưng nghệ thuật múa
- Theo nghệ sỹ nhân dân Lê Ngọc Canh:
+ Cách điệu: thêm bớt
+ Tượng trưng: thay thế
+ Khái quát: cái chung
+ Tạo hình: tư thế đặc trưng (có thể do 1 người hoặc nhiều người tạo nên; thường
được tạo thành từ đầu hoặc kết thúc 1 tác phẩm; đặc tính cơ bản: cô đọng nội dung)
- Theo nghệ sỹ nhân dân Đặng Hùng:
+ Phương tiện biểu hiện đặc thù
+ Quy tắc kết cấu
+ Tình cảm, sự say mê và cảm xúc
II. Đặc trưng ngôn ngữ múa
2.1. Khái niệm
2.2. Các thành phần cấu tạo ngôn ngữ múa
- Động tác:
+ Là thành phần cấu tạo nhỏ nhất của nghệ thuật múa, khơng có động tác thì khơng
có nghệ thuật múa
+ Có 2 loại:
. Động tác chính: do người biên đạo sáng tạo ra nhằm phục vụ cho tác phẩm của
mình. Trong 1 tác phẩm múa chỉ có 1 vài động tác chính, được lặp đi lặp lại nhiều
lần khiến người xem có thể nhớ được tồn bộ hoặc 1 phần động tác chính.
. Động tác phụ: có vai trị bổ sung, làm rõ nghĩa cho động tác chính. Là yếu tố để
phân biệt múa của dân tộc này với múa của dân tộc khác bởi trong mỗi động tác
đều ẩn chứa những đặc trưng về văn hóa, xã hội, tự nhiên của mỗi cộng đồng
- Đội hình:
+ Giúp tăng thêm vẻ đẹp của động tác
+ Biểu đạt nội dung nào đó
+ Các kiểu đội hình:
. Hàng ngang: thường xuất hiện khi có u cầu để biểu dương, đề cao sức mạnh.
. Chéo: biểu hiện có tính chất sắc bén, đặc biệt dùng trong múa chiến đấu, diễn tả
sức tiến công sắc nhọn, mạnh mẽ gây ấn tượng ở đội hình dài và đơng.
. Vịng tròn: sử dụng trong nội dung lien hoa, giao hạo.
. Mũi tên: biểu hiện khí thế, diễn tả sự nhất trí cao, đồng lịng đi tới.
. Chữ V: biểu hiện trong khơng khí nghênh tiếp, nhận mệnh lệnh.
. Vịng cung: biểu đạt sự phô diễn, đề cao đặc trưng khi cần thiết.
. Bán nguyệt: sử dụng với yêu cầu trình bày, bày tỏ 1 sự kiện, 1 vấn đề được giãi
bày.
. Hàng dọc: biểu hiện khí thế gây ấn tượng ở độ dầy, tầng tầng, lớp lớp tạo khơng
khí hung hồn.
. Dọc đơi: biểu hiện sự đón chào, mừng đón tâm tình …
- Tạo hình:
+ Cơ đọng nội dung
+ Thường diễn ra (dừng) trong một khoảng thời gian nhất định
+ Gồm: tạo hình tĩnh và tạo hình động
+ Thường xuất hiện ở đầu, cuối và giữa tác phẩm
+ Được phát triển ở 3 khía cạnh (căn cứ vào khơng gian của sân khấu)
. Tầng: cao thấp
. Tầm: xa gần
. Diện: rộng hẹp
- Kịch câm:
+ Sử dụng kịch câm nhằm bổ sung cho nghệ thuật múa ->kịch câm phải chuyển
biến để phù hợp với nghệ thuật múa (âm nhạc gắn liền với động tác)
+ Luật động:
. Là những chuyển động của cơ thể người diễn viên.
. Gồm 2 loại:
.. Luật động theo quy luật tự nhiên
.. Luật động trái quy luật tự nhiên: thường là sự sáng tạo của nhà biên đạo, giúp tác
phẩm hấp dẫn khán giả.
2.3. Phân loại ngôn ngữ múa
- Ngôn ngữ múa sinh hoạt: là động tác mô phỏng lại sinh hoạt của con người trong
lao động, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận dễ múa, nội dung phong phú.
- Ngôn ngữ múa biểu hiện: là động tác sáng tạo nhằm thể hiện sắc thái tình cảm
của con người; là sự sáng tạo của biên đạo múa; mang tính đa nghĩa (mỗi người
hiểu theo 1 hướng khác nhau)(theo quan điểm của nghệ sỹ Lê Ngọc Canh).
