Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận luật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.11 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Phần I: MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.........................................................................................................1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................2
5. Ý nghĩa nghiên cứu.......................................................................................................................2
6. Bố cục bài tập tập lớn...................................................................................................................2
Phần II: NỘI DUNG............................................................................................................................3
1. Khái quát chung về hợp đồng thương mại và chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại
............................................................................................................................................................... 3
1.1.

Khái quát chung về hợp đồng thương mại..........................................................................3

1.1.1

Khái niệm về hợp đồng thương mại..............................................................................3

1.1.2

Đặc trưng của hợp đồng thương mại............................................................................4

1.2
Một số vấn đề lý luận chung về vi phạm hợp đồng và chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại...............................................................................................................................4
1.2.1

Khái niệm vi phạm hợp đồng và chế tài phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng...............4

1.2.2



Vai trò của chế tài phạt vi phạm trong hoạt động kinh doanh thương mại..................5

2. Quy định và thực tiễn việc thực hiến chế tài phạt vi phạm theo LTM 2005 và những văn
bản pháp luật có liên quan 2.1. Quy định của pháp luật về phạt vi phạm trong hợp đồng
thương mại........................................................................................................................................6
2.1.1. Khái niệm chế tài phạt vi phạm...........................................................................................6
2.1.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm..................................................................................7
2.1.3. Mức phạt của chế tài phạt vi phạm.....................................................................................9
2.2. Thực trạng chung về thỏa thuận áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương
mại...................................................................................................................................................10
2.3. Những tồn tại liên quan đến việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương
mại...................................................................................................................................................13
3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả cảu chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương
mại 14
3.1

Hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại...................14

3.2

Nâng cao vai trị của tịa án trong q trình xét xử..........................................................16

3.3. Nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại.
.........................................................................................................................................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................19




Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã xác định nền kinh tế Việt Nam
là nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật
kinh tế Việt Nam đương nhiên sẽ hướng tới việc đảm bảo những nguyên tắc chung cơ
bản nhất trong quan hệ kinh tế như đảm bảo quyền sở hữu, các quyền tự do, cạnh tranh
lành mạnh… Điều đó đồng nghĩa với việc những quy định về hợp đồng – cơ sở bắt
buộc làm phát sinh các quan hệ kinh doanh thương mại được quy định và bảo vệ trong
nhiều quy phạm khác nhau. Giá trị cốt lõi của hợp đồng được xác định dựa trên
nguyên tắc tự do thỏa thuận, tự nguyện về ý chí, bình đẳng về địa vị nhưng không
được phép trái với điều cấm của pháp luật hoặc các chuẩn mực đạo đức xã hội khác.
Việc giao kết, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng được thực hiện theo thỏa thuận giữa
các bên nên để đảm bảo cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng
được đảm bảo, pháp luật kinh doanh thương mại ở Việt Nam đã đặt ra những trình tự,
thủ tục cần thực hiện và đi cùng với đó là các chế tài đảm bảo thực hiện hợp đồng,
trong đó có chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Khi tìm hiểu về nhóm các chế tài do vi
phạm hợp đồng ở Việt Nam, bản thân em đã bị thu hút bới những nội dung quan đến
chế tài này. Nó là một biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng rất thú vị, có nhiều ý
kiến xoay quanh việc mục đích của nó nên thiên về hướng để phịng ngừa hay trừng trị
việc vi phạm hợp đồng thì việc quy định như hiện nay theo quy định của LTM 2005 có
cịn phù hợp? Nội dung quy định về thỏa thuận thực hiện chế tài này là như thế nào?
Thực tiễn áp dụng chế tài này ở Việt Nam là như thế nào? Chúng ta cần làm gì để chế
tài này phát huy được hiệu quả như mong muốn?... Chính vì vậy, mặc dù đã có nhiều
đề tài xoay quanh vấn đề này nhưng em vẫn mong muốn vừa nghiên cứu tìm hiểu tổng
kết, vừa phát triển quan điểm của bản thân nên đã lựa chọn đề tài: Các vấn đề phát lý
liên quan đến áp dụng chế tại phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại tại doanh
nghiệp” (nếu nhà trường bắt buộc chọn tên đề tài theo tên nhà trường cho thì em ghi
như thế này, cịn khơng em ghi tên đề tài như sau cho anh nhé: “KHÁI QUÁT
CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM TRONG
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI”Nội dung tìm hiều nghiên cứu nó khơng khác nhau

nhưng nếu em để được tên như anh gửi nó sẽ chi tiết hơn nhiều.)
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực tiễn ln cho thấy xoay quanh vấn đề thực hiện hợp đồng luôn tồn tại việc
vi phạm hợp đồng nên những năm qua, từ khi LTM 2005 ra đời hệ thống pháp luật về
chế tài trong thương mại ngày càng hoàn thiện, cả lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng
những quy định này luôn nhận được sự quan tâm nhiều của các nhà nghiên cứu. Qua
tìm hiểu của em, đã có một số nghiên cứu tiêu biểu về những vấn đề lý luận quanh quy
định về chế tài phạt vi phạm ở Việt Nam như; Sách chuyên khảo “Luận giải về phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại Việt Nam” của TS Lê Văn Tranh
1


(2018), bài viết “Phạt vi phạm hợp đồng theo pháp luật thương mại Việt Nam” của
Th.S Nguyễn Đức Anh trên trang thơng tin của Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử, hay
bài viết của TS. Dương Anh Sơn – TS. Lê Thị Bích Thọ “Một số ý kiến về phạt vi
phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” … Một số nghiên
cứu khác về thực trạng áp dụng chế tài này và kiến nghị hoàn thiện tiêu biểu như bài
viết “Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo LTM năm 2005” Đồn
Thị Ngọc Hải trên trang thơng tin của Bộ Tư pháp, bài viết của tác giả Hương Thu
“Mức phạt vi phạm tối đa 8% hay 12%, theo Luật dân sự, thương mại, hay Luật xây
dựng?”… tuy nhiên để tìm một nghiên cứu vừa đưa ra một cách tổng quan nhất thông
tin cơ bản về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng, vừa đưa ra cách nâng cao hiệu quả
áp dụng nó nhất là ở góc độ của các chủ thể giao kết hợp đồng thương mại như mong
muốn chưa hồn tồn thỏa mãn em.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Đưa ra một cách tổng quan nhất thông tin cơ bản về chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại
- Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài phạt vi phạm
4. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp phân tích

logic, phương pháp nghiên cứu lịch sử.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Tổng quan lại cơ sở pháp lý và thực tiễn cơ bản nhất của chế tài phạt vi phạm trong
thương mại cho người mới nghiên cứu để từ đos đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng chế tài
6. Bố cục bài tập tập lớn
Nội dung bài tập ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của bài gồm 3 phần cụ thể
như sau:
1. Khái quát chung về hợp đồng thương mại và chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng
thương mại
2. Quy định và thực tiễn việc thực hiến chế tài phạt vi phạm theo LTM 2005 và
những văn bản pháp luật có liên quan
3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả cảu chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng
thương mại

2


Phần II: NỘI DUNG
1. Khái quát chung về hợp đồng thương mại và chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại
1.1. Khái quát chung về hợp đồng thương mại
1.1.1 Khái niệm về hợp đồng thương mại
Theo học thuyết Mác Lê Nin về nguồn gốc, bản chất của nhà nước thì sự ra đời của
nhà nước gắn liền với sự ra đời của giai cấp, mà nhà nước ra đời đồng nghĩa với sự ra
đời của pháp luật. Nói cách khác, với vai trị là phương tiện cơng cụ để nhà nước quản
lý và định hướng sự phát triển của xã hội thì pháp luật có vai trị vơ cùng quan trọng
trong đời sống, lịch sử loài người. Thực tế cho thấy rằng, các quan hệ dân sự - với tư
cách là quan hệ phổ biến nhất, rộng khắp nhất - điều chỉnh hành vi, quan hệ giữa các
chủ thể dân sự với nhau đương nhiên càng đóng vai trị quan trọng. Mà cơ sở là căn cứ

