Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tai lieu TCLLCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.48 KB, 26 trang )

PHẦN V.1
Câu 1: Tại sao trong lãnh đạo, quản lý phải thực hiện kiểm tra, đánh giá, Phân biệt sự khác nhau giữa kiểm tra
và giám sát.
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, bảo đảm cho đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng được xác định đúng đắn và chấp hành triệt để. Từ thực tiễn q
trình lãnh đạo cách mạng và cơng tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã tổng kết: “Lãnh đạo mà khơng
kiểm tra thì coi như khơng có lãnh đạo”. Vì vậy, trong lãnh đạo, quản lý phải thực hiện kiểm tra, đánh giá
* Phân biệt kiểm tra và giám sát?
* Giống nhau giữa kiểm tra và giám sát:
Công tác kiểm tra và công tác giám sát của Đảng có sự thống nhất sau: kiểm tra và giám sát đều là hoạt
động của nội bộ Đảng do cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện. Kiểm tra và giám sát đều
nhằm đạt được mục đích là nắm vững và đánh giá đúng thực chất tình hình, để từ đó chủ động phịng ngừa, ngăn
chặn, điều chỉnh, uốn nắn mọi hành vi của tổ chức và cá nhân có liên quan, phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị và cơng tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đối tượng và nội dung kiểm tra, giám sát đều là tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, trong việc thực hiện
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban
Chấp hành Trung ương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
* Khác nhàu giữa kiểm tra và giám sát:
Điểm phân
Kiểm tra
Giám sát
biệt
Định nghĩa
Kiểm tra là xem xét kỹ đến chi tiết
Giám sát của Đảng là việc các cấp uỷ, tổ
để xác định tính hợp pháp, mức độ đúng, chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
sai; là xem xét tình hình thực tế để đánh của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát
giá, nhận xét. Nhưng việc đánh giá, xác trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều
định, nhận xét đúng, sai, tốt, xấu này phải lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các quyết định của
căn cứ vào những tiêu chí, văn bản đang Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban


có giá trị hiện hành so với thực tế của đối Chấp hành Trung ương
tượng được kiểm tra
Về mục đích
Làm rõ đúng, sai và xử lý vi phạm
Để chủ động phòng ngùa, ngăn chặn xảy
(nếu có).
ra khuyết điểm, vi phạm từ lúc mới manh nha.
Giám sát nhắc nhở, lưu ý, cảnh báo đối tượng
giám sát thực hiện đúng quy định.
Về
đối
Đảng viên vừa là đối tượng kiểm
Đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và chỉ
tượng
tra, vừa là chủ thể tự kiểm tra.
trở thành chủ thể giám sát khi được tổ chức đảng
có thẩm quyền phân cơng
Về phương
Kiểm tra phải coi trọng thẩm tra,
Giám sát không xem xét thi hành kỷ luật.
pháp và hình xác minh; sau kiểm tra phải có kết luận rõ Giám sát chủ yếu quan sát, theo dõi, nhận xét và
thức
đúng, sai, nội dung, tính chất, mức độ, tác đánh giá, chú trọng đến việc lưu ý, cảnh báo,
hại, nguyên nhân vi phạm, các tính tiết nhắc nhở.
tăng nặng hoặc giảm nhẹ và phải xử lý kỷ
luật tổ chức đảng và đảng viên (nếu có vi
phạm đến mức phải xử lý).
- Giữa kiểm tra và giám sát có mối quan hệ tác động lẫn nhau.



Kết quả giám sát là căn cứ để kiểm tra. Giám sát được thực hiện tốt thường xuyên có tác dụng phát hiện
sớm vi phạm, giúp việc kiểm tra chủ động, kịp thời, có chất lương, hiệu quả; đồng thời có tác dụng ngăn ngừa vi
phạm, làm giảm số cuộc và nội dung kiểm tra.
Giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm làm cho cơng tác kiểm tra, giám sát bảo đảm tính
tồn diện, sâu sắc, thống nhất.
Câu 2: Nêu phương pháp xây dựng và rèn luyện phong cách lãnh đạo quan liêu?
Câu 4. Phong cách lãnh đạo quan liêu: Khái niệm, biểu hiện, phương hướng khắc phục, liên hệ
thực tiễn địa phương để khắc phục.
* Khái niệm:
Bệnh quan liêu về thực chất là: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong quá trình thực hiện chức
trách, nhiệm vụ xa rời thực tế, xa rời nhân dân, chỉ thiên về mệnh lệnh, công văn giấy tờ; là chủ
nghĩa hình thức, chú trọng hình thức hơn so với nội dung hoạt động; lối làm việc bàn giấy, thái độ coi
thường thực chất công việc; lạm dụng quyền lực, coi thường lợi ích của tập thể, của nhân dân, cá
nhân chủ nghĩa.
* Biểu hiện của phong cách lãnh đạo quan liêu:
- Chủ nghĩa quan liêu là căn bệnh cố hữu trong quản lý xã hội. V.I.Lênin đã chỉ rõ: Kẻ thù bên trong
tệ hại nhất của chúng ta chính là căn bệnh quan liêu.
- Phong cách lãnh đạo quan liêu là phong cách tách rời quyền hành khỏi quỳên lợi và nguyện vọng
tập thể, xem thường thực chất sự việc, trốn tránh trách nhiệm, làm việc không theo nguyên tắc và
những quy định của pháp luật đùn đẩy trách nhiệm, hậu quả xấu cho cấp trên hoặc cấp dưới, duy trì
đẳng cấp, đặc quyền đặc lợi.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những biểu hiện của phong cách lãnh đạo quan liêu là:
" Đối với người:...Khơng biết giải thích, tuyên truyền. Không biết làm dân chúng tự giác, tự
động
Đối với việc: Chỉ biết khai hội, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Chứ không biết điều tra, nghiên cứu,
đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra.
Đối với mình: Việc gì cũng kềnh càng, chậm rãi, làm cho qua chuyện. Nói một đường, làm
một nẻo. Chỉ biết lo cho mình, khơng biết quan tâm đến nhân dân, đồng chí.
Một vẻ quan liêu nữa là chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những khơng lo phụng sự nhân
dân, mà cịn muốn nhân dân phụng sự mình.

Tham ơ, hủ hóa. Trước mặt dân chúng thì lên mặt "Quan cách mạng".
- Lý luận và thực tiễn cũng chỉ rõ phong cách quan liêu cịn có những biểu hiện:
+ Khuynh hướng cứng nhắc, cơ cấu tổ chức nhiều tầng.
+ Kéo dài, ngâm việc trong thực hiện nhiệm vụ, làm việc thiết kế hoạch, thiếu tiến độ, thụ
động chờ đợi chỉ thị cấp trên.
+ Nhỏ nhặt trong quan hệ với người dưới quyền và can thiệp vô căn cứ vào công việc của họ.
+ Đầu óc thủ cựu, giấy tờ phiền phức, nhũng nhiễu dân chúng. Thái độ thờ ơ với yêu cầu thực
tế trong quản lý nhà nước và của cán bộ đảng viên.
* Phương hướng xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo cho cán bộ lãnh đạo quản lí cấp
cơ sở:
1. Rèn luyện phong cách lãnh đạo lêninnit


Để khẳng định vai trò lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân và ĐCS trong q trình xây dựng
CNXH và chủ nghĩa Cộng Sản, V.I.Lênin đã đề xuất một cách toàn diện những luận điểm quan trọng
nhất về phong cách LĐ xã hội chủ nghĩa và được gọi là phong cách lêninnít. Cơ sở của phong cách
LĐ này là phương pháp biện chứng mácxít, là quan điểm cách mạng phê phán.
Theo V.I.Lênin trong chủ nghĩa XH cần có những thủ thuật và phương pháp LĐ mới, phù hợp với
những nguyên tắc của CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
Phong cách LĐ của ĐCS cầm quyền được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan, trong đó theo V.I.Lênin, “đường lối chính trị đúng ngun tắc là đường lối duy nhất, có
hiệu lực” là những yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến phong cách LĐ của Đảng và của cá nhân
người LĐ.
Phong cách LĐ lêninnít có nhiều mặt, những đặc điểm của nó tạo nên một hệ thống thống nhất và
có thể chia làm ba nhóm cơ bản: những đặc điểm tư tưởng – chính trị những đặc điểm đạo đức - tâm
lý, những đặc điểm nghiệp vụ – tổ chức.
Những đặc điểm tư tưởng - chính trị là tính tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, tính nguyên tắc đảng, ý
thức trách nhiệm về công việc được giao, thống nhất lý luận và thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần
chúng, thu hút đông đảo quần chúng tham gia quản lý xã hội.
Những đặc điểm đạo đức - tâm lý gồm tính trung thực, nói đi đơi với làm, tính kiên quyết, cương