2.4. Đặc trưng ngơn ngữ múa
- Động tác chuyển động
- Đội hình chuyển động
- Tiết tấu chuyển động
- Tạo hình trong ngơn ngữ múa
CHƯƠNG IV: CÁC THỂ LOẠI MÚA
I. Các thể loại hình thức
1.1. Múa 1 người (solo)
- Tập trung mọi thủ pháp nghệ thuật
+ Khả năng biểu diễn các kỹ thuật, kĩ xảo
+ Khả năng biểu hiện cảm xúc
+ Sự phù hợp về ngoại hình
1.2. Múa 2 người (duo)
- Địi hỏi khả năng biểu diễn các kĩ thuật, kĩ xảo
- Khả năng biểu lộ cảm xúc
- Phù hợp về ngoại hình
- Phải có kĩ thuật bê đỡ (sự phối hợp nhịp nhàng, tạo sự cân bằng, sử dụng lực hợp
lý)
- Múa bè: trên cùng 1 đoạn nhạc, người này múa động tác này, người kia múa động
tác khác
- Múa đối đáp: thường dùng trong nội dung mang tính lãng mạn trong tình yêu, 1
người múa 1 người đứng yên và ngược lại
1.3. Múa 3 người (trio)
- Khả nămg kĩ thuật.
- Khả năng biểu hiện.
- Thường dùng để khắc học những tính cách trái ngược nhau (Ví dụ: đánh ghen…).
- Đội hình có lúc tách ra để giành không gian cho người diễn viên bộc lộ tính cách,
tình cảm.
1.4. Múa 4 người (quatuto)
- Thường là múa đồng điệu, đồng đều với nhau nhưng cũng có lúc sử dụng múa bè.
1.5. Múa tập thể
- Là hình thức múa phổ biến, hay được sử dụng trong hình thái múa dân gian.
- Động tác đơn giản, chủ yếu sử dụng yếu tố đồng đều của đội hình.
1.6. Tổ khúc múa (suité)
- Là thể loại múa được kết cấu theo nhiều chương, mỗi chương có 1 chủ đề riêng
nhưng đều phục vụ cho 1 chủ đề chính, có thể tách rời từng chương (ví dụ: tổ khúc
múa 4 mùa).
1.7. Thơ múa
- Kết cấu theo từng chương, mỗi chương có chủ đề riêng.
- Có nhân vật trung tâm(nhân vật chính, nhân vật dẫn truyện).
- Có kết cấu, xung đột, kịch tính, giải quyết mâu thuẫn.
- Khơng có nhân vật phản diện trong thơ múa (dùng trong các tác phẩm mang tính
ca ngợi).
(Ví dụ: thơ múa Tô Vĩnh Diện, Lê Văn Tám…).
- Nếu không có nhân vật trung tâm thì thơ múa trở thành múa tập thể.
- Nhân vật trung tâm trong thơ múa thường đại diện cho 1 giới, 1 lớp người, 1 hình
tượng nào đó.
1.8. Kịch múa (Vũ kịch)
- Có kết cấu chương hồi như 1 vở kịch (có xung đột, mâu thuẫn, giải quyết mâu
thuẫn…).
- Thường chia lại 2 loại:
+ Vũ kịch lớn: có thời gian từ 45-120 phút hoặc có thể dài hơn.
+ Vũ kịch nhỏ: có thời gian từ 15-45 phút.
II. Các thể loại nội dung
2.1. Thể loại thơ lãng mạn
2.2. Thể loại bi kịch
2.3. Thể loại trữ tình
2.4. Thể loại hài kịch
2.5. Thể loại anh hùng ca
Múa dân gian Thái
TRƯỜNG CAO ĐẲNG MÚA VIỆT NAM
Thái là một trong những dân tộc vốn có nền dân vũ (múa) khá phong phú. Một trong những điệu múa phổ biến nhất của
dân tộc này là những điệu Xòe duyên dáng, dịu dàng làm say mê ngây ngất lòng người. Từ trước tới nay, múa Xịe hay
Xịe ln giữ một vai trị quan trọng trong đời sống văn hóa và đã trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu trong những
dịp lễ Tết, cúng bản, cúng mường của người Thái Tây Bắc. Bài viết này đề cập đến vai trò của múa Xòe và một số điệu
múa khác trong đời sống hằng ngày, trong đời sống tín ngưỡng và lễ hội của người Thái Tây Bắc.
1. Vai trò múa xòe trong đời sống hằng ngày
Một trong những sinh hoạt văn nghệ phổ biến của người Thái là “Xòe vòng”. Xịe vịng là hình thức múa tập thể sơ
khai nhất, là nét sinh hoạt vui chơi của người Thái xưa và nay. Múa Xòe phổ cập ở mọi lứa tuổi: trẻ già, trai gái ai cũng
biết Xòe và ai cũng thích Xịe. Đây là một điệu múa, một hình thức nghệ thuật và cũng là một tục lệ. Xòe vòng được xuất
hiện trong các nghi lễ mừng xuân, được mùa, lên nhà mới, cưới xin... và ngay cả trong các cuộc liên hoan trên nhà sàn,
quanh đống lửa, khi rượu đã ngà ngà, tiếng chiêng trống nổi lên thúc dục, thế là không ai bảo ai mọi người cùng nắm tay
nhau say sưa trong nhịp bước Xòe vòng. Xòe vòng gắn với một số phong tục tập quán của người Thái Trắng ở Phong Thổ
và cả các vùng cư trú của người Thái Đen Tây Bắc.