để xác định bất kì quan hệ dân sự nào cũng đều bắt nguồn từ hợp đồng dân sự.
Ngành luật dân sự ở Việt Nam nói riêng và pháp luật các quốc gia khác trên thế
giới nói chung đều có cách xách định/tiếp cận khác nhau khi đưa ra khái niệm về hợp
đồng. Cụm từ “hợp đồng” phổ biến với chúng ta, còn “sự ưng thuận” hay “khế ước”
thường thấy xuất hiện và được sử dụng nhiều giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa
pháp luật phương Tây. Vì mặc dù Việt Nam chúng ta nằm trong hệ thống pháp luật của
các nước xã hội chủ nghĩa song thực tế lịch sử mang lại yếu tố chịu ảnh hưởng nhiều
từ truyền thống pháp luật La Mã – Đức ( Civil law) từ thời kì Pháp thuộc và điều đó
cịn được kéo dài cho đến ngày nay. Từ bộ luận Dân sự 1995 (BLDS) , BLDS 2005
đến BLDS 2015 hiện hành, về cơ bản chúng ta đều thống nhất cách hiểu hợp đồng ra
đời là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ dân sự dựa trên sự tự do ý
chí, tự nguyện, bình đẳng và thiện chí để xác định thời điểm, thời hạn, nội dung, sự
thay đổi của quan hệ đó. Cụ thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”.
Quan hệ kinh doanh thương mại cũng là một quan hệ dân sự điển hình, phổ biến.
Nên mặc dù khơng có định nghĩa pháp lý cụ thể được quy định trong luật song từ
những văn bản pháp luật có liên quan chúng ta vẫn xác định được nội hàm của khái
niệm này. Hiện nay, khái niệm về hoạt động thương mại đã hoàn thiện hơn so với LTM
(LTM) 1997, theo qui định tại khoản 1 Điều 3 LTM 2005 thì “Hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Kết hợp
với khái niệm hợp đồng dân sự, với những phân tích về đặc trưng của chủ thể trong
các quan hệ kinh doanh thương mại có một ý kiến phổ biến nhất được đơng đảo sự
đồng tình mà bản thân em thấy cũng hợp lý đã xác định: Hợp đồng thương mại là thỏa
thuận giữa thương nhân với thương nhân, hoặc giữa thương nhân với các bên liên quan
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động
thương mại. Nó đã thể hiện khá chính xác bản chất của một hợp đồng thương mại. Nói
3



cách khác, hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận nhằm mục đích sinh lợi trong đó có
ít nhất một bên tham gia hợp đồng phải là thương nhân hoặc tổ chức cá nhân khác hoạt
động có liên quan đến thương mại. Khái niệm trên giúp cho các bên tham gia hợp
đồng thương mại hiểu rõ bản chất của hợp đồng thương mại là một sự thỏa thuận, mục
đích của hợp đồng thương mại là nhằm mục đích sinh lợi và chủ thể tham gia hợp
đồng là thương nhân hoặc tổ chức cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương
mại.
1.1.2 Đặc trưng của hợp đồng thương mại
Như đã phân tích ở trên, hợp đồng thương mại một mặt có đầy đủ các đặc điểm của
hợp đồng dân sự nói chung, một mặt sẽ có những đặc trưng khác biệt với một số loại
hợp đồng dân sự khác như hợp đồng lao động, hợp đồng ủy quyền, hợp đồng tặng …
đặc biệt là để phân biệt với hợp đồng kinh tế - một loại hợp đồng dễ gây nhầm lẫn đôi
khi bị đánh đồng là một với hợp đồng thương mại. Cụ thể:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng thương mại. Hợp đồng thương mại được kí kết
giữa các bên là thương nhân, hoặc có một bên là thương nhân. Đây là một điểm đặc
trưng của hợp đồng thương mại so với các loại hợp đồng dân sự. Ngồi ra, chủ thể của
hợp đồng thương mại cịn có thể là các cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên quan
đến thương mại (Điều 2 LTM 2005).
Thứ hai, hình thức của hợp đồng thương mại. Điều 24 LTM 2005 quy định: Hợp
đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác lập bằng
hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định
phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. LTM 2005 cũng cho
phép thay thế hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương,
bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật
Thứ ba, về nội dung của hợp đồng thương mại. Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa
các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của hợp đồng phải tuân theo những quy định của
pháp luật hợp đồng nói chung, được quy định tại BLDS 2015. Cụ thể: Hợp đồng có thể
có các nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng; Giá, phương thức thanh toán;

Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng…
1.2 Một số vấn đề lý luận chung về vi phạm hợp đồng và chế tài phạt vi phạm
trong hợp đồng thương mại
1.2.1 Khái niệm vi phạm hợp đồng và chế tài phạt vi phạm do vi phạm hợp
đồng
Các quan hệ xã hội trong một xã hội có nhà nước luôn được điều chỉnh bằng
các quy phạm xã hội trong đó có các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên không phải mọi
chủ thể đều nghiêm túc chấp hành các quy đinh đó, có chủ thể thực hiện khơng đầy đủ,
khơng đúng thậm chí có chủ thể cịn cố tình làm sai, đi ngược lại cách xử sự đúng đắn
nên làm, làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nhà
nước. Những hành vi này chúng ta gọi chung là vi phạm và vi phạm hợp đồng là một
trong những hành vi xuất hiện, không hề lạ lẫm trong các quan hệ kinh doanh thương
mại.
4


Pháp luật nhiều quốc gia khác trên thế giới đã đề cập đến chế tài này, những ở
đây em xin phép trình bày một chút quan điểm của những học giả nghiên cứu về Dân
luật Pháp – một ngành luật có mối liên hệ vơ cùng mật thiết, gần gũi với pháp luật dân
sự Việt Nam. Tác giả Nguyễn Văn Phúc đã chỉ ra rằng, phạt vi phạm (Clause Pénal)
mang bản chất là một biện pháp đảm bảo thực hiện hơp đồng mà bên vi phạm cam kết
khi vi phạm hợp đồng. Điều 1226 BLDS Pháp định nghĩa: Điều khoản phạt vi phạm là
điều khoản theo đó, để đảm bảo thực hiện hợp đồng, một bên cam kết làm một việc
nào đó trong trường hợp khơng thực hiện đúng hợp đồng. Và nó được diễn giải cụ thể
ở Điều 1229 BLDS Pháp như sau: “phạt vi phạm là sự đền bù thiệt hại do việc khơng
thực hiện chính gây ra cho người có quyền”, trong đó khoản 2 Điều 1229 quy định:
“người có quyền khơng thể vừa u cầu thực hiện nghĩa vụ chính, vừa địi phạt vi
phạm, trừ khi điều khoản phạt vi phạm được quy định riêng cho trường hợp chậm
thực hiện nghĩa vụ”. Với mục đích để bù đắp tổn thất và nhằm đặt các bên vào vị trí
của họ giả sử nếu hợp đồng được thực hiện [18]. Tuy nhiên, ở Việt Nam chúng ta vẫn

đang nhìn nhận và áp dụng việc áp dụng chế tài phạt vi phạm là một dạng trách nhiệm
pháp lý mang tính kinh tế khi quy định cụ thể tại điều Điều 300 LTM 2005: “Phạt vi
phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ
phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm”. Nội dung này em sẽ trình bày chi tiết
hơn ở những phần sau.
1.2.2 Vai trò của chế tài phạt vi phạm trong hoạt động kinh doanh thương mại
Có vi phạm đồng nghĩa với phát sinh trách nhiệm đi kèm. Sự ra đời của các chế
tài thương mại nói chung hay chế tài phạt vi phạm nói riêng chính là thái độ của nhà
nước đặt ra đứng sẵn đó để bảo vệ các chủ thể trong quan hệ thương mại. Cần phải
hiểu mục đích của chế tài trước hết là để phịng ngừa những vi phạm có thể xảy ra,
trừng trị những hành vi vi phạm, răn đe các chủ thể khơng tiếp tục tái phạm nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng
thương mại. Có quan điểm cho rằng, phạt vi phạm là một trong những biện pháp chế
tài do vi phạm hợp đồng, được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, theo đó bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải chịu một khoản tiền phạt nếu xảy ra sự kiện
pháp lý là căn cứ để áp dụng phạt vi phạm. Khi áp dụng phạt vi phạm, chủ thể có
quyền địi phạt vi phạm là bên bị vi phạm, chủ thể có nghĩa vụ là bên vi phạm, mục
đích của quan hệ này một khoản tiền phạt vi phạm. [18]
Có ý kiến khác lại phân tích và chỉ ra hai chức năng của chế tài gồm: thứ nhất,
phạt vi phạm được xem là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng khi chưa
có hành vi vi phạm nghĩa vụ, điều này được khẳng định bởi phạt vi phạm được quy
định trong chương các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, mặt khác phạt vi phạm
thúc đẩy các bên chú ý đến việc thực hiện nghĩa vụ dưới sự đe dọa phải chịu hậu quả
bất lợi do không thực hiện nghĩa vụ; thứ hai, khi có sự vi phạm thì nó được coi là hình
thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng bởi vì bản chất của việc trả tiền phạt vi phạm là
sự đền bù vật chất cho bên bị vi phạm. Hai chức năng này của phạt vi phạm cũng được
thể hiện trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới [17]. Nhìn chung, dù là quan
điểm nào đi chăng nữa thì cũng đều nhìn nhận chế tài này như một biện pháp nhằm
5