nghị, tính độc lập, tính quyết đốn, tính linh hoạt, thái độ đòi hỏi cao, giản dị, ân cần và tế nhị trong
giao tiếp.
Những đặc điểm về nghiệp vụ - tổ chức phản ứng nội dung của phong cách LĐ; nó bao gồm quan
điểm LĐ, phương pháp khoa học, tính hệ thống, tầm nhìn, tính chun nghiệp và sự thơng thạo trong
cơng tác, tính có tổ chức, văn hố LĐ, khả năng kiểm tra và giám sát có hiệu quả, năng lực tổ chức
công tác.
Trong những đặc điểm trên, V.I.Lênin nhấn mạnh đến tinh thần trách nhiệm đối với công việc
được giao; sự lịch thiệp, tế nhị trong xử thế, thái độ tôn trọng, ân cần của người LĐ đối với cấp dưới.
Để rèn luyện phong cách LĐ lêninnít, V.I.Lênin yêu cầu người LĐ,QL trước tiên phải khắc phục
được phong cách LĐ quan liêu mà cơ sở của nó là tách rời quyền hành khỏi quyền lợi và nguyện
vọng của tập thể, của nhân dân, trốn tránh trách nhiệm, làm việc khơng theo ngun tắc; đó là: tình
trạng riêng rẽ, phân tán của những người sản xuất nhỏ, hoàn cảnh khốn cùng và dốt nát của họ, tình
trạng khơng có đường xá, nạn mù chữ, tình trạng khơgn có sự trao đổi giữa nông nghiệp và công
nghiệp. Phong cách quan liêu là sản phẩm của chế độ cũ.
Từ ba nhóm đặc điểm cơ bản của phong cách LĐ lêninnít cho thấy, V.I.Lênin đã có một quan
điểm khoa học, tồn diện về phong cách LĐ của ĐCS cầm quyền trong CNXH. Ngoài ra, Người còn
đề cập đến những yêu cầu cụ thể trong phong cách LĐ của mỗi cá nhân cần rèn luyện để đảm bảo
tính khoa học, dân chủ, nhân văn cách mạng và hiệu quả.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về phong cách LĐ của ĐCS trong xã hội
XHCN (phong cách LĐ chung), Chủ tịch HCM đã bổ sung và làm sáng tỏ một số đặc trưng cơ bản,
phong cách LĐ của ĐCS Việt Nam dựa trên cơ sở những đặc điểm của cách mạng Việt Nam, văn
hoá Việt Nam. Những đặc trưng cơ bản đó là tính quần chúng, tính dân chủ, tính khoa học, tính thiết
thực và hiệu quả, tính khiểm tốn học hỏi, cầu thị. Bản thân Người là tấm gương sáng trong việc rèn
luyện những đặc trưng đó và đã tạo dựng thành phong cách LĐ kiểu mẫu: phong cách Hồ Chí Minh
2. Khắc phục phong cách LĐ quan liêu.
- Phong cách lãnh đạo khơng tự nhiên mà có, nó cũng khơng khơng phải là cái gì cố định, chết
cứng mà cần xem xét nó một cách biện chứng như một q trình ln ln biến đổi, phát triển dưới
tác động của những điều kiện khách quan và yếu tố chủ quan. Sự hình thành, phát triển một phong



cách lãnh đạo là một q trình có chủ đích, có định hướng, địi hỏi mỗi người lãnh đạo, quản lý cấp
cơ sở phải tự rèn luyện, bồi dưỡng mới có được; đặc biệt là kỹ năng áp dụng linh hoạt, hợp lý các
phong cách, thủ thuật lãnh đạo với một đối tượng cụ thể trong một tình huống cụ thể.
- Muốn khắc phục phong cách lãnh đạo quan liêu cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau:
+ Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hình thành ý thức và tâm lý xã hội
chống phong cách quan liêu không chỉ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý mà trong toàn xã hội.
+ Xây dựng cơ sở pháp lý chống phong cách lãnh đạo quan liêu.
+ Hoàn thiện thể chế lãnh đạo, quản lý trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị
trí chức danh; quy định sự tương ứng giữa chức vụ, thẩm quyền và trách nhiệm.
+ Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội để khắc phục phong cách quan liêu.
Tăng cường vai trò kiểm sốt của nhân dân.
+ Xây dựng văn hóa lãnh đạo, tăng cường thực hiện pháp chế và trật tự pháp luật cho mỗi cán
bộ, công chức.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những giải pháp nêu ra ở trên cần được tiến hành đồng bộ,
gắn liền với những nội dung cải cách hành chính, nhất là cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy và quá trình
chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và cấp cơ sở nói riêng.
Phong cách lãnh đạo là do tổng thể những phẩm chất nhân cách của người lãnh đạo quyết định
phần lớn. Chẳng hạn, những phẩm chất chính trị cao là cơ sở của phong cách có tính nguyên tắc của
Đảng; những phẩm chất công tác cao quyết định nếp nghĩ và sự thông thạo công việc: năng lực tổ
chức tạo ra mối liên hệ thường xuyên với quần chúng... Chính vì thế để rèn luyện, đổi mới phong
cách lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ngoài giải pháp khắc phục phong cách
quan liêu cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp khác.
3. Tăng cường rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng – chính trị cho đội ngũ cán bộ LĐ,QL
cấp cơ sở.
Những phẩm chất tư tưởng – chính trị là linh hồn sống của người lãnh đạo, có vai trị định
hướng cho hoạt động của người lãnh đạo, là cơ sở của phong cách lãnh đạo có tính nguyên tắc đảng,
định hướng xã hội chủ nghĩa, thống nhất giữa lời nói với việc làm, lý luận với thực tiễn, liên hệ mật
thiết với quần chúng.
Xây dựng, rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo cấp cơ sở theo hướng dân chủ, khoa học và
thiết thực.

Thực hiện liên hệ mật thiết với quần chúng còn là cơ sở để thực hiện nguyên tắc dân chủ trong
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở; thực hiện yêu cầu chính trị và tư tưởng vô cùng quan trọng để đảm bảo
cho quần chúng thực sự tham gia công tác lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn cũng đòi hỏi người
lãnh đạo quản lý cấp cơ sở phải biết kết hợp linh hoạt giữa chế độ dân chủ với chế độ thủ trưởng
trong cơng tác của mình.
4. Rèn luyện những phẩm chất tâm lý - đạo đức của người LĐ.
Những phẩm chất tâm lý – đạo đức là cơ sở tạo nên cái riêng trong phong cách của người lãnh
đạo bao gồm tính trung thực, độc lập, kiên quyết, cương nghị và linh hoạt, đòi hỏi cao, thái độ ân
cần, lịch thiệp, sự nhạy bén, sáng tạo. Những phẩm chất này được biểu hiện hàng ngày trong hoạt
động, trong phong cách làm việc của người lãnh đạo và gắn liền với hiệu quả làm việc.
Cùng với sự trưởng thành về mặt tâm lý, trình độ và đạo đức ứng xử của người lãnh đạo nhất là
đối với quần chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có thể nêu ra một số tiêu chuẩn để người lãnh
đạo chú ý rèn luyện như: tính địi hỏi cao và giữ ngun tắc; sự tế nhị, lịch thiệp và tự chủ trong giao
tiếp; sự khiêm tốn và chân thành.


Ngoài những tiêu chuẩn trên, người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở cần thường xuyên rèn luyện
đạo đức cách mạng – cần, kiệm, liêm chính. Biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng mà xã hội
trông chờ ở người lãnh đạo là trong hành động luôn lấy sự nghiệp chung, lợi ích chung làm trọng.
5. Chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ LĐ, QL
cấp cơ sở để rèn luyện, đổi mới phong cách LĐ.
Trong phong cách lãnh đạo những đặc điểm về mặt nghiệp vụ - tổ chức có vị trí hết sức quan
trọng vì nó phản ánh hoạt động của người lãnh đạo, quản lý.
Để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo theo hướng dân chủ, khoa học, thiết thực đòi hỏi
người lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở phải chú trọng rèn luyện để có được quan điểm khoa học, tính tổng
hợp, tầm nhìn xa, kỹ năng tổ chức, kiểm tra và giám sát.
Một yêu cầu không thể thiếu được đối với người lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay trong
công tác phải chú trọng rèn luyện kỹ năng đánh giá và sử dụng đúng cán bộ, kỹ năng đổi mới kỹ
thuật và đổi mới tổ chức. Tồn cầu hóa, phát triển kinh tế thị trường đã mở rộng và làm gia tăng tính
phức tập và đa dạng của mơi trường lãnh đạo, chính vì thế, để có phong cách lãnh đạo thực sự đổi

mới, người lãnh đạo cấp cơ sở cần phải tiếp thu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những thành tựu của
khoa học lãnh đạo hiện đại; hình thành những kỹ năng lãnh đạo hiện đại; đảm bảo tính hiệu quả trong
công tác. Không phải ngẫu nhiên các nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng, để lãnh đạo thành cơng địi
hỏi người lãnh đạo phải tháo vát, nhạy bén, có kỹ năng diễn tiến về mặt kinh tế, văn hóa...
6. Rèn luyện, đổi mới phong cách LĐ thơng qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới và hội nhập khu
vực quốc tế.
Để rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở của
nước ta hiện nay không chỉ dừng ở cấp độ đổi mới nhận thức hay đổi mới thái độ mà còn đổi mới ở
cấp độ hành vi. Theo các nhà tâm lý học, việc thay đổi các thuộc tính tâm lý hay một đặc điểm cá
tính nào đó của nhà lãnh đạo là rất khó khăn, song thay đổi hành vi, thay đổi phong cách lãnh đạo thì
có thể được nếu như có những thời điểm, bối cảnh phù hợp. Chính vì thế thơng thực tiễn đổi mới,
thực tiễn hội nhập khu vực và quốc tế cũng là biện pháp có hiệu quả để rèn luyện, đổi mới phong
cách.
Thực tiễn cơng cuộc đổi mới, cải cách hành chính, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hộ chủ nghĩa thời gian qua ở Việt Nam cho thấy sự mở rộng, phức tạp và đa dạng hóa mơi trường
lãnh đạo đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho người lãnh đạo phải rèn luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo
theo các yêu cầu sau đây:
- Người lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành phải kiên trì với định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ động hội nhập.
- Người lãnh đạo, quản lý phải đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn.
- Phải có tri thức rộng và sâu, khả năng dự báo, dự đốn tốt.
- Phải có các kỹ năng lãnh đạo đáp ứng.
- Phải sử dụng đúng đắn các biện pháp quản lý trong điều kiện dân chủ hóa gia tăng.
- Khả năng thu thập, xử lý thơng tin.
- Năng lực tổ chức thực hiện...
Từ thực tiễn đổi mới, hội nhập sẽ giúp cho người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở
tự ý thức được sự hạn chế, thiếu hụt của bản thân để có kế hoạch học tập, rèn luyện.
Mặt khác, thông qua môi trường biến đổi, phức tạp đã giúp người lãnh đạo phải linh
hoạt; phải đổi mới phong cách lãnh đạo, chú trọng luyện đức – tài để đáp ứng nhu
cầu của thực tiễn.