Ngày Tết, dân Xòe rất đơng, địa điểm tổ chức có khi trên bãi đất rộng, có khi vào ban đêm mà tâm điểm thường là đống
lửa to. Dân bản nắm tay nhau thành vòng tròn múa quanh đống lửa theo nhịp chiêng trống. Động tác Xịe chỉ gồm một
bước nhảy thường với đội hình vịng trịn đơn giản. Nếu đơng người thì múa thành hai vịng trịn, vịng trong nhỏ và vịng
ngồi lớn. Hai vòng xoay ngược chiều nhau. Tay nắm tay, vai kề vai, chân người nọ dịch bước theo chân người kia trong
khơng khí tình cảm say sưa ấm áp của đêm Xịe. Khách chưa quen chỉ việc đứng ngồi vịng nhìn một hai lần là có thể
tham gia Xịe ngay được.
Nhịp Xịe ở đây nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng đơi khi do khơng khí cuộc vui thơi thúc nên mọi người vỗ tay nhảy hú
lên náo nhiệt. Đội hình Xịe đơi lúc dàn hàng ngang hoặc hình bán nguyệt chứ khơng nhất thiết là vịng trịn. Chẳng những
nam nữ thanh niên Thái u thích Xịe mà các cụ già cũng hào hứng tham gia. Ban đầu các cụ còn múa nhẹ nhàng, khi
rượu đã ngà ngà cùng với tiếng chiêng trống thúc giục, tuổi xuân như trỗi dậy, các cụ múa càng say sưa, sơi nổi. Người
Thái nghĩ rằng có tham gia Xịe như vậy thì thánh thần mới phù hộ cho họ làm ăn phát đạt.
Trong sân Xòe, bên cạnh vịng trịn lớn cịn có thể thấy những đơi nam nữ thanh niên tách ra để Xịe riêng đó là Xịe đơi và
Xịe cụm với bước nhảy nhanh khơng cần nhạc đệm. Đây là những động tác được sáng tạo tại chỗ, theo ngẫu hứng trong
tâm trạng quá cuồng do vậy khơng nằm trong quy cách bình thường của Xòe vòng. Đây là một biểu hiện của lòng mến
khách khi người Thái đem những động tác Xòe ấy ra đón tiếp người khách quý đến chơi nhà đúng lúc có cuộc vui.
Mỗi cuộc Xịe thường kéo dài đến nửa đêm, có khi tới sáng mà mọi người vẫn say sưa khơng ai bỏ cuộc. Khơng khí
Xịe càng về khuya càng sơi nổi, mạnh mẽ. Mặt nhìn mặt, tay nắm tay ai cũng cũng say mê với nguồn vui thu nhận được
từ trong ánh mắt, nụ cười và từ đôi bàn tay ấm áp thân tình.
Nhạc cụ dùng để đệm trong múa Xịe vịng thường có: 1 chiếc trống, 2 hoặc 3 chiếc chiêng, 1 đôi chũm chọe và mấy ống
tre. Nhiều nơi cịn dùng Pí, khèn bè, tính tẩu và đặc biệt là hát đối đáp có láy dưới sau mỗi câu hát. Giai điệu và tiết tấu âm
nhạc đơn giản, câu nhạc ngắn, lặp đi lặp lại nhưng có sức lơi cuốn mạnh mẽ. Ai đã vào vịng Xịe thì có thể múa thâu đêm
suốt sáng. Người ta đến với Xòe vòng trước hết là cho vui bản, vui mường, gặp gỡ thăm hỏi nhau, sau là tìm bạn để gửi
gắm tâm tình.
Bước vào mùa xuân, ở vùng Thái trắng tất cả mọi người đều tham gia Xòe (trừ những người đau yếu), vì họ quan niệm
rằng nếu đầu năm mà khơng múa, khơng hát thì cả năm sẽ gặp rủi ro. Người Thái trắng cịn có tục múa mừng nhà mới là
một việc hệ trọng đối với một gia đình. Dựng nhà mới làm xong, chủ nhà làm cỗ cúng ma nhà và thết đãi khách đến mừng.
Trong tiệc rượu, những người đến dự hát chúc chủ nhà có nơi ở tốt, con cái khỏe mạnh, làm ăn khấm khá. Có nơi cịn múa
Xịe sau tiệc rượu, trước nữa để mừng nhà mới sau là khen chủ nhà đã dựng được ngôi nhà chắc chắn đông người nhảy
múa mà khơng sập.
Xịe vịng được sử dụng linh hoạt rộng rãi nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Thái. Qua các giai
đoạn lịch sử, Xịe vịng ln ln được phát triển và cho tới ngày nay ở bất cứ trường hợp nào, giai đoạn nào, Xịe vịng
vẫn khơng cũ, khơng mịn , sức hấp dẫn của nó vốn do cái đẹp tự nhiên mang đậm tính dân tộc sâu sắc. Xịe vịng là một
phương tiện giao tiếp tốt, một sản phẩm tinh thần quí giá trong đời sống xã hội. Xịe vịng khơng cịn là của riêng người
Thái mà nó trở thành tài sản chung của nhân dân Tây Bắc.
2. Vai trò của múa dân gian trong đời sống tâm linh