đảm bảo thực hiện hợp đồng thương mại, là hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm
nếu không muốn phải gánh chịu thì buộc phải tự nguyện tự giác tuân thủ giao kết đã
có trong hợp đồng thương mại. Ở Việt Nam chế tài phạt vi phạm đã được quy định
trong các văn bản pháp luật như Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
1989, Bộ luật Dân sự 2005...trước đây và hiện nay được quy định trong BLDS 2015,
LTM 2005 và Luật Xây dựng 2014. Với sự ra đời của chế tài phạt vi phạm được quy
định trong Luật Thương mại 2005 thì phạt vi phạm thực sự trở thành một chế định
quan trọng để bảo vệ các bên trong quan hệ thương mại. Hiện nay, chế định này ngày
càng được các bên sử dụng nhiều hơn như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi
của mình trong các quan hệ hợp đồng hợp tác kinh tế.
Như vậy có thể thấy, phạt vi phạm theo pháp luật Việt Nam với tư cách là một
trong các biện pháp xử lý (dạng trách nhiệm pháp lý) do vi phạm hợp đồng
trong lĩnh vực dân sự, thương mại nhằm mục đích răn đe, trừng phạt do vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng. Nhưng cơ sở để áp dụng được chế tài này yêu cầu phải có sự thỏa thuận
của các bên. Do đó, khi soạn thảo hợp đồng các bên cần quy định một cách cụ thể và
các chi tiết các căn cứ để áp dụng biện pháp này, tránh trường hợp khi xảy ra tranh
chấp, các bên phải tốn kém chi phí và thời gian để phân định tính đúng sai của sự việc
do việc thiếu những căn cứ trong hợp đồng về việc áp dụng chế định phạt vi phạm.
Thoả thuận phạt vi phạm là một nội dung của hợp đồng nên các thỏa thuận nhất thiết
phải được ghi cụ thể trong hợp đồng để làm cơ sở giải quyết cho các bên sau này; phạt
vi phạm khơng cịn là một vấn đề do pháp luật quy định mà là do các bên thỏa thuận
trong nội dung của hợp đồng (pháp luật điều chỉnh). Tức là vấn đề phạt vi phạm không
bắt buộc đối với tất cả hợp đồng dân sự, thương mại.
2. Quy định và thực tiễn việc thực hiến chế tài phạt vi phạm theo LTM 2005
và những văn bản pháp luật có liên quan 2.1. Quy định của pháp luật về
phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại
2.1.1. Khái niệm chế tài phạt vi phạm
LTM 2005 định nghĩa: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện,
thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các

bên hoặc theo quy định của Luật này”. Đó là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây
thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của việc giao
kết hợp đồng”. Dù là vi phạm cơ bản hay vi phạm khơng cơ bản, việc vi phạm hợp
đồng này có thể đã hoặc chưa gây ra thiệt hại thực tế thì bên bị vi phạm đều có quyền
yêu cầu bên vi phạm hợp đồng chịu phạt vi phạm. Vì “Xét cho cùng, đây là biện pháp
răn đe các bên do trong việc vi phạm hợp đồng, khi các bên vi phạm đã thừa nhận vi
phạm hợp đồng và chịu phạt thì khơng có lý do gì để khơng chấp nhận điều đó [4].
Ở Việt Nam, do có sự phân chia các ngành luật trong lĩnh vực hợp đồng, dẫn
đến sự phân chia thành các quan hệ hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại chịu sự
điều chỉnh của các ngành luật khác nhau. Nhưng về định nghĩa phạt vi phạm thì pháp
luật dân sự và thương mại đều có sự thống nhất. Cụ thể theo Điều 418 BLDS năm
2015 (tương ứng Điều 300 LTM 2005) thì: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các
bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị
6


vi phạm”. Theo quan điểm của đa số các luật gia thì vi phạm hợp đồng để có thể phạt
vi phạm là những vi phạm cơ bản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của
một bên trong quan hệ hợp đồng.
Như vậy phạt vi phạm là một chế tài thỏa thuận, có bản chất bổ sung thêm một
quyền yêu cầu về vật chất (quyền yêu cầu phải trả tiền phạt) của một bên vi phạm và
tương ứng là một nghĩa vụ vật chất (nghĩa vụ trả tiền phạt) của bên vi phạm và qua đó
giúp tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng của các bên. Và chúng ta cũng cần phải đặc
biệt lưu ý rằng, trách nhiệm bên vi phạm buộc thực hiện ở đây là trả tiền phạt chứ
không phải một trách nhiệm vật chất hay hành vi cụ thể nào khác. (Mà theo quan điểm
của em, đây cũng có thể coi là một điểm đang giới hạn chính sự tự do thỏa thuận của
các chủ thể mà em sẽ trình bày ở những phần sau).
2.1.2. Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm
Căn cứ vào quy định về phạt vi phạm trong LTM 2005: “Phạt vi phạm là việc
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu

trong hợp đồng có thỏa thuận” và BLDS năm 2015 “Phạt vi phạm là sự thoả thuận
giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền
cho bên bị vi phạm” đã cho thấy điều kiện áp dụng phạt vi phạm là: hợp đồng phải có
hiệu lực, có hành vi vi phạm hợp đồng, có thỏa thuận áp dụng phạt vi phạm.
Thứ nhất, hợp đồng phải có hiệu lực: Đây là điều kiện đầu tiên và có tính quyết
định của vấn đề phạt vi phạm mọi hợp đồng. Hợp đồng có hiệu lực pháp lý mới là cơ
sở để từ đó làm phát sinh mọi quyền, nghĩa vụ tiếp giữa các chủ thể giao kết hợp đồng.
Nếu hợp đồng bị tun vơ hiệu vì khơng đáp ứng được bất kì một điều kiện gì (từ nội
dung, hình thức, thẩm quyền, mục đích, nội dung...) thì mọi vấn đề đã được thỏa thuận
đi kèm đều khơng có giá trị, trong đó có cả thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng. Do vậy,
chế định phạt vi phạm hợp đồng chỉ xảy ra khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, có hành vi vi phạm hợp đồng: Và đây phải là hành vi vi phạm thực tế,
đã được xác định cụ thể chứ khơng phải hành vi dạng giả định/phỏng đốn/nghi ngờ
chưa được chứng minh. Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý cần thiết để áp
dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong đó có phạt vi
phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi “không thực hiện”, “thực hiện
không đầy đủ” hoặc “thực hiện không đúng” hợp đồng” dưới cả dạng hành động hoặc
không hành động. Ở đây có một điểm chúng ta cần phân tích và làm rõ hơn để phân
biệt giữa chế tài này với chế tài bồi thường thiệt hại. Trong chế tài bồi thường thiệt hại,
ln có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại thực tế mà
hành vi đó gây ra cho chủ thể bị gây hại. Nhưng ở chế tài này thì khơng u cầu phải
có thiệt hại. Bởi lẽ, mục đích mà chế tài này hướng tới không phải để nhằm khắc phục
hậu quả mà là để ngăn ngừa hành vi có thể gây ra hậu quả đó. Nói đơn giản, tôi đặt sẵn
chế tài để nhắc anh dù việc làm vi phạm của anh chưa gây ra thiệt hại gì thì anh cũng
phải sẵn sàng gánh chịu hậu quả chỉ từ việc mình làm khơng đúng, khơng đầy đủ đó.
Bên cạnh đó, để phịng ngừa việc áp dụng chế tài này một cách tùy tiện thì
phạm luật cũng giới hạn và quy định rõ chỉ những hành vi có trong thỏa thuận chịu chế
tài này mới bị áp dụng. Những hành vi khác dù vi phạm khác nhưng không nằm trong
7