* Liên hệ thực tiễn địa phương khắc phục bệnh quan liêu
Để đấu tranh khắc phục bệnh quan liêu, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị và đặc biệt là cấp
cơ sở cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản như sau:
Một là: Chú trọng tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức và tâm lý xã hội chống bệnh quan liêu
không chỉ trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lí mà trong toàn xã hội.
Hai là: Xây dựng cơ sở pháp lý chống quan liêu như: Hoàn thiện thể chế lãnh đạo quản lý trong đó
quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng vị trí chức danh; quy định sự tương ứng giữa chức vụ,
thẩm quyền và trách nhiệm; có kế hoạch, chương trình hoạt động cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý trực tiếp xuống cơ sở tìm hiểu, nắm vững tình hình thực tế cơ sở…
Ba là: Chú trọng sử dụng thông tin đại chúng, dư luận xã hội để khắc phục các biểu hiện quan liêu;
phát huy dân chủ thực sự trong cơ quan, đơn vị và trên địa bàn cơ sở để tăng cường vai trò kiểm tra,
giám sát của nhân dân; xây dựng văn hóa lãnh đạo, tăng cường thực hiện pháp chế và trật tự pháp
luật cho mỗi cán bộ, công chức.
Bốn là: Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, những giải pháp cơ bản trên phải được tiến hành đồng
bộ, gắn liền với cải cách hành chính, nhất là cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy và q trình chun
nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Ngồi ra, cần chú ý thực hiện các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, như: Tăng
cường rèn luyện nâng cao lập trường tư tưởng – chính trị; rèn luyện phẩm chất tâm lý, đạo đức; chú
trọng bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và rèn
luyện, đổi mới phong cách lãnh đạo thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Câu 3: Phân biệt các loại cuộc họp? Liên hệ thực tiển về các cuộc họp,cách tổ chức cuộc họp ở
đơn vị?( chú ý làm cụ thể hơn)
* Các loại cuộc họp:
1. Họp tham mưu, tư vấn
2. Họp làm việc
3. Họp chuyên môn
4. Họp giao ban

5. Họp tập huấn triển khai
6. Họp tổng kết
7. Họp sơ kết hoặc tổng kết
* Các yêu cầu:
1. Bắt đầu cuộc họp đúng giờ
2. Xác định tóm tắt, ngắn gọn mục tiêu của cuộc họp
3. Nêu chương trình nghị sự, phổ biến thời gian cho các nội dung công việc
4. Bắt đầu cuộc họp một cách hấp dẫn và lôi cuốn
5. Giới thiệu đại biểu, đặc biệt là những người mới lạ (nếu có)
6. Đảm bảo cuộc họp trơi chảy, đúng trọng tâm
7. Đảm bảo chương trình nghị sự
8. Trình bày tóm tắt vấn đề
9. Tạo bầu khơng khí mang tính chuyên nghiệp


10. Kiểm tra việc giải quyết các vấn đề của chương trình nghị sự
11. Tổng kết các vấn đề và chỉ rõ việc thực hiện
12. Dự kiến xếp lịch cho cuộc họp tiếp theo vào cuối cuộc họp hiện tại
13. Kết thúc cuộc họp đúng giờ
14. Từng bước ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ việc họp
15. Cần thiết phải văn bản hóa sau cuộc họp
PHẦN V.2
Câu 1: Vị trí vai trị của tổ chức cơ sở Đảng ở cơ sở? Đề xuất các giải pháp thực hiện?
Khái niệm : Tổ chức cơ sơ Đảng là tổ chức cơ sở của Đảng được lập ở đơn vị cơ sở .
Ở xã, phường, thị trấn có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng(trực thuộc
cấp ủy cấp huyện ) Ở đơn vị doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội … ( tổ
chức cơ sở đảng hoặc đơn vị trực thuộc Đảng ủy cơ sở ) cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết
định về việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy nào cho phù hợp nếu chưa có đủ ba đảng viên chính
thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên , lập chi bộ cơ sở , có các tổ chức đảng trực thuộc.

Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trục
thuộc đảng ủy.
*Vị trí vai trị của cơ sở đảng :
Điều 21 của điều lệ Đảng xác định :”tổ chức cơ sở Đảng ( chi bộ cơ sở , Đảng bộ cơ sở ) là nề
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. với vị trí là nền tảng của Đảng, tổ chức cơ sở Đảng có
vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự vững mạnh và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Tổ chức cơ sơ Đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng, là cơ sở để xây
dựng lên toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất bám sát các đơn vị cơ sở
trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực, của đời sống xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
tới từng đảng viên, tới từng đơn vị cơ sở với từng người dân.
Tổ chức cơ sơ đảng là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, đồng
thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành phát triển đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng
viên và quần chúng nhân dân. Ghi nhận những đóng góp quan trọng của tổ chức cơ sở đảng vào quá
trình hình thành đường lối đổi mới. tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thức VI , Đảng khẳng định “
những thành tựu đã đạt được , những tiềm nạng được khai thác , nhũng kinh nghiệm có giá trị đều
bắt nguồn từ sự nổ lực sự phấn đấu của quần chúng nhân dân ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng như:
Kết nạp, quản lý phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh giá đảng viên; nơi thường xuyên thực hành
các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng; nơi xuất phát đề cử ra các cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng, chất lượng tổ chức cơ sở Đảng do đó có ảnh hưởng tới chất lượng nội bộ Đảng. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: để lãnh đạo cách mạng Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt.
Tổ chức cơ sở đảng là tổ chức cầu nối Đảng với quần chúng nhân dân, là một mắt khâu trọng
yếu để duy trì mối liên hệ Đảng với dân – nền tảng sức mạnh của Đảng bới đây là tổ chức đảng gần
nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân để phản ánh với đảng. Hồ Chí Minh dạy rằng :”Tác dụng của chi
bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chun để liên hệ Đảng với quần chúng”.


Do những tác dụng quan trọng của tổ chức cơ sở đảng như vậy, nên Hồ Chí Minh đã khẳng
định :”Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẻ tốt “.

Với vị trí, vai trị là hạt nhân chính trị ở cơ sở đảng tuy là một bộ phận trong hệ thống chính trị
ở cơ sở, như là tổ chức lãnh đạo tất cả các tổ chức chính trị khác trong hệ thống chính trị đó, là tổ
chức bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng dịnh hướng chính trị của Đảng.
Nói vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng. Hồ chí Minh nhấn mạnh :” Đối
với Đảng ta xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng”. Trong quá
trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu của công
tác xây dựng Đảng.
Câu 2: Thực trạng công tác phân loại đánh giá chất lượng đảng viên cuối năm
*Công tác đánh giá phân loại đảng viên cuối năm ? Thực trạng và các giải pháp?.
Công tác đánh giá phân loại đảng viên cuối năm :
+ Ý nghĩa, yêu cầu:
Ý nghĩa:
Đánh giá chất lượng, phân loại đảng viên đúng đắn là căn cứ đề ra chủ trương và biện pháp
thiết thực để giáo dục, rèn luyện, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu, góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên.
Đánh giá chất lượng, phân loại đảng viên chính xác giúp cho cấp ủy đảng các cấp lựa chọn, bố
trí, sắp xếp, đề bạt, phân cơng nhiệm vụ đúng người, đúng việc, phát huy thế mạnh của từng người về
trình độ, năng lực, độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo..nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên là cơ sở để xét khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Yêu cầu:
Đánh giá chất lượng, phân loại đảng viên phải trên cơ sở bảo đảm tính khách quan, dân chủ,
cơng khai và từng bước tiến hành phải chặt chẽ, cẩn trọng. Đánh giá, phân loại đảng viên phải trên
tinh thần lấy “ xây” là chính, đồng thời phải bảo đảm tăng cường đồn kết thống nhất trong chi bộ,
đảng bộ, trong cấp ủy, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Đánh giá, phân loại đảng viên phải căn cứ vào tiêu chuẩn nhiệm vụ của đảng viên được ghi
trong Điều Lệ Đảng; nhiệm vụ được chi bộ phân công; căn cứ vào hướng dẫn của Ban tổ chức Trung
ương về nội dung cụ thể, các bước tiến hành, nhiệm vụ của từng cấp ủy và các việc cần làm sau khi
có kết quả đánh giá, phân loại.