thỏa thuận cũng khơng bị áp dụng. Ví dụ hai bên chỉ thỏa thuận chế tài phạt vi phạm
về việc giao hàng chậm thời gian mà không thỏa thuận chế tài phạt vi phạm áp dụng
cho việc giao hàng không đủ số lượng thì nếu bên A là bên bán giao hàng đúng thời
gian nhưng lại không đủ số lượng thì bên B khơng thể áp dụng chế tài phạt vi phạm
trong trường hợp này. Thậm chí trong một số hợp đồng, chế tài này còn chỉ được quy
định giới hạn một đối tượng áp dụng nhất định thì các bên chủ thể khác dù có hành vi
thực hiện đúng hành vi vi phạm này cũng sẽ không bị áp dụng chế tài phạt vi phạm.
Nói tóm lại, việc xác định được hành vi vi phạm hợp đồng theo thỏa thuân là căn cứ
pháp lý không thể thiếu để áp dụng các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương
mại nói chung và chế tài phạt vi phạm nói riêng. Nếu khơng có hành vi vi phạm hợp
đồng thì tất nhiên khơng thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng.
Thứ ba, có thỏa thuận phạt vi phạm: Khác với các chế tài khác, chế tài phạt vi
phạm hợp đồng chỉ có thể được áp dụng nếu các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm
trong hợp đồng. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là thỏa thuận phạt vi phạm này có nhất thiết
phải “tồn tại” trong hợp đồng hay không? Và thời điểm “xuất hiện” của nó là như thế
nào? Tức là các chủ thể phải thỏa thuận với nhau về điều khoản phạt vi phạm hợp
đồng trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng và có cần phải được ghi vào trong
hợp đồng không? Theo quy định về phạt hơp đồng được quy định tại LTM 2005 đã
trích dẫn ở trên, chúng ta thấy yêu cầu đầu chỉ để áp dụng chế tài này là “Có thỏa
thuận”. Nội dung này tiếp tục được làm rõ hơn trong BLDS 2015 khi thêm cụm từ “là
sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng”. Như vậy chúng ta giải quyết được câu trả
lời cho câu hỏi: CÓ cần sự tồn tài của thỏa thuận này trong hợp đồng. Tiếp theo, ở câu
hỏi thứ hai về thời điểm xuất hiện của thỏa thuận này. Chúng ta thấy mục đích của
thỏa thuận này là để ngăn ngừa các bên cố tình vi phạm. Thỏa thuận phạt vi phạm nếu
được xác lập sau thời điểm có hành vi vi phạm hợp đồng nên nếu nó được thảo thuận
sau khi có hành vi vi phạm thì sẽ khơng phản ánh được bản chất răn đe hòng thực hiện
đúng hợp đồng mà sẽ theo hướng khắc phục hậu quả, thiệt hại của vi phạm đó gây ra –
đây lại là mục đích của chế tài bồi thường thiệt hại. Vì vậy, muốn thực hiện mục đích
đảm bảo thực hiện hợp đồng tối đa đúng theo chế tài thì thỏa thuận này phải được xác

lập trước khi có hành vi vi phạm. Tuy nhiên, chúng ta khơng thấy có quy định khống
chế thời điểm thực hiện thỏa thuận buộc phải làm ngay tại thời điểm giao kết, điều đó
có nghĩa các chủ thể hồn tồn có thể thỏa thuận thêm về điều khoản này sau khi hợp
đồng có hiệu lực miễn là thỏa thuận này được xác lập trước thời điểm xảy ra vi phạm.
Và thỏa thuận sẽ chỉ có giá trị hiệu lực với những vi phạm xảy ra tính từ sau thời điểm
giao kết và các bên chính thức công nhận hiệu lực của điều khoản mới giao kết đó.
Như đã phân tích ở trên, chúng ta thấy tầm quan trọng của thỏa thuận phạt vi
phạm trong hợp đồng thương mại song cũng cần phải lưu ý rằng, nó lại không phải là
nội dung bắt buộc nên các bên hồn tồn có quyền trao đổi nhìn nhận có hay không
việc quy định đến nội dung này trong hợp đồng.
Cuối cùng, không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm . Đây là nội dung mà đôi
khi chúng ta bỏ quên khi xác định trách nhiệm mà các chủ thể vi phạm phải gánh chịu.
Theo quy định của pháp luật, có những trường hợp kể cả khi đã đáp ứng đủ các điều
8


kiện kể trên để áp dụng chế tài phạt vi phạm nhưng nếu thuộc những trường hợp được
miễn trách nhiệm thì các chủ thể lại khơng phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi này.
Cụ thể, khi hành vi vi phạm của bên này lại xuất phát từ yếu tố lỗi của bên kia (cố tình
gây cản trở, thực hiện không đúng không đủ nghĩa vụ cần thực hiện trước đó của
mình) hoặc do các sự kiện tự nhiên như thiên tai hỏa hoạn dịch bệnh (cụ thể như tình
hình dịch bện Covid 19 vừa qua đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của các chủ thể
kinh doanh thương mại) hoặc những sự kiện nhân tạo chiến tranh, sự thay đổi của
chính sách pháp luật… khơng thể lường trước hết được tại thời điểm giao kết hợp
đồng thương mại mà các bên dù đã tìm mọi cách nhưng vẫn khơng thể nào khắc phục
được. Thêm vào đó, nếu các bên có thỏa thuận về miễn trách nhiệm dân sự (nếu khơng
phải lỗi cố ý) thì cũng có thể được áp dụng. Những nội dung này được quy định trong
cả điều 294 của LTM 2005 và điều 156, 351 BLDS.
2.1.3. Mức phạt của chế tài phạt vi phạm
Phạt vi phạm là một chế tài thuộc nhóm phương pháp điều chỉnh tác động về

mặt kinh tế nên việc xác định mức phạt vi phạm hợp đồng có ý nghĩa quan trọng để
việc áp dụng chế tài này đạt được mục đích như mong muốn. Đương nhiên, việc xác
định mức phạt vi phạm hợp đồng càng cụ thể, hợp lý càng thuận tiện cho quá trình áp
dụng. Mức phạt này đã được đề cập tới ở một số văn bản pháp luật khác nhau như
BLDS, LTM, Luật xây dựng.
Theo BLDS (BLDS) 2015 tại Điều 418, mức phạt vi phạm hợp đồng: “Mức phạt vi
phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Trường
hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng khơng thỏa thuận về việc vừa phải
chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
chịu phạt vi phạm.” Điều có có nghĩa mực phạt là do các bên tự thỏa thuận. Tự thỏa
thuận ở đây có nghĩa là các bên được phép tự do xác định mức phạt mà không bị
khống chế bởi những quy định của pháp luật, thể hiện rõ nguyên tắc tự do thỏa thuận –
nguyên tắc cơ bản cốt lõi nhất được ghi nhận trong pháp luật dân sự. Tuy nhiên, đây
chỉ là những quy định về các quan hệ dân sự nói chung, cịn các quan hệ thương mại –
cũng là quan hệ nằm trong nhóm các quan hệ dân sự - lại có chế tài riêng điều chỉnh.
Điểm đáng nói là ở chỗ LTM lại quy định về mức phạt trần đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trong khi
BLDS cho phép các bên tự do thỏa thuận mà không giới hạn về mức phạt thì LTM lại
giới hạn mức phạt khơng q 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng đó. Ở đây có sự khác
biệt giữa hai văn bản khi cùng điều chỉnh về mức phạt vi phạm được thỏa thuận trước.
Vì thế, yêu cầu chúng ta phải phân biệt được những quan hệ nào được Luật Dân sự
điều chỉnh, những quan hệ nào được Luật Thương mại điều chỉnh để có thể áp dụng
một cách chính xác. Theo Luật Thương mại 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Những quan hệ
này khi có tranh chấp xảy ra và có điều khoản về phạt vi phạm thì sẽ áp dụng mức phạt
vi phạm tối đa là 8%. Mặt khác, mức phạt vi phạm tối đa theo quy định của Luật Xây
9



dựng là 12%. Cùng điều chỉnh về một vấn đề nhưng rõ ràng có sự khác biệt giữa các
văn bản. Điều đó địi hỏi các bên phải phân biệt rạch ròi xem quan hệ nào do BLDS
điều chỉnh và quan hệ nào được điều chỉnh bởi LTM.
Một khi đã xác định được quan hệ cần xác định là quan hệ chịu sự điều chỉnh của
luật nào rồi thì chúng ta có thế dễ dàng hơn trong việc xác định chế tài áp dụng để xác
định mức phạt. Việc xác định này cũng dễ dàng hơn nhờ sự ngày càng tiến bộ trong
các quy định của BLDS 2015 so với BLDS trước đó. Nếu như luật cũ 1995 quy định
mức phạt không quá tối đa 5% giá trị của phần nghĩa vụ vi phạm thì từ năm 2005 trở
đi, các bên được tự do thảo thuận miễn là không vi phạm điều cấm của pháp luật và
trái với đạo đức xã hội. Đặc biệt, cụm từ “trừ trường hợp liên quan có quy định khác”
trong Bộ luật dân sự 2015 là điểm hoàn toàn mới so với phiên bản gần kề nhất khi nó
thỏa mãn được tính phù hợp giữa luật chung với luật chuyên ngành. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng có thể tham khảo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 về
nguyên tắc áp dụng LTM và pháp luật có liên quan trong q trình giải quyết các vụ
việc thương mại. Điều 4 LTM 2005 có quy định rằng: “1. Hoạt động thương mại phải
tuân theo LTM và pháp luật có liên quan. 2. Hoạt động thương mại đặc thù được quy
định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. 3. Hoạt động thương mại không
được quy định trong LTM và trong các luật khác thì áp dụng quy định của BLDS.”
2.2. Thực trạng chung về thỏa thuận áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại
Như đã phân tích ở trên về sự cần thiết phải có của thỏa thuận áp dụng chế tài
thương mại và mức phạt của chế tài khi được áp dụng nhưng trong thực tế vẫn có
những sự việc đáng tiếc dẫn đến tranh chấp khơng đáng có giữa các bên do sự không
am hiểu về pháp luật thương mại nói chung cũng như chế tài phạt vi phạm nói riêng.
Chúng ta sẽ cùng tham khảo qua một số vụ án liên quan đến việc thực hiện chế tài
phạt vi phạm sau đây để cùng rút ra một số nhận xét chung về tình trạng thỏa thuận
cũng như áp dụng thỏa thuận này trong hợp đồng thương mại ở Việt Nam.
STT Vụ
Loại


Số hiệu Thỏa
Yêu
cầu Phán quyết
việc/vụ
bản án quan
thuật phạt phạt
của của Tòa về
án
xét xử
trong hợp nguyên đơn yêu
cầu
đồng
tại Tịa
phạt
1. Tranh
chấp hợp
đồng mua
bán máy
móc
2. Tranh
chấp hợp
đồng mua
bán khoai
mì lát


thẩm

TAND

cấp
huyện

281/201
5/KDT
M-ST

0,1% giá 8%
phần Chấp nhận
trị
hợp nghĩa vụ vi
đồng/ngà phạm
y


thẩm

TAND
cấp
huyện

162/201
5/KDT
M-ST

20% tổng 8%
phần chấp nhận
giá
trị nghĩa vụ vi
hợp đồng phạm


10


3. Tranh
chấp mua
bán hàng
hóa khác
4. Tranh
chấp hợp
đồng mua
bán gỗ


thẩm

TAND
cấp
huyện

41/2014/ 8% phần 8%
phần Chấp nhận
KDTM- nghĩa vụ nghĩa vụ vi
ST
vi phạm
phạm


thẩm


TAND
cấp
huyện

05/2014/ 10% giá 10% giá trị
KDTM- trị
hợp hợp
đồng
ST
đồng nếu nếu không
không
giao hàng
giao hàng đúng hẹn;
đúng hẹn; 8% giá trị
8% giá trị hợp
đồng
hợp đồng theo LTM
theo LTM

5. Tranh

chấp hợp thẩm
đồng xây
dựng

TAND
cấp
huyện

06/2012/ Không

KDTM- thỏa
ST
thuận

6. Tranh

chấp hợp thẩm
đồng xây
dựng

TAND
cấp
huyện

7. Tranh
chấp về
hợp đồng
mua bán
hàng hóa

TAND
TC

20/2011/ 0,3% giá 5% số tiền
Không
KDTM- trị
hợp chậm trả
chấp nhận
ST
đồng/ngà

do
không
y
đúng trường
hợp bị phạt
07/2013/ 2% giá trị 1.316.490.4 Chấp nhận
KDTM- hợp đồng 80 vnđ
2% giá trị

vi phạm
hợp đồng vi
phạm

Giám
đốc
thẩm/
Nguồn
Án lệ
số
09/201
6/AL
8. Tranh

chấp hợp thẩm
đồng mua
bán hàng
hóa

TAND
cấp

huyện

477/201
9/KDT
M-ST

11

Khơng chấp
nhận

ngun đơn
khơng
chứng minh
được lỗi của
bị đơn và
vượt
q
quy
định
của LTM
Yêu
cầu
Không
phạt
chấp nhận
24.933.624đ do các bên
không thỏa
thuận trong
hợp đồng


0.1%/tổn Theo
g giá trị thuận
hợp đồng
cho
01
ngày
thanh
toán
chậm trễ,

thỏa Chấp nhận


không
quá
10
ngày
9. Tranh

TAND 10/2019/ phạt
Theo thỏa Chấp nhận
chấp hợp thẩm
cấp
KDTM- 0,01%
thuận
đồng mua
huyện ST
giá trị trả
bán hàng

chậm cho
hóa
mỗi ngày
chậm trễ
nhưng
tổng số
tiền phạt
khơng
vượt quá
8% giá trị
hợp đồng
Bảng 2.1 Một số vụ việc vụ án liên quan đến phạt vi phạm trong hợp đồng [10], [11],
[19]
Từ bảng tổng hợp một số vụ việc trên chúng ta có thể tút ra một số đánh giá
tổng quát sau:
Thứ nhất, hầu hết các hợp đồng có mức thỏa thuận phạt vi phạm không căn cứ
theo quy định của pháp luật: Mức phạt vi phạm được thỏa thuận thường nhiều hơn quy
định 8% ( là 12%, 10%, 15%).
Thứ hai, căn cứ xác định giá trị vi phạm trong một số hợp đồng được các bên
thỏa thuận đang có sự nhầm lẫn giữa toàn bộ giá trị hợp đồng và phần giá trị hợp đồng
bị vi phạm.
Thứ ba, cách tính tiền phạt vi phạm trong một số hợp đồng đang bị nhận thức chưa
chính xác khi tính giá trị tiền phạt theo ngày, nói cách khác các bên vẫn đang có suy
nghĩ thời gian chậm thực hiện nghĩa vụ bị phạt càng lâu thì mức tiền phạt càng tang. Ở
đây, đang có sự nhầm lẫn giữa mục đích, vai trò của chế tài phạt vi phạm với chế tài
bồi thường thiệt hại (em đã trình bày qua một số nét về vấn đề này ở phần trên.)
Thứ tư, chúng ta thấy trong một số hợp đồng, khơng có sự thỏa thuận về việc áp
dụng chế tài phạt vi phạm nhưng vẫn nộp đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết. Đặc
điểm chung của những yêu cầu này là tịa sẽ khơng chấp nhận do các bên khơng thỏa
thuận trong hợp đồng mà tòa sẽ chỉ xem xét giải quyết những nội dung khác trong đơn