Đánh giá, phân loại đảng viên phải căn cứ vào yêu cầu nâng cao chất lượng đảng viên theo
Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao,
kết quả rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống và kết quả thực hiện nhiệm vụ
đảng viên do Điều lệ Đảng quy định.
+ Nội dung, phương pháp đánh giá chất lượng đảng viên:
Nội dung đánh giá:
Căn cứ Hướng dẫn số 27/HD/BTCTW, ngày 25/09/2014 của Ban tổ chức Trung ương, về việc
hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng
viên hằng năm, nội dung đánh giá chất lượng đảng viên cụ thể như sau:
a). Đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý


- Tư tưởng chính trị: Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối đổi mới của Đảng; chấp hành tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; ý thức, trách nhiệm và thái độ trong đấu tranh chống
suy thoái về tư tưởng chính trị; việc học tập nâng cao trình độ chính trị, năng lực công tác của bản
thân.
- Phẩm chất đạo đức, lối sống: Kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
giữ gìn đạo đức, lối sống phát huy tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên và quan hệ mật
thiết với nhân dân. Tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu sửa chữa khuyết điểm và đấu tranh với các
biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống thực dụng, nói khơng đi đối với làm. Tính trung
thực, khách quan, chân thành trong tự phê bình, phê bình và xây dựng đồn kết nội bộ.
- Thực hiện chức trách, nhiệm vụ: Tinh thần trách nhiệm, kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm
vụ được giao; ý thức tham gia xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương, cơ quan,
đơn vị.
- Ý thức tổ chức kỷ luật: Việc chấp hành phân công của tổ chức, Quy định về những điều đảng
viên không được làm và các nội quy, quy chế của địa phương, cơ quan, đơn vị; thực hiện chế độ sinh
hoạt đảng, đóng đảng phí theo quy định; giữ mối liên hệ với cấp ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Đối với đảng viên là cán bộ, công chức: Khi kiểm điểm về thực hiện chức trách, nhiệm vụ cần

đi sâu làm rõ về khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ được giao; ý thức, thái
độ phục vụ nhân dân và giữ gìn đồn kết nội bộ.
b). Đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý: Ngồi những nội dung nêu tại Đảng viên khơng
giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý còn phải kiểm điểm sâu sắc các nội dung sau:
- Kết quả lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành; việc quy tụ, đoàn kết; thái độ cơng tâm, khách
quan và sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng.
- Tham gia cùng tập thể trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị và cơng tác
tổ chức, cán bộ của địa phương, cơ quan, đơn vị; làm rõ trách nhiệm các nhân đối với những hạn chế,
khuyết điểm của tập thể.
- Ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tu dưỡng đạo đức, lối sống, ý thức nêu gương
của bản thân và gia đình.
Phương đánh giá chất lượng đảng pháp viên:
-Trong buổi sinh hoạt chi bộ tiến hành đánh giá chất lượng đảng viên, đảng viên trình bày bản
tự kiểm điểm theo bốn nội dung đánh giá quy định như trên và tự nhận xếp loại trước chi bộ. Đối với
chi bộ tổ đảng thì đảng viên trình bày kiểm điểm trước tổ đảng, tổ đảng báo cáo nhận xét đảng viên
với chi bộ.
- Chi ủy nêu ý kiến nhận xét của mặt trận, ban chấp hành các đoàn thể, đại diện quần chúng
nhân dân, nhận xét của tổ đảng với đảng viên và gợi ý những vấn đề cần kiểm điểm rõ (nếu có).
- Đảng viên trình bày những nội dung được gợi ý kiểm điểm (nếu có).
- Chi bộ thảo luận, góp ý kiến cho đảng viên.
- Chi bộ bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết xếp loại đảng viên.
Xếp loại chất lượng đảng viên:
a). Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Là đảng viên phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao và phải có trên 2/3 số đảng viên chính thức bỏ phiếu tán thành. Nếu đảng viên là cán bộ,


cơng chức, viên chức đang cơng tác thì phải được phân loại cán bộ, cơng chức, viên chức “Hồn
thành xuất sắc nhiệm vụ” hoặc được đề nghị đạt danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở” hoặc trong
năm có thành tích xuất sắc được cấp bộ hoặc cấp tỉnh tặng “Bằng khen”.
Số đảng viên được phân loại “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” không vượt quá 15% số đảng

viên được phân loại “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” và đề nghị cấp trên khen thưởng; đối với chi bộ có
dưới 07 đảng viên thì khơng q 01 đồng chí; đảng bộ, chi bộ có thành tích đặc biệt xuất sắc thì số
đảng viên xuất sắc có thể tăng thêm nhưng khơng q 20% số đảng viên được phân loại “Hồn thành
tốt nhiệm vụ”.
b). Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ: Là đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
nhưng chưa đủ điều kiện đạt mức “Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” và phải có trên 1/2 số đảng viên
chính thức bỏ phiếu tán thành. Nếu đảng viên là cán bộ, cơng chức, viên chức đang cơng tác thì phân
loại cán bộ, cơng chức, viên chức phải đạt mức “Hồn thành tốt nhiệm vụ” trở lên.
c). Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ: Là đảng viên cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao và có
trên 1/2 số đảng viên chính thức bỏ phiếu tán thành. Nếu đảng viên là cán bộ, cơng chức, viên chức
đang cơng tác thì phân loại cán bộ, cơng chức, viên chức phải đạt mức “Hồn thành nhiệm vụ” hoặc
“Hồn thành nhiệm vụ nhưng cịn hạn chế về năng lực” trở lên.
d). Đảng viên khơng hồn thành nhiệm vụ:
Là đảng viên đang chấp hành kỷ luật của Đảng, chính quyền, đồn thể trong thời hạn 1 năm
hoặc vi phạm một trong các khuyết điểm dưới đây và có trên 1/2 số đảng viên chính thức bỏ phiếu
tán thành:
- Đảng viên khơng hồn thành nhiệm vụ chi bộ giao.
- Phân loại cán bộ, công chức, viên chức ở mức "Khơng hồn thành nhiệm vụ”.
- Vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm hoặc vi phạm khác ảnh hưởng
đến uy tín của tổ chức đảng và vị trí cơng tác của đảng viên đó.
- Không chấp hành phân công của tổ chức hoặc là nguyên nhân gây mất đoàn kết nội bộ.
* Thực trạng và các giải pháp?
Thực tế cho thấy trong những năm vừa qua, công tác đánh giá, xếp loại chất lượng, khen
thưởng tổ chức đảng và đảng viên ngày càng được thực hiện có nền nếp và chất lượng. Hằng năm,
trên cơ sở Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Ban Thường vụ Đảng ủy
Khối kịp thời Hướng dẫn kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở
đảng, đảng viên; nội dung, tiêu chí xếp loại chất lượng tổ chức đảng đã được lượng hóa cụ thể phù
hợp với tình hình đặc điểm của tổ chức đảng, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực; cũng từ đó các
cấp ủy đảng cơ sở, tập thể lãnh đạo các doanh nghiệp có cơ sở đề ra chủ trương, giải pháp phát huy
ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, điều hành, góp phần nâng cao năng lực

lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, người lao động trong tồn Đảng
bộ.
Tuy nhiên, qua thực tế trong q trình kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất
lượng tổ chức cơ sở đảng vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Công tác tự đánh giá, xếp loại của một
số ít cấp ủy cơ sở chưa chặt chẽ, chưa phản ánh đúng thực chất kết quả thực hiện nhiệm vụ của đảng
viên và tổ chức đảng nên phải điều chỉnh kết quả; việc đánh giá mức độ hồn thành chỉ tiêu nhiệm vụ
chính trị của các cơ quan, đơn vị và xếp loại của các tổ chức đồn thể có lúc cịn chậm nên có ảnh


hưởng đến tiến độ; tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình của một bộ phận đảng viên cịn hạn
chế thể hiện qua việc ngại góp ý, đặc biệt là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Từ những kinh nghiệm rút ra qua triển khai thực hiện trong những năm qua, để tiếp tục làm tốt
hơn nữa việc nâng cao chất lượng công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên
cuối năm 2016 và những năm tiếp theo, thời gian tới cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
- Tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp uỷ đảng và đảng viên về vai trị, vị trí và tầm quan trọng
của việc đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên cuối năm. Trong tổ chức kiểm điểm phát
huy dân chủ của cá nhân, vai trò của các tổ chức đoàn thể của cơ quan, đơn vị trong tham gia xây
dựng tổ chức Đảng, đóng góp ý kiến, phê bình cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu tổ chức
đảng, cơ quan, đơn vị.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ gắn liền với việc đẩy mạnh “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, từ đó nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần
đấu tranh tự phê bình và phê bình của đảng viên, qua đó phát huy ý thức trách nhiệm của mỗi đảng
viên trong góp ý xây dựng cho đồng chí, đồng nghiệp, xây dựng tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt.
- Thực hiện nghiêm túc việc phân cơng nhiệm vụ đảng viên, trong đó cần phân công cụ thể
nhiệm vụ của đảng viên ngay từ đầu năm để làm cơ sở đánh giá, xếp loại cuối năm.
- Nắm vững và thực hiện nghiêm túc các nội dung, phương pháp, yêu cầu, tiêu chí đánh giá,
quy trình đánh giá, xếp loại chất lượng, khen thưởng đảng viên và tổ chức đảng.
- Tăng cường, thực hiện tốt hơn công tác kiểm tra, giám sát ở đơn vị mình.