khởi kiện (nếu có).
Thứ năm, có trường hợp các bên đã có thỏa thuận phạt vi phạm nhưng nếu không
đúng trường hợp bị phạt thì vẫn sẽ khơng được tịa chấp nhận u cầu.
Thứ sáu, chúng ta có một kết luận chung đồng thời là khẳng định ở đây rằng tịa án
ln làm việc độc lập và tuân theo pháp luật. Những yêu cầu giải quyết về thỏa thuận
phạt vi phạm ln chỉ có thể được chấp nhận và giải quyết khi nó được thỏa thuận
12


trong hợp đồng, đúng loại vi phạm đã thỏa thuận và mức phạt sẽ không quá 8% giá trị
hợp đồng vi phạm.
Những thực tế nêu ra ở trên sở dĩ xuất phát từ những tồn tại liên quan đến việc áp
dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại
2.3. Những tồn tại liên quan đến việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong
hợp đồng thương mại
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là tơn trọng sự tự do ý chí
và thỏa thuận của các bên, mức phạt vi phạm dân sự không chịu giới hạn trần, tuy
nhiên sang đến luật riêng điều chỉnh quan hệ thương mại – LTM 2005 lại quy định
mức phạt này không quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm. Nghe thì rất là dễ nhưng thực
tế lại rất khó khăn trong việc xác định mức phạt vi phạm.Lấy một ví dụ thực tế, trong
trường hợp các bên giao kết hợp đồng thuê nhà với thời hạn 1 năm, nếu một bên vi
phạm nghĩa vụ trả tiền thuê nhà, hợp đồng sẽ chấm dứt. Giả thử sau 6 tháng, một bên
vi phạm nghĩa vụ trả tiền thuê nhà, vấn đề phạt vi phạm sẽ được đặt ra. Thế nhưng, sẽ
là khó khăn trong việc xác định mức phạt vi phạm khi số tiền phạt được tính là 8% của
1 năm hay 8% 6 tháng còn lại của hợp đồng? TS. Vũ Đặng Hải Yến nhận định rằng:
LTM 2005 chưa quy định rõ giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm là như thế nào
sẽ dễ dẫn tới các cách hiểu và cách tính khác nhau, gây ra những mâu thuẫn khơng
đáng có trong q trình xử lý vi phạm hợp đồng. Do vậy, cần gỡ bỏ hoàn toàn các quy
định liên quan đến mức phạt vi phạm tối đa, tuy nhiên cũng cần cẩn trọng để bảo đảm
không tạo điều kiện cho hành vi lạm dụng, đặc biệt là trong mối quan hệ với người

tiêu dùng [20].
LTM 2005 cũng có quy định riêng với loại hợp đồng đặc thù :Đối với hợp đồng
dịch vụ giám định, mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận có thể lên đến 10 lần thù
lao dịch vụ giám định, tức là có thể gấp 10 lần giá trị hợp đồng. Vậy dựa trên cơ sở
nào để đưa ra mức phạt lớn như vậy? Nếu như là nói do không thể xác định được giá
trị phần hợp đồng bị vi phạm nên áp ln “mức giá” thì liệu có phải mức giá này đang
quá cao so với các loại hợp đồng thương mại còn lại? Và phải chăng, lúc này mục đích
buộc thực hiện đúng hợp đồng đã vơ tình bị coi nhẹ đi và yếu tố buộc gánh chịu hậu
quả (về mặt kinh tế) lại tăng lên? Quay trở lại với mức phạt 8% giá trị hợp đồng bị vi
phạm. Liên quan đến mức phạt vi phạm, hiện nay còn tồn tại hai vướng mắc như sau:
Một là, việc LTM năm 2005 khống chế mức phạt vi phạm không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm có làm hạn chế quyền tự do hợp đồng của các chủ thể
không? Đây cũng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm phân tích. Tuy nhiên,
em rất là đồng tình với một quan điểm chung không coi việc LTM 2005 đặt ra giới hạn
với mức phạt vi phạm là xâm phạm đến quyền tự do hợp đồng của các chủ thể, bởi sự
tự do hợp đồng cũng đặt trong khuôn khổ và giới hạn luật cho phép. Việc đặt ra một
mức giới hạn phạt cũng là cần thiết để tránh sự áp đặt thái quá của bên chiếm ưu thế
trong hợp đồng đối với bên yếu thế. Cũng có ý kiến cho rằng trải qua gần 15 năm nên
mức phạt này bị đánh giá không cịn tương thích với thực tiễn hiện nay nhưng em lại
nghĩ chính vì giới hạn này cũng khơng phải phải cao (8% giá trị hợp đồng vi phạm)
nên nó thể hiện được mục đích chính của chế tài là ngắn ngừa hành vi vi phạm hợp
13


đồng có thể xảy ra – nghĩa là yếu tố phòng ngừa nhiều hơn trừng trị - một yếu tố được
coi trọng trong những thỏa thuận tiền hợp đồng thương mại phổ biến.
Tiếp đó, như trong phần thực tiễn đã nêu ở trên đặt ra câu hỏi cho LTM năm
2005 quy định mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Tuy nhiên, quy định này là chưa triệt để bởi các nhà lập pháp chưa đưa ra cách thức
giải quyết trong trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt lớn hơn 8% giá trị phần

nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Hiện nay đang tồn tại hai luồng quan điểm liên quan
đến vấn đề này như sau: (i) Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm lớn hơn
8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá khơng được tính.
Điều này có nghĩa mức phạt sẽ được xác định là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị
vi phạm; (ii) Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm lớn hơn 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì điều khoản này bị xác định là vô hiệu và không
được áp dụng. Điều này đồng nghĩa với việc bên bị vi phạm khơng có căn cứ để phạt
bên vi phạm [1].
Lại thêm một vấn đề khác được đặt ra, nếu trong hợp đồng hai bên thỏa thuận mức
phạt vượt quá 8% giá trị hợp đồng, ví dụ: hai bên thỏa thuận, mức phạt 30%, mức phạt
theo ngày, mức phạt là con số cụ thể, mức phạt có tính lãi… thì sẽ xử lý như thế nào?
Liên quan đến vấn đề này, có hai quan điểm lớn như sau: Quan điểm thứ nhất cho
rằng, việc thỏa thuận này là vơ hiệu hồn tồn, vì vậy khi giải quyết tranh chấp về yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng, không chấp nhận yêu cầu này và xem như hai bên khơng
có thỏa thuận. Quan điểm thứ hai cho rằng, việc thỏa thuận vượt quá 8% chỉ vô hiệu
một phần đối với mức phạt vượt quá 8% cịn điều khoản phạt vi phạm hợp đồng hồn
tồn có hiệu lực, trong trường hợp này có thể áp dụng mức tối đa 8% yêu cầu của bên
bị vi phạm, phần vượt quá không được chấp nhận. Từ thực tiễn xét xử các vụ tranh
chấp kinh doanh thương mại, như đã lấy ví dụ ở trên, các Tịa án thường chấp nhận
quan điểm thứ hai, nghĩa là nếu hai bên thỏa thuận vượt quá 8% thì sẽ áp dụng mức
phạt từ 8% trở xuống để giải quyết yêu cầu bồi thường cho bên bị vi phạm. Điều này
hoàn toàn hợp lý, bởi vì, bản chất hợp đồng là ý chí của các bên, trong trường hợp này
các bên hồn toàn chấp nhận sẽ chịu phạt nếu vi phạm hợp đồng, còn việc thỏa thuận
mức phạt vượt quá giá trị hợp đồng là do hai bên chưa hiểu biết đầy đủ quy định của
LTM 2005 chứ khơng có nghĩa là khơng có điều khoản về phạt vi phạm.
Hạn chế cuối cùng em muốn đề cập tới ở đây là sự hiểu biết của các chủ thể trong
quá trinh giao kết hợp đồng kinh doanh thương mại. Chính vì khơng có hiểu biết hoặc
hiểu biết không đầy đủ đã dẫn đến hệ quả là khơng có thỏa thuận về chế tài phạt vi
phạm hoặc nội dung của chế tài phạt vi phạm này lại khơng có giá trị áp dụng do
khơng tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành.