- Các Khối tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám
sát việc kiểm điểm, đánh giá, phân loại đối với tập thể và cá nhân các tổ chức cơ sở đảng trong Khối.
Chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng trong kiểm điểm phải tự phê bình và phê bình tập thể và cá nhân, có
kế hoạch và biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm.
Thực hiện tốt công tác đánh giá, xếp loại chất lượng, khen thưởng đảng viên và tổ chức đảng
hằng năm có ý nghĩa rất quan trọng; vì nếu thực hiện khơng tốt sẽ đánh giá khơng đúng thực chất, rơi
vào hình thức, giảm sút tinh thần phấn đấu của đảng viên và tổ chức đảng. Với việc thực hiện đồng
bộ các giải pháp nêu trên, tin tưởng rằng công tác đánh giá, xếp loại chất lượng, khen thưởng đảng
viên và tổ chức đảng hằng năm sẽ ngày càng đi vào chiều sâu, phản ánh thực chất kết quả thực hiện
nhiệm vụ của từng đảng viên và từng tổ chức đảng, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đảng viên trong tồn Đảng./.
Câu 3: Nêu thực trạng của cơng tác cán bộ? Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt công tác cán
bộ ?
Thực trạng:
Theo thống kê của Sở Nội vụ tính đến thời điểm 30/9/2014, tổng số cán bộ, công chức, viên
chức trên địa bàn tỉnh Đăk Nông là 20.151 người, trong đó Cán bộ, cơng chức khối Đảng là 962
người, khối
Nhà nước là 2168 người; viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập là 14.119 người, cán
bộ, công chức cấp xã là 1.497, cán bộ bán chuyên trách cấp xã 1.405 người.
Nhìn chung số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã cơ bản đáp ứng
được các yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia công tác quản lý, lãnh


đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, khơng ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo,
quản lý, điều hành, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.
Đa phần cán bộ, công chức viên chức của tỉnh đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ dặt ra, có
tinh thần trách nhiệm trong công việc, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ
luật và chấp hành sự phân cơng của tổ chức, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân và
góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ta trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế của
đất nước với nền kinh tế của thế giới.

Trong tình hình hiện nay, tỉnh ta ta đang có nhiều chuyển biến phát triển hội nhập nền kinh tế
quốc tế, đời sống nhân dân từng bước được nâng cao, xã hội ngày càng phát triển đã ảnh hưởng tích
cực và tiêu cực về nhiều mặt đến lực lượng cán bộ, công chức, viên chức, tạo sự chuyển biến lớn về
tư tưởng, đạo đức lối sống của cán bộ, cơng chức, viên chức do vậy đã có một bộ phận cán bộ, cơng
chức, viên chức có biểu hiện suy thối, thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống.
Có thể thấy những việc liên quan sai phạm về đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức
trong giai đoạn hiện nay xuất hiện chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: đất đai, xây dựng,
công an, kiểm lâm, y tế, giao thơng... Trong đó, có nhiều vụ việc cán bộ, công chức, viên chức vi
phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức
kiểm lâm, viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc"
phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành y tế lợi dụng vị trí việc làm vi phạm pháp luật,
vi phạm đạo đức nghề nghiệp, xâm phạm nhân phẩm, danh dự và thể xác của người khác; một số
cán bộ dự án "rút ruột" cơng trình xây dựng; một số cơng chức, viên chức thanh tra giao thông,
công an giao thông nhận tiền “mãi lộ” của lái xe và doanh nghiệp; một số cơng chức địa chính cố
ý sai phạm để trục lợi cá nhân; có cán bộ làm cơng tác đền bù, giải tỏa thiếu quản lý, tắc trách để
cấp dưới gây ra những sai phạm gây nhiều dư luận, bức xúc cho người dân; thậm chí cơng chức
làm cơng tác văn thư, lưu trữ của cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh cũng hách dịch, rề rà,
gây khó dễ cho các cá nhân đến liên hệ cơng tác... Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, cơng chức, viên
chức bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định, hướng
dẫn, giải thích cơng việc cho người dân một cách lịng vịng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt,
thiếu nhiệt tình và thiếu hẳn tính thân thiện hoặc thiếu nhiệt tình trong việc tiếp cơng dân.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh tăng cường công tác cải cách thủ
tục hành chính, giảm bớt thủ tục và thành phần hồ sơ, đây là một chủ trương, chính sách được nhân
dân đồng tình ủng hộ, hoan nghênh. Qua đó các cơ quan, đơn vị đã tiến hành thực hiện nghiêm túc,
bước đầu đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên qua một thời gian đã bắt đầu xuất hiện sự nhũng nhiễu của
một số cán bộ, công chức, viên chức, bắt đầu có việc yêu cầu bổ sung thêm một số thành phần hồ sơ
khơng có trong thủ tục hành chính, cơng tác tiếp cơng dân bị lơ là, hình thức; cơng chức làm cơng tác
địa chính hướng dẫn khơng đầy đủ, nhiều lần và có hiện tượng vịi vĩnh, ngâm hồ sơ nhằm mục đích
vụ lợi.
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, công tác tiếp xúc, tiếp nhận hồ sơ giải quyết công việc cho

nhân dân, một số cán bộ, công chức, viên chức tỏ rõ thái độ hách dịch, nhũng nhiễu khi giải quyết
cơng việc, gợi ý, vịi vĩnh trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh trách công việc, chưa thường xuyên học tập bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chun mơn, năng lực cơng tác hạn chế; một số đơn vị, tình trạng mất đồn kết nội bộ
vẫn cịn xảy ra, có biểu hiện cục bộ, kèn cựa địa vị, ganh tị, bè phái, lợi ích nhóm, trong thực hiện
nhiệm vụ chun mơn khơng phối hợp với nhau, làm việc theo kiểu “mạnh ai nấy làm” dẫn đến hiệu
quả công việc không cao.


Trong khi đó việc nhận xét đánh giá cán bộ, công chức, viên chức cuối năm các cơ quan, đơn
vị thực hiện chưa nghiêm túc, vẫn cịn mang tính hình thức, đánh giá chung chung và cả nể; công tác
thực hiện chế độ báo cáo không trung thực, bao che cho những cán bộ, công chức, viên chức vi
phạm.
Như theo thống kê báo cáo của các cơ quan, đơn vị năm 2013, về tình hình đánh giá cơng chức
cuối năm tỉ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cán bộ, cơng chức cấp huyện, tỉnh là 2,31%, hồn
thành tốt nhiệm vụ là 73,39%, hồn thành nhiệm vụ nhưng cịn hạn chế về năng lực là 24,31%. Đối
với cấp xã tỉ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là 6,1%, hoàn thành tốt nhiệm vụ là 63,62%, hoàn
thành nhiệm vụ nhưng cịn hạn chế về năng lực là 30,26%. Khơng có cán bộ, cơng chức, viên chức
khơng hồn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên trên thực tế dựa trên việc theo dõi, quản lý về cán bộ, công chức của Sở Nội vụ, số
cán bộ, cơng chức cấp tỉnh, huyện khơng hồn thành nhiệm vụ chiếm tỉ lệ 3,2%. Số cán bộ, cơng
chức cấp xã khơng hồn thành nhiệm vụ chiếm tỉ lệ 4,1%.
Như vậy, trên thực tế cán bộ, công chức, viên chức có vi phạm kỷ luật và bị xử lý kỷ luật, tuy
nhiên công tác đánh giá cuối năm các cơ quan, đơn vị vẫn đánh giá cán bộ, cơng chức, viên chức hồn
thành hoặc hồn thành tốt nhiệm vụ, ở một số đơn vị thủ trưởng đơn vị bị xử lý kỷ luật nhưng khi báo
cáo lên cấp trên cơ quan, đơn vị khơng báo cáo, do đó đã ảnh hưởng đến công tác thống kê báo cáo
chung.
Việc vi phạm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức đã gây ra những hậu quả
khó lường cho bản thân và nhân dân, trong đó chính người dân là người phải gánh chịu những
nhũng nhiễu, hách dịch, gợi ý vụ lợi... những điều đó đã gây nên sự bất bình của nhân dân, tạo dư

luận khơng tốt.
Ngun nhân
Nguyên nhân sự trì trệ, sách nhiễu, cửa quyền, suy thối đạo đức ở một bộ phận cán bộ, cơng
chức, viên chức trong bộ máy hành chính ở tỉnh ta chủ yếu tập trung vào một số nguyên nhân sau:
Việc triển khai Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước của các cơ quan, đơn
vị còn chậm, thiếu quyết liệt nên hiệu quả chưa cao.
Một số nơi người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự gương mẫu trong vấn đề
đạo đức lối sống và trách nhiệm trong công việc nên đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp dưới
trong thực thi nhiệm vụ.
Năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, công chức, viên chức còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được
yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một sốcán bộ, cơng chức, viên chức có năng lực cơng tác
nhưng phẩm chất đạo đức còn hạn chế trong việc thực hiện nhiêm vụ, công vụ gây ảnh hưởng xấu
đến hình ảnh của bộ máy cơng quyền.
Các cơ quan, đơn vị chưa có sự quan tâm đúng mức đối với việc giáo dục tinh thần trách nhiệm,
cũng như việc xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp vi phạm đạo đức cơng vụ chưa nghiêm nên chưa
thật sự có tính răn đe, làm gương.
Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế
quản lý, kiểm tra giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt
động của cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu
đồng bộ.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xun, và cịn mang tính hình
thức. Nhiều cán bộ, cơng chức, viên chức thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức.
Một số giải pháp để nâng cao chất lượng đánh giá và sử dụng cán bộ


Một là, xây dựng, cụ thể hóa tiêu chí đánh giá kết quả, hiệu quả hoàn thành chức trách, nhiệm
vụ và sự đóng góp thực tế của cán bộ đứng đầu các ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành.
Tiêu chí đo kết quả, hiệu quả hồn thành chức trách, nhiệm vụ và tiêu chí tín nhiệm của nhân
dân có mối quan hệ chặt chẽ và đều quan trọng, vì thế phải sớm xây dựng cụ thể hai tiêu chí này. Nên

chăng, tiêu chí để đánh giá người đứng đầu một ban Đảng thì chủ yếu là chất lượng, số lượng và hiệu
quả các tham mưu, đề xuất cho cấp ủy lĩnh vực phụ trách; tiêu chí đánh giá người đứng đầu các bộ,
ngành là hiệu quả, kết quả thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhưng quan trọng nhất là đề xuất
được chính sách mới về lĩnh vực được giao, tạo được sự đột phá hoặc góp phần quan trọng thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển; tiêu chí đánh giá bí thư cấp ủy một địa phương chủ yếu là sự ổn định chính
trị và tăng trưởng một số chỉ tiêu chủ yếu về lĩnh vực kinh tế - xã hội (năm sau cao hơn năm trước,
khóa sau cao hơn khóa trước), qua đó nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương.
Nếu đánh giá đúng hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn
vị của người đứng đầu sẽ làm chuyển biến được tình hình mọi mặt của đất nước. Đây cũng là cơ sở
quan trọng để bố trí, sử dụng cán bộ đúng, khắc phục được hiện tượng trong một số cấp ủy có cán bộ
“lên khơng xuống, vào khơng ra”.
Hai là, kiên quyết tinh giản biên chế, sắp xếp hợp lý tổ chức bộ máy gắn với cải cách tiền
lương để số cán bộ đang làm việc trong hệ thống chính trị được đảm bảo cuộc sống bằng thu nhập
chính đáng của mình.
Hiện nay, tổ chức bộ máy cịn cồng kềnh cần phải được đánh giá, rà soát để sắp xếp lại những
tổ chức trùng chéo chức năng, nhiệm vụ hoặc khơng thật sự cần thiết. Trên cơ sở đó tinh giảm mạnh
biên chế hành chính, sự nghiệp.
Tổ chức thực hiện một cách kiên quyết, hiệu quả đề án tinh giản biên chế gắn với cải cách tiền
lương. Đây là vấn đề lớn, hệ trọng vì “lợi ích là động lực trực tiếp”, nếu không được giải quyết sẽ là
một lực cản cho phát triển.
Ba là, tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý cán bộ và đánh giá cán bộ ở các cấp, các ngành.
Để có thể đánh giá sát đúng cán bộ, các cấp ủy đảng, các ngành cần đổi mới việc phân cấp
quản lý cán bộ một cách cụ thể. Ở Trung ương, Bộ Chính trị chỉ quản lý và đánh giá cấp trưởng các
ban, bộ, ngành Trung ương và Bí thư các tỉnh, thành ủy và đảng ủy trực thuộc; từ cấp phó trở xuống
giao cho người đứng đầu và cấp ủy các ban, bộ, ngành, đơn vị đó đánh giá. Tương tự các cấp khác
cũng nên phân cấp như vậy thì hiệu quả trong đánh giá, sử dụng cán bộ sẽ cao hơn. Công khai cho
nhân dân biết kết quả đánh giá người đứng đầu các cấp, các ngành. Trên cơ sở đánh giá cán bộ khách
quan, cơng tâm của cấp có thẩm quyền hàng năm để có thể thay thế kịp thời những người đứng đầu
các cấp, các ngành nếu sau 1 đến 2 năm khơng hồn thành nhiệm vụ, khơng nhất thiết chờ hết nhiệm

kỳ đại hội của Đảng.
Bốn là, tăng cường trách nhiệm đánh giá và sử dụng cán bộ của cấp có thẩm quyền và người
đứng đầu các cấp, các ngành, các đơn vị.
Cần nghiên cứu, tổng kết công tác quản lý, đánh giá cán bộ thời gian qua để đổi mới công tác
quản lý, đánh giá cán bộ tốt hơn. Đánh giá cán bộ chủ yếu là đánh giá kết quả, hiệu quả hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao, vì thế cơ quan tổ chức cán bộ phải tổng hợp số liệu thống kê, đánh
giá, phân loại các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, quốc phòng - an ninh từ các
ban, bộ, ngành đã làm hàng năm kết hợp với lấy ý kiến góp ý của nhân dân. Đồng thời, đổi mới cách
đánh giá cán bộ theo hướng khai thác, phân tích kết quả đánh giá từ các cơ quan chức năng và sự tín
nhiệm của nhân dân, vừa giảm được số lượng cán bộ theo dõi ban, bộ, ngành, địa phương, vừa nâng
cao được tính khách quan trong đánh giá cán bộ.


Cần bổ sung quy định trách nhiệm của người tiến cử, của cơ quan tham mưu và trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân trong việc đề nghị bổ nhiệm và ra quyết định bổ nhiệm cán bộ.
Năm là, phát hiện, xây dựng đội ngũ cán bộ có triển vọng.
Cán bộ có triển vọng chủ yếu được lựa chọn từ ba nguồn chính: Trước hết, là nguồn do nhân
dân phát hiện, tiến cử, giới thiệu. Đây là nguồn cán bộ phong phú nhất, do đó cần sớm xây dựng và
ban hành cơ chế để khuyến khích, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia giới thiệu những người hiền
tài cho Đảng, Nhà nước.
Nguồn cán bộ có triển vọng thứ hai là các học sinh, sinh viên thi đoạt giải cao ở các kỳ thi
quốc tế, quốc gia, thi đậu thủ khoa các trường đại học có bề dày truyền thống… Các cơ quan chức
năng như tổ chức, nội vụ cần tổng hợp, lập danh sách đội ngũ này hằng năm để theo dõi, tạo điều
kiện cho họ phát huy tài năng trên các lĩnh vực. Nhà nước cần có cơ chế đặc biệt cho nguồn cán bộ
có triển vọng này, trước hết là môi trường, điều kiện, phương tiện nghiên cứu, sáng tạo. Có phương
pháp để phân loại sở trường, nguyện vọng để đào tạo, bồi dưỡng các chuyên ngành, lĩnh vực công tác
cho phù hợp với tố chất và năng lực của họ. Qua hoạt động thực tiễn, nếu cán bộ nào hoàn thành tốt
các chức trách, nhiệm vụ được giao, có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, được cán bộ, đảng viên và
nhân dân tín nhiệm thì lựa chọn tạo nguồn cho cán bộ cấp chiến lược, các chức danh chủ chốt của
Đảng, Nhà nước.

Nguồn cán bộ có triển vọng thứ ba là do các cấp ủy đảng phát hiện, lựa chọn, giới thiệu. Đây
là nguồn cán bộ mà lâu nay Đảng, Nhà nước đã dày công xây dựng quy chế, quy trình để giới thiệu
nhưng cũng cần đổi mới cơ chế phát hiện nhân tài có hiệu quả hơn, góp phần nâng cao vị trí, vai trị
của cấp ủy các cấp.
Trên cơ sở tổng hợp ba nguồn cán bộ như đã phân tích ở trên, để lựa chọn những người tài đức
cho Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực, đội ngũ cán bộ này cần phải được bổ sung hàng năm và có
phương pháp, kế hoạch, định hướng phát triển để bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn và thực tiễn. Ngoài
tạo nguồn cán bộ chung cho cả hệ thống chính trị, cần có quy trình thực hiện quy hoạch, bồi dưỡng
cán bộ đối với một số chức danh cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước, một số bộ trưởng và thủ
trưởng cơ quan ngang bộ… để khi đảm nhận các chức vụ đó, cán bộ vừa có trình độ lý luận, vừa có
kinh nghiệm, thực tiễn lãnh đạo, quản lý đất nước.
Hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đang tổ chức đại hội, tiến tới Đại hội XII của
Đảng. Trong đánh giá công tác cán bộ bên cạnh những thành tích, kết quả đã đạt được, cần thảo luận,
nhìn nhận, đánh giá thẳng thắn những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém để đại hội Đảng sáng suốt lựa
chọn được nhiều người tài đức, có đủ phẩm chất, năng lực và nhân dân tín nhiệm, đảm nhận các công
việc do Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.
Câu 4: Vị trí, vai trị của sinh hoạt chi bộ?
Vai trò của sinh hoạt chi bộ ?. Vì sao cơng tác sinh hoạt của chi bộ là nhu cầu?
Ta có thể hiểu: Sinh hoạt chi bộ ở cơ sở là các hoạt động tập thể của toàn thể đảng viên hoặc
đại biểu để thảo luận và quyết định những vấn đề cần thiết, gồm các cuộc họp chi bộ thường kỳ (có
thể gọi là các cuộc sinh hoạt chi bộ thường kỳ), các hội nghị đảng bộ và đại hội đảng bộ, chi bộ.
Sinh hoạt chi bộ là hoạt động rất quan trọng, có vai trò và tác dụng to lớn đối với năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của chi bộ, đảm bảo cho chi bộ và đảng viên hoàn thành chức năng, nhiệm vụ
của mình. Sinh hoạt chi bộ giữ vai trị quan trọng trong công tác xây dựng Đảng được thể hiện ở
những vấn đề cơ bản sau:


1.2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ :
Chi bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ đảng, trực tiếp giáo dục, rèn luyện
đảng viên, phân công công việc và quản lý đảng viên, tiến hành các thủ tục kết nạp đảng viên, đưa

người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng…; tiến hành công tác cán bộ, thực hiện các nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Sinh hoạt chi bộ có vai trị, tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ
Đảng, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khẳng định và phát huy những mặt
mạnh, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và của chi bộ. Sinh hoạt chi bộ là
diễn đàn dân chủ phát huy tính sáng tạo của đảng viên để tìm chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm
vụ chính trị đạt hiệu quả. Qua sinh hoạt chi bộ trình độ mọi mặt của từng đảng viên được nâng lên và
đảng viên dần dần trưởng thành.
Do vậy, chất lượng sinh hoạt chi bộ là một trong những yếu tố quyết định sự
sống còn, sự tồn tại và phát triển của chi bộ. Không tổ chức sinh hoạt hoặc tổ chức sinh hoạt chi bộ
nhưng chất lượng sinh hoạt thấp thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ không thể được
nâng lên. Thực tiễn đã chứng minh, chi bộ trong sạch vững mạnh là chi bộ được duy trì thành nền
nếp sinh hoạt, có nội dung phong phú, thiết thực, có hình thức sinh hoạt đa dạng và có chất lượng.
1.2.2. Thực hiện nhiệm vụ chính trị của chi bộ thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên:
Chi bộ là nơi trực tiếp đưa ra đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, Chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên đến với nhân dân và tuyên truyền giáo dục để
nhân dân hiểu và trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện, đồng thời xác định nhiệm vụ chính trị và đề
ra các nghị quyết của chi bộ và tổ chức thực hiện.
Để nhiệm vụ chính trị, các nghị quyết của chi bộ, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước và nghị quyết, chỉ thị của tổ chức đảng cấp trên được thực hiện đạt kết
quả tốt phải tổ chức quán triệt, nhận thức sâu sắc và xác định các giải pháp khả thi, tạo nên sự thống
nhất ý chí của tồn thể cán bộ, đảng viên, từ đó làm chuyển biến nhận thức, tạo sự đồng thuận trong
nhân dân, đó là cơ sở để thống nhất hành động. đây là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi đường
lối chủ trương, nhiệm vụ chính trị, chỉ thị, nghị quyết đó.
Trong q trình tổ chức thực hiện tổ chức đảng còn phải sơ kết, tổng kết để lãnh đạo quá trình
tiếp theo đạt kết quả tốt hơn. Những hoạt động đó chỉ có thể đạt kết quả tốt trước tiên và chủ yếu nhờ
sinh hoạt chi bộ, phụ thuộc và được quyết định bởi chất lượng sinh hoạt chi bộ. Điều này lại phụ
thuộc rất lớn vào việc tổ chức sinh hoạt chi bộ.
1.2.3. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa chi bộ với nhân dân:
Chi bộ là cầu nối liền giữa đảng với nhân dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng

chính đáng của nhân dân để giải quyết kịp thời hoặc phản ánh lên cấp trên để giải quyết, trực tiếp đưa
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào nhân dân, tuyên truyền,
giáo dục để nhân dân hiểu và thực hiện. Các chi bộ, trực tiếp chăm lo đời sống mọi mặt của nhân
dân, là chỗ dựa vững chắc, là niềm tin của nhân dân. Thực hiện tốt những điều đó thì mối quan hệ
mật thiết
giữa Đảng với nhân dân ngày càng được tăng cường và bền chặt. Các chi bộ thực hiện tốt những điều
đó thì Đảng được dân tin, dân phục, dân yêu.
Để chi bộ hoàn thành tốt những yêu cầu nêu trên phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong
đó, sinh hoạt chi bộ có chất lượng là giải pháp quan trọng, có tác dụng nhiều mặt. Thơng qua sinh
hoạt chi bộ có chất lượng, chi bộ sẽ đề ra được những giải pháp quan trọng, khả thi nâng cao đời
sống của nhân dân, uốn nắn kịp thời những biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các biểu
hiện khác không đúng đắn đối với nhân dân. Điều đó làm cho quan hệ mật thiết giữa chi bộ, cán bộ,


đảng viên đối với nhân dân ngày càng tăng cường.
1.2.4. Đối với tổ chức đảng cấp trên :
Chi bộ vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hồn thành tốt nhiệm vụ thì tổ
chức đảng cấp trên vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chi bộ yếu kém, thậm chí yếu kém kéo dài
thì tổ chức đảng cấp trên không thể vững mạnh. Trên thực tế, chỉ cần một vài chi bộ yếu kém, có
nhiều vấn đề phức tạp đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
đảng cấp trên. Một số điểm nóng xảy ra ở cơ sở tại một số địa phương trong thời gian qua đã chứng
minh điều đó. Chi bộ là nơi tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên và
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủ
trương và các chỉ thị, nghị quyết ấy thành hiện thực. Vì vậy, sinh hoạt chi bộ có chất lượng là nhân tố
rất quan trọng để chi bộ có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Điều đó
góp phần quyết định sự vững mạnh của tổ chức đảng cấp trên và chỉ thị, nghị quyết của tổ chức đảng
cấp trên được thực hiện.
Như vậy có thể thấy, sinh hoạt chi bộ giữ vị trí quan trọng để tiến hành xây dựng nội bộ Đảng
và là diễn đàn dânchủ nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của đảng viên, xây dựng chủ trương, giải
pháp thực hiện nhiệm vụ chínhtrị ở cơ sở. Do vậy, chất lượng sinh hoạt của chi bộ là một trong nhữn

g yếu tố quyết định sức sống, sự tồn tại, pháttriển của Đảng. Không tổ chức sinh hoạt chi bộ hoặc tổ c
hức sinh hoạt chi bộ nhưng chất lượng sinh hoạt thấp thìchi bộ khơng thể hồn thành nhiệm vụ. Thực
tiễn cho thấy, những chi bộ trong sạch vững mạnh là những chi bộ đãduy trì nề nếp sinh hoạt đều đặn
, có chất lượng, đúng quy định với nội dung và hình thức sinh hoạt phong phú,thiết thực...
Vì vậy, củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ và tổ
chứcđảng cơ sở gắn liền với việc nângcao chất lượng sinh hoạt Đảng ở chi bộ. Đây là những vấn đề c
ần nắm vững và thực hiện.
Vì sao cơng tác sinh hoạt của chi bộ là nhu cầu?
Chi bộ là tế bào của Đảng, là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng đến với quần
chúng, nhằm tuyên truyền, vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “chi bộ là gốc rễ của Đảng”, “là đồn luỹ
chiến đấu của Đảng ở trong quần chúng”, “là cầu nối giữa Đảng và quần chúng”, “chi bộ mạnh tức là
Đảng mạnh”.
Sinh hoạt chi bộ là một chế độ đã được quy định trong Điều lệ Đảng, chi bộ sinh hoạt định kỳ
mỗi tháng một lần hoặc sinh hoạt đột xuất khi cần. Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là
nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chi bộ và là một nhân tố quyết định vai trò lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ, giúp đảng viên nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng và thực hiện chức
năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ.
Do đó, có thể nói rằng sinh hoạt chi bộ thực chất là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Cho nên, sinh hoạt chi bộ được xem là một trong những hoạt động chủ
yếu của chi bộ. Không sinh hoạt chi bộ, xem như chi bộ ngưng hoạt động. Chi bộ là nơi trực tiếp đưa
đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng ủy cơ sở vào quần chúng nhân dân và tổ chức thực hiện.
Sinh họat chi bộ có vai trò tác dụng to lớn đối với xây dựng nội bộ Đảng, củng cố, tăng cường sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng, khẳng định và phát huy những mặt mạnh, chỉ ra những sai lầm,
khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và của chi bộ, đảng bộ cơ sở. Sinh hoạt chi bộ là diễn đàn dân chủ
phát huy tính sáng tạo của đảng viên để tìm chủ trương, giải pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị. Qua
sinh hoạt chi bộ, trình độ mọi mặt của từng đảng viên được nâng lên, từng đảng viên trưởng thành.


Chất lượng sinh hoạt chi bộ là một trong những yếu tố quyết định sức sống, sự tồn tại, phát

triển của chi bộ. Không tổ chức sinh hoạt chi bộ hoặc tổ chức sinh hoạt chi bộ nhưng chất lượng sinh
hoạt chi bộ thấp thì chi bộ khơng thể hồn thành nhiệm vụ. Thực tiễn đã chứng minh, những chi bộ
trong sạch vững mạnh là những chi bộ duy trì thành nền nếp sinh hoạt chi bộ, có nội dung sinh hoạt
chi bộ phong phú, thiết thực, có hình thức sinh hoạt chi bộ đa dạng, sinh hoạt chi bộ có chất lượng
tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng
viên đều tốt ”. Để đạt được điều đó, phải đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình
mới.
PHẦN V.3
Câu 1: Tại sao phải phát huy vai trị của người có uy tín trong cộng đồng?
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội ln coi trọng và xác định, người có uy tín, già
làng, chức sắc tơn giáo tiêu biểu có một vị trí, vai trị quan trọng trong cộng đồng dân cư, bằng uy tín
và trách nhiệm đã tích cực tham gia vận động đồng bào thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Những người có uy tín đã tiên phong đi đầu trong công tác vận động, hướng dẫn đồng bào dân tộc
thiểu số tham gia phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, phịng chống tệ nạn xã hội, bài trừ thủ tục
lạc hậu, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự, an tồn xã hội, quốc phịng an ninh tại
địa phương, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong cơng tác xây dựng đời sống văn hóa mới,
tham gia phòng ngừa tệ nạn xã hội, bảo tồn phát huy các phong tục, tập quán văn hóa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc .
Người có uy tín là lực lượng nịng cốt đặc biệt và là cầu nối quan trọng giữa cấp ủy, chính quyền với
nhân dân ở địa phương trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Về tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; vận đông nhân dân hiến đất để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nông thôn mới:
Về giữ gìn an ninh trật tự, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.
Về phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nơng thơn mới.
Về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc.
người có uy tín trong cộng đồng là rường cột ,cầu nối truyền tải tâm tư, nguyện vọng của
người dân đến cấp ủy, chính quyền xã.