3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả cảu chế tài phạt vi phạm trong
hợp đồng thương mại
3.1 Hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại

14


Như đã trình bày ở trên, vấn đề được bàn luận nhiều nhất khi áp dụng chế tài phạt
vi phạm trong hợp đồng thương mại là mức phạt tối đa 8% giá trị hợp đồng bị vi
phạm.
Có nhiều ý kiến cho rằng đây là mức phạt q thấp, khơng cịn phù hợp với cơ chế
thị trường ngày nay các nhà làm luật nên bỏ mức trần 8% này và thay bằng mức trần
cao hơn để tăng tính răn đe cho chế tài. Tuy nhiên, em lại nghĩ vấn đề ở đây không
phải là mức phạt 8% là cao hay thấp mà là ý nghĩa và giá trị thực sự mà nó có thể tác
động đến hành vi thực hiện hợp đồng của các chủ thể. Nhìn rộng ra thế giới, chúng ta
đang bị bó hẹp bới chính giới hạn 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm này khi cố ấn nó vào
một cái khung – phạt bằng tiền – trong khi việc xác định chính xác số tiền bị phạt chưa
chắc đã dễ dàng. Có nên chăng mở cửa và thoáng hơn trong việc cho phép các chủ thể
được tự do thỏa thuận về biện pháp đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng phịng ngừa khi
có vi phạm xảy ra? Thay vì phạt tiền có thể tham khảo pháp luật một số quốc gia khác
khi yêu cầu thực hiện một nghĩa vụ tương ứng. Điều này cũng có thể giúp phòng ngừa
trường hợp, bên bị vi phạm đã lợi dụng chính chế tài này để ăn vạ khi hoặc chưa có bất
kì thiệt hại nào xảy ra hoặc bên vi phạm đã cố gắng hết sức và khắc phục được toàn
bộ/đa số hậu quả của vi phạm hoặc vừa muốn hưởng chế tài phạt vi phạm vừa muốn
song song việc hưởng các chế tài bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả khác. Đương
nhiên, theo quy định hiện hành thì khơng sai những đơi khi vơ hình chung nó trở thành
gánh nặng phần nào cho bên bị vi phạm.
Nếu nhà làm luật vẫn muốn giữ mức trần phạt vi phạm hợp đồng, thì nên quy định
theo hướng: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối
với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị

phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt
quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá sẽ khơng có giá trị pháp
lý”. Với cách quy định như trên, chúng ta sẽ giải quyết được tình trạng tùy tiện trong
việc áp dụng chế tài phạt vi phạm, đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với các
thỏa thuận phạt, vừa đảm bảo và tôn trọng sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của các
bên khi giao kết hợp đồng trong giới hạn mức trần phạt cho phép của nhà nước [13].
Như vậy sẽ giải quyết được một tồn tại đã nêu ở trên khi các chủ thể thỏa mức phạt vi
phạm vượt quá 8% giá trị hợp đồng vi phạm. Như vậy ít nhất thỏa thuận phạt vi phạm
sẽ vẫn có hiệu lực. Thực tế thì có quan điểm khá cứng rắn cho rằng nếu đã vi phạm
mức thỏa thuận so với quy định của nhà nước thì thỏa thuận sẽ bị tun vơ hiệu do nếu
cứ vẫn cơng nhận 8% định mức có hiệu lực thì sẽ thúc đẩy các bên cố tình vượt khung,
làm mất tính nghiêm minh của pháp luật. Nhưng bản thân em lại nghĩ, thực tế vẫn còn
những trường hợp do thiếu hiểu biết dẫn đến sai lầm trong thỏa thuận, những lỗi này
nếu đã đến từ sự không đồng đều trong nhận thức và hiểu biết pháp luật thì chúng ta
cần tìm cách khắc phục nó (em sẽ trình bày ở giải pháp sau), không nên quá cứng rắn
ngay từ đầu, sẽ gây thiệt hại tới những chủ thể không đáng bị tước đoạt đi quyền được
hưởng yêu cầu áp dụng phạt chế tài khi có hành vi vi phạm.
Nhưng bên cạnh đó, có ý kiến thứ hai đề xuất nên chăng cần phải xem xét lại mức
giới hạn tối đa mức phạt 8%; sửa đổi theo hướng không giới hạn mức phạt tối đa. Cơ
sở để đưa ra đề xuất này, xuất phát từ những căn cứ sau: bản chất của hợp đồng là sự
15


thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy, các bên hồn toàn chịu trách nhiệm khi thỏa thuận
chọn mức phạt; Và việc không giới hạn mức phạt, sẽ thực hiện mục đích răn đe buộc
các bên thực hiện đúng hợp đồng. Việc giới hạn mức phạt sẽ phần nào gây khó khăn
cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn mức phạt; Ý kiến này xuất phát từ mục đích
của việc quy định chế tài phạt vi phạm là để phòng ngừa và răn đe các bên vi phạm
hợp đồng, thiết nghĩ, khơng ai có thể hiểu hơn các chủ thể của tham gia vào hợp đồng
(các bên trong hợp đồng) về mức phạt ở mức độ như thế nào mới đủ sức phòng ngừa

và răn đe các hành vi vi phạm, do tính phức tạp và đặc thù của mỗi lĩnh vực khác nhau
trong quan hệ hợp đồng. Do đó, việc quy định mức trần phạt vi phạm đã phần nào vơ
hiệu hóa những thỏa thuận đó của thương nhân, dẫn đến một hậu quả là mục đích của
quy định về chế tài phạt khơng đạt được, hay nói cách khác, có những vụ việc trên
thực tế nếu chỉ dừng lại giới hạn ở mức phạt khơng q 8% thì các thương nhân sẵn
sàng vi phạm hợp đồng nếu lợi ích kinh tế của việc vi phạm đó mang lại nhiều hơn so
với khoản tiền không quá 8% giá trị hợp đồng bị vi phạm mà thương nhân phải chi trả
cho bên bị vi phạm [13].
3.2 Nâng cao vai trò của tịa án trong q trình xét xử
Trong giai đoạn vừa qua chúng ta đã tiến hành mạnh mẽ công cuộc cải cách tư
pháp, một loạt các hành động đã được tiến hành từ khơng ngừng nâng cao sự hồn
thiện của hệ thống pháp luật, nâng cao vai trò của các cơ quan tư pháp trong quá trình
tố tụng hay nâng cao không ngừng chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đặc biệt trong
đó vai trị và hiệu quả làm việc của tịa án ln được quan tâm. Năm 2015, khi BLDS
mới ra đời chính thức cơng nhận Án lệ trở thành một trong những căn cứ pháp lý được
viện dẫn trong q trình xét xử tại tịa đã cho thấy vai trị vơ cũng quan trọng của tịa
án. Minh chứng cụ thể nhất là quyết định giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM-GĐT
ngày 15-3-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh
doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” tại tỉnh Bắc Ninh
giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần thép Việt Ý với bị đơn là Công ty cổ phần kim khí
Hưng n; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Ngọc Lan và ông Lê
Văn Dũng đã trở thành Án lệ số 09/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân
dân tối cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số
698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Từ
đây cho thấy, phán quyết của tào án đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc có
chấp nhận thảo thuận áp dụng chế tài phạt vi phạm hay không và mức phạt bao nhiêu
là phù hợp. Nhưng chính phán quyết của tòa lại đang bị ràng buộc bởi 8% giá trị hợp
đồng bị vi phạm. Kết hợp với giải pháp ở trên em đã trình bày về việc đề xuất sửa đổi
theo hướng : “Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vượt quá 8% phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt q sẽ khơng có giá trị pháp lý” sẽ là cơ sở pháp lý

vững chắc đồng thời cho phép tòa án xác định mức phạt khi có thỏa thuận vượt mức.
Hoặc, nếu chúng ta sửa đổi theo hướng bỏ mức phạt trần thì vai trò của tòa án càng
quan trọng.
16