Câu 2: Nhiệm vụ của MTTQVN? Liên hệ thực tế địa phương về MTTQ cấp xã trong phối hợp
và thống nhất hoạt động xây dựng và cũng cố chính quyền, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở?
Trả lời:
* KNMTTQ: MTTQ là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trịxã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn
giáo, người VN định cư ở nước ngoài.
Nhiệm vụ của
MTTQ: Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh
thần trong nhân dân; tuyên truyền. động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; giám sát hoạt động
cảu các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; Tập hợp ý kiến, kiến nghị


của nhân dân để phản ánh, kiến nghị của Đảng và Nhà nước; Tham gia xây dựng củng cố chính
quyền nhân dân , cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; Tham
gia phát triển hữu nghị, hợp tác giữ nhân VN với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết ở cơ sở, MTTQ cần thực hiện nghiệp vụ về vận động
đồng bào các dân tộc và đồng bào các tôn giáo ở cơ sở.
* Nghiệp vụ vận động đồng bào các dân tộc:
- Nghiệp vụ vận động các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong công đồng các dân tộc.
Phát huy vai trị của mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân , Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân phối hợp thường xuyên chặt chẽ với các cơ quan nhà nước cùng các lực lượng và tổ chức
trên ddianj bàn hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đặc biệt là vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn. Vận động nơng dân xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, hợp
pháp. Đi sâu, đi sát để hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phát huy, nhân rộng những sáng kiến
tích cực, các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong cộng đồng các dân tộc, v.v...
Xây dựng Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh, thu hút được nhiều người tham gia các đoàn
thể, đảm bảo hoạt động thết thực, hiệu quả, đáp ứng lợi ích thiết thực của thành viên, đồn viên, hội
viên, không để đồng bào các dân tộc thiểu số bị lôi kéo làm các việc trái pháp luật.
Phát huy vai trị của người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Người có uy tín trong cơng
đồng các dân tộc. Người có uy tín trong cộng đồng có thể làm cán bộ xã, già làng, trưởng bản, thầy

cúng, đặc biệt là hai đối tượng già làng và thầy cúng. Già làng là người cao tuổi trong làng bản, trong
dòng họ và trong các dân tộc ở làng bản. Họ thường là người sống gương mẫu, am hiểu việc làng,
việc nước, phong tục tập quán, lễ nghi của dòng họ và của dân tộc mình hoặc các dân tộc khơng sống
trong làng bản; có khả năng và kinh nghiệm xử lý hài hịa, hiệu quả cơng việc, quan hệ dòng họ và
các dân tọc được dân cư trong làng kính trọng, suy tơn là “già làng” một cách tự nhiên, trên nguyên
tắc tự nguyện.
Từ hoạt động thực tế cho thấy, vai trị của già làng được trọng thị chính từ sự hiểu biết và sự
gương mẫu của họ, bằng khả năng, kinh nghiệm xử lý hài hòa giữa việc làng và việc nước, luật tục và
luật pháp, việc dòng họ và tộc người; họ biết thuyết phục và động viên, nói dân nghe, làm dân tin,
dân phục vụ và dân theo. Đây là “cầu nối” giữa Đảng , nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội với
người dân, làm cho nhiều việc được giải quyết “thấu tính đật lý”,v.v....
Trong giai đoạn hiện nay, thầy cúng vẫn còn có vai trị nhất định trong đời sống các dân tộc.
Họ là những người bảo trợ tinh thần cho làng bản, là nhân vật có vị trí quan trọng trong những buổi
cúng lễ chung công đồng và nhiều lễ nghi khác của các gia đình. Tại những buổi lễ lớn, thầy cúng
truyền tải nguyện vọng của cộng đồng đến thân linh phù hộ cho dân làng khỏe mạnh, mưa thuận, gió
hịa, mùa màng tươi tốt. Ngồi ra thầy cúng cón được coi là “thầy thuốc chữa bệnh” và là “nghệ sĩ
dân gian” của dân bản. Như vậy, ở một góc độ nhất định, thầy cúng đã góp phần bảo tồn di sản văn
hóa dân tộc. Tuy nhiên, những hoạt động mê tín, di đoan và lợi dụng trục lợi của một số thầy cúng
phải được xử lý thỏa đáng .
-Nghiệp vụ vận động nhân sĩ, trí thức , doanh nhân người Việt Nam ở nước ngoài: (các
đ/c xem phần này có phải đưa vào khơng?)
Trí thức là lực lượng nịng cốt trong cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, là nguồn lực trí tuệ quan
trọng của Đảng và Nhà nước, của dân tộc. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển.
Thục hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tự do tư tưởng trong hoạt động của trí thức. Tạo mơi
trường và điều kiện thuận lợi cho trí thức hoạt động. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng
phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến , có chính sách đặc biệt đối với nhân tài, các chuyên gia


đầu ngành. Củng cố và nâng cao các chất lượng hoạt động ccacs hội của trí thức. Củng cố, phát triển,
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa Học và

Kỹ Thuật Việt nam, Liên hiệp các Hội Văn Học, Nghệ Thuật Việt Nam từ trung ương đến cơ sở. Tạo
môi trường lành mạnh để phát huy năng lực sáng tạo và nâng cao phẩm chất đạo đức của trí thức.
Củng cố các hộ trí thức theo hướng nâng cao tính chuyên nghiệp , hiểu quả hoạt động nghề
nghiệp các dịch vụ xã hội, nhận thức chính trị và đạo đức nghề ghiệp và dịch vụ xã hội , nhận thức
chính trị và đạo đức nghề nghiệp cho hội viên của các tổ chức thành viên, đặc bệt là các hội viên trẻ.
Nghiên cứu thành lập các loại hình tổ chức hội trí thức phù hợp theo quy định của pháp luật thu hút,
khuyến khích động viên tri thức khoa học và cơng nghệ của VN ở nước ngồi, đặc biệt là nững tri
thức trình độ chun mơn caotham gia xây dựng đất nước. Đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng
chính trị giúp tri thức khoa học và cơng nghệ nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình đối với đất
nước, dân tộc.\
Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh
doanh, có trách nhiệm xã hội ca, có đủ năng lục trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp hoạt
động có chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, liên kết chặt chẽ…. Để vận động đội ngũ doanh
nhân có hiệu quả, trước hết cần nâng cao nhận thức của cán bộ đảng viên và nhân dân về vị trí vai trị
của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. tạo mơi trường sản xuất,
kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho doanh nhân trong sự phát triển KTXH. Đề cao đạo đức, văn hóa
kinh doanh, trách nhiệm xã hội, tinh thần dân tộc của đội ngũ doanh nhân, xây dựng quan hệ hài hịa,
ổn định, tăng cường sự gắn bó giữa doanh nhân và người lao động. Phát huy vai trò của các tổ chức
đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân như phòng thương mại và công nghiệp
VN, các hiệp hội doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và người sử dụng lao động VN. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân. Chú trọng công
tác phát triển Đảng xây dựng tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức, đoàn thể trong doanh
nghiệp.
* Nghiệp vụ vận động các chức sắc tôn giáo:
Trong pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo “chức sắc” là tín đồ có chứ vụ, phẩm sắc trong tơn giáo”.
Chức sắc tơn giáo là tín đồ tơn giáo, có chức vụ, phẩm hàm, có vị trí, vai trị lớn trong các hoạt động
lãnh đạo, quản đạo và truyền đạo, được cộng đồng, tổ chức tôn giáo suy tôn và thừa nhận. Do đó,
chức sắc tơn giáo chính là đối tượng đặc biệt quan trọng mà cơng tác tơn giáo phải có sự quan tâm
thường xuyên. Để vận động đồng bào các tôn giáo đạt hiệu quả, trước hết phải vận động tốt các chức

sắc tơn giáo vì họ có ảnh hưởng lớn đến các tín đồ tơn giáo. Do đó, phải tun truyền, giải thích
nhằm thuyết phục các chức sắc tơn giáo thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
chương trình phát triển kinh tế- xã hội, an ninh, quốc phịng ở địa phương; tham gia tích cực các
phong trào thi đua yêu nước, hợp tác và tham gia cùng chính quyền giải quyết các vụ việc phức tạp
nảy sinh trong thực tiễn quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Chức sắc tôn giáo là rường cột của mỗi giáo hội, người trực tiếp chăm lo đời sống văn hóa cao,
có sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý, luật lệ, lễ nghi tơn giáo. Vì vậy, đây là lực lượng có vai trị quan
trọng trong các hoạt động tơn giáo và có ảnh hưởng rất lớn đến đơng đảo quần chúng tín đồ. Hiện
nay, chức sắc tơn giáo tơn giáo ở nước ta đang có sự gi tăng về số lượng, chất lượng à hiện đại hóa
mạnh mẽ từ việc nâng cao trình độ thần học, giáo lý đến trình độ văn hóa nói chung. Phần lớn họ có
tinh thần dân tộc, đồng tình với lối sống “ tốt đời, đẹp đạo”, hoạt động theo hướng hành đọa tiến bộ,



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×