Thực ra, em vẫn nghiêng theo hướng nên chăng không chỉ giới hạn việc thực hiện
trách nhiệm phạt vi phạm bằng tiền. Nếu các nhà làm luật có thể xây dựng theo hướng
không giới hạn các biện pháp áp dụng chế tài thì tịa án sẽ có nhiệm vụ xác định tính
phù hợp hay khơng phù hợp của các thỏa thuận đó. Hoặc, rộng hơn chúng ta sẽ trao
cho tịa án việc được xác định chế tài phạt vi phạm phù hợp với nội dung hợp đồng bị
vi phạm. Bởi lẽ, chính tịa án là người nắm rõ sự khác biệt giữa các loại chế tài trong
vi phạm hợp đồng – điều mà chính các chủ thể khi giao kết hơp đồng đang nhầm lẫn
rất nhiều (phần cuối cùng của bài tập em sẽ trình bày về nội dung này).
Để làm được tất cả những điều trên, rõ ràng việc trao cho tòa án nhiều thẩm quyền
hơn là điều kiện bắt buộc phải có nhưng đương nhiên đi cùng với nó phải là điều kiện
tiên quyết về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ thẩm phán nói riêng
và hệ thống tịa án nói chung.
3.3. Nâng cao hiểu biết của doanh nghiệp về chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại.
Bên cạnh các doanh nghiệp thực hiện đúng quy định của pháp luật, thì vì nhiều
nguyên nhân khác nhau (cả chủ quan lẫn khách quan, cả cố ý lẫn vơ ý) mà vẫn cịn
tình trạng các doanh nghiệp trong quá trình giao kết hợp đồng thương mại có những
thỏa thuận về việc áp dụng chế tài thương mại chưa đúng theo quy định của pháp luật.
Thậm chí là dù khơng có thỏa thuận phạt chế tài vi phạm hợp đồng nhưng đến khi có
vi phạm vẫn u cầu bên vi phạm, thậm chí u cầu tịa án gaiir quyết yêu cầu xử lý
phạt vi phạm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp còn chưa thật sự quan tâm đến việc tìm hiểu quy định của pháp luật về chế tài
xử lý vi phạm, thậm chí có biểu hiện khơng quan tâm coi nhẹ việc đề cập những thỏa
thuận này khi giao kết hợp đồng thương mại. Đây vừa là hành vi coi nhẹ chính quyền

lợi của mình, vừa là biểu hiện của sự lơi lỏng để các chủ thể khác lợi dụng không thực
sự nghiêm túc đảm bảo thực hiên hợp đồng do khơng có ràng buộc.
Vì vậy đặt ra cho chúng ta hai yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiểu biết doanh nghiệp
về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại.
Thứ nhất: tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để các chủ thể kinh
tế có hiểu biết về sự cần thiết, tầm quan trong của thỏa thuật phạt vi phạm nói riêng
cũng như chế tài xử lý vi phạm khi vi phạm hợp đồng kinh tế nói chung. Các chủ thể
phải được phổ biến cụ thể về cách xây dựng thảo thuận thoe yêu cầu của pháp luật về
nội dung xác định các hành vi vi phạm, mức xử lý vi phạm, thời điểm giao kết thỏa
thuận so với thời điểm xảy ra vi phạm và hình thức của thảo thuận trong hợp đồng
thương mại đã giao kết. Nâng cao hiểu biết về mục đích để phân biệt với các chế tài
khác như chế tài bồi thường thiệt hai, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Thứ hai: xây dựng đội ngũ tư vấn pháp luật vừa có năng lực, vừa có trách nhiệm.
Đảm bảo hiệu quả làm việc, tư vấn của đội ngũ này đối với các chủ thể kinh tế trước
khi tiến hành giao kết hợp đồng thương mại. Đội ngũ này có thể là đội ngũ tư vấn viên
miễn phí, hoặc trả phí cực thấp để giúp đỡ các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ do giới hạn vốn và điều kiện nên những nội dung khơng được coi là
chính trong hợp đồng đơi khi không nhận được sự quan tâm đúng mức.
17


KẾT LUẬN
Một lần nữa chúng ta cần khẳng định mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn
nhau giữa của hợp đồng thương mại và chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng thương
mại. Nếu như nói nội dung thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng là cơ sở áp
dụng chế tài thì chính chế tài cũng là một biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng
thương mại. Pháp luật về chế tài này ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và hồn
thiện nhằm mục đích vừa bảo vệ các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thương
mại vừa nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng nhưng trong giai đoạn phát triển kinh
tế với tốc độ nhanh như vũ bão, luôn tồn tại nhiều biến động thậm chí là nguy cơ, nhất

là khi chúng ta không ngừng hội nhập và mở cửa nền kinh tế thì những quy định pháp
lý này ln cần được nhìn nhận và cập nhật một cách khách quan, kịp thời, hiệu quả.
Và để có thể nâng cao được hiệu quả của việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong hợp
đồng thương mại thì cần sự nỗ lực của khơng chỉ các doanh nghiệp, mà cịn cần trước
hết là sự hồn thiện các chế định pháp lý có liên quan cũng như năng lực, trách nhiệm,
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức của đội ngũ những người thực thi pháp luật

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Cường (2020), Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại
và mối quan hệ giữa hai chế tài, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03 năm 2020, tr 5055.
2. Nguyễn Văn Hợi, Trần Ngọc Hiệp (2019), Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, so sánh với BLDS Pháp , tạp chí Nghề
Luật - Học viện Tư pháp, Số 5-2019., tr. 82-90.
3. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017), Bản chất pháp lý của thỏa thuận trước trong hợp
đồng về việc trả một khoản tiền xác định khi có hành vi vi phạm hợp đồng, Tạp chí
Khoa học pháp lý Việt Nam số 04(107)/2017, Trang 67-75
4. Nguyễn Thị Hằng Nga (2009), Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường
thiệt hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại,
Tạp chí Tồ án nhân dân, số 9, tr.26
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật thương mại Việt Nam, NXB
Cơng an nhân dân, Hà Nội.
6. TS Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo
Luật Thương mại Việt Nam, nxb Tư pháp, Hồ Chí Minh
7. Quốc hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội
8. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội
9. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội

TÀI LIỆU TỪ INTERNET
10. Th.S Nguyễn Đức Anh (2021), Phạt vi phạm hợp đồng theo pháp luật thương mại
Việt Nam, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử truy cập lần cuối
ngày 20/12/2021
11. Công ty luật Apolat Legal (2021), Tổng quan về phạt vi phạm hợp đồng phần 1,
Apolat Legal truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
12. Cơ sở dữ liệu pháp lý (2017), Tuyển tập 15 bản án liên quan đến phạt vi phạm hợp
đồng />13. P. N. Hằng (không ghi năm),, Phạt vi phạm, bồi thường hợp đồng dân sự theo Bộ
luật dân sự năm 2015, Bộ Tư pháp
/>ItemID=140, truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
14. Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại
theo LTM năm 2005, Bộ Tư pháp ( />15. THS. Nguyễn Việt Khoa (không ghi năm), Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo luật
thương mại 2005, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
19


16. TS. Nguyễn Văn Nghĩa, Th.S Phạm Thị Nga (2021), , Trách nhiệm pháp lý tiền hợp

đồng ở một số nước trên thế giới Trách nhiệm pháp lý tiền hợp đồng ở một số nước
trên thế giới, Tạp chí Khoa học pháp lý
truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
17. Sáng Nguyễn (2020), Tổng hợp bản án liên quan đến phạt vi phạm hợp đồng, Thư
viện pháp luật Tổng hợp bản án liên quan đến phạt vi phạm hợp đồng
(thuvienphapluat.vn) truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
18. Nguyễn Văn Phúc (2018), Một số vấn đề đặc thù về chế tài phạt vi phạm hợp đồng
trong lĩnh vực dân sự theo pháp luật Việt Nam và pháp luật cộng hịa Pháp dưới góc
độ luật học so sánh, Khoa Luật Đại học Duy Tân
truy cập lần cuối ngày
20/12/2021
19. TS. Dương Anh Sơn – TS. Lê Thị Bích Thọ, Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi

phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Pháp luật Dân sự
, truy cập lần cuối ngày
20/12/2021
20.Tòa án nhân dân tối cao, 09/2016/AL, Trang tin điện tử về án lệ
/>dDocName=TAND014309, truy cập lần cuối ngày 20/12/2021
21. Hương Thu (2013), Mức phạt vi phạm tối đa 8% hay 12%, theo Luật dân sự, thương
mại, hay Luật xây dựng?, Luật sư Vũ Ngọc Dũng o/baiviet/muc-phat-vi-pham-toi-da-8-hay-12-theo-luat-dan-su-thuong-mai-hay-luat-xaydung.html truy cập lần cuối ngày 20/12/2021

20



×