Phòng GD& ĐT Tĩnh Gia
Truờng THCS Xuân Lâm
BÀI VIẾT TẬP LÀM VĂN SỐ 3
Môn: Ngữ văn 9
Thời gian : 90 phút
Họ và tên: .......................................................
Điểm
Lớp: 9…….
Lời phê của giáo viên
ĐỀ BÀI
I. ĐỌC HIỂU (3điểm)
Đọc hiểu đoạn văn sau và trả lời câu hỏi
Một trò chơi truyền thống được phổ biến trong các lễ hội là kéo co, được tổ chức ở sân
đình hay bãi cỏ rộng giữa làng. Những người tham gia chia làm hai phe, đứng thành một
hàng đối nhau, cùng nắm sợi dây thừng, dây chão hay một cây sào tre hoặc người đứng sau
ôm lưng người đứng trước, còn hai người đứng đầu hàng của hai phe được đối phương
sang qua vạch mốc về phía mình là bên đó thắng. Kéo co thu hút nhiều người, Tạo khơng
khí hào hứng, sơi động, rèn luyện sức khỏe, tính kỉ luật, ý thức tập thể ở mỗi người. Chính
vì vậy, kéo co được đông đảo thanh , thiếu niên ưa thích.
( Trích văn bản trị chơi ngày xn, Ngữ văn 9 tập 1
NXB Giáo dục Việt Nam, 2012, trang 27)
Câu 1.Nêu phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn văn.( 0,5đ)
Câu 2. Đoạn văn trên đề cập đến vấn đề gì?( 0,5đ)
Câu 3: Dựa vào đoạn văn, hãy cho biết vì sao kéo co được đơng đảo thanh niên, thiếu niên
ưa thích?( 1)
Câu 4: Viết đoạn văn nghị luận (Khoảng 5- 7 câu) bàn về việc bảo tồn, giữ gìn và phát
huy các truyền thống văn hóa tốt đẹp ở quê hương em. ( 1đ)
II. TẠO LẬP VĂN BẢN (7điểm)
Câu 1: Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 ) trình bày suy nghĩ của em về tình trạng
học đối phó trong một bộ phận học sinh hiện nay.
Câu 2: Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trị truyện với người lính lái xe trong “Bài thơ về
tiểu dội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn về cuộc gặp gỡ và trị chuyện
đó.
BÀI LÀM
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………
ĐÁP ÁN- BIỂU CHẤM
Phần
Phần I: Đọc – hiểu (3
điểm)
Câu
Nội dung
Điểm
1
0,5
Phương thức biểu
đạt chủ yếu của đoạn
văn: Thuyết minh
0,5
2
Vấn đề đoạn văn đề
cập đến: Trị chơi
kéo co
Kéo co thu hút nhiều
người, tạo khơng khí
hào hứng, sơi động,
rèn luyện sức khỏe,
tính kỉ luật , ý thức
tập thể của mỗi
người
a, Đúng hình thức
đoạn văn ( mở đoạn,
phát triển đoạn, kết
đoạn).
- Trình bày nội
dung bằng một đoạn
văn nghị luận hoàn
(Khoảng 5- 7 câu)
b, Xác định được
vấn đề cần nghị
luận: Bàn về việc
bảo tồn, giữ gìn và
phát huy các
truyền thống văn
hóa tốt đẹp ở quê
hương em.
c, Nội dung:
- Nêu vấn đề cần
nghị luận
- Bày tỏ ý kiến về sự
việc, giữ gìn và phát
huy các truyền thống
văn hóa tốt đẹp ở
quê hương là việc
làm đúng, cần thiết,
cần triển khai thành
phong trào sâu rộng.
- Liên hệ bản thân:
Nâng cao nhận thức
và có những hành
động cụ thể để bảo
tồn, giữ gìn và phát
huy các truyền thống
văn hóa của quê
0,5
3
4
0,25
0,25
0,5
II.
TẠO
LẬP
hương
* Lưu ý: HS có
thể có những cách
trình bày lập luận
khác, nếu hợp lý,
thuyết phục vẫn cho
điểm,
d. Sáng tạo, cách
0,25
diễn đạt độc đáo , có
suy nghĩ riêng
e. Chính tả: Đảm
0,25
bảo những quy tắc
về chính tả, dùng từ,
đặt câu.
a, Đúng hình thức
đoạn nghị luận
(khoảng 200 ) trình 0,25
bày suy nghĩ
VĂN
BẢN
1
b, Xác định được
vấn đề cần nghị
luận: Tình trạng học
đối phó trong một
bộ phận học sinh
hiện nay.
c. Nội dung:
Đảm bảo được các
0,25
ý sau
1. Định nghĩa thế
nào là lối học đối
phó, :
Đó chính là 0,25
lối học gạo, học chỉ
để thuộc bài, học để
lấy điểm chứ không
lấy kiến thức. Tệ hại
hơn là việc học qua
loa, khi những kiến
thức được cung cấp
trên nhà trường chỉ
được học một cách
đại khái, khơng có
mục đích, mục tiêu
rõ ràng ...
2.. Đặc điểm của
0,25
việc học đối phó:
- Học trước, 0,25
quên sau
- Học 1 chỉ
biết 1, khơng liên hệ
được kiến thức trước
và sau đó.
Nghĩa là kiến
thức
được
học
khơng có sự liên kết
một cách hệ thống.
- Học khơng
có tính chất thực 0,25
tiễn, khơng liên hệ
để phục vụ cho việc
xây dựng kỹ năng
cho bản thân
- Học đối phó
cịn thể hiện rất rõ ở
việc: Khơng gây
hứng thú trong q
trình học, sinh ra
tâm lí chán nản thậm
chí là sợ hãi mỗi khi
nhắc đến
3.. Tác hại của việc
học đối phó:
Khiến
học
sinh chúng ta khơng
có đủ hành trang
kiến thức cho cuộc
sống sau khi rời ghế
nhà trường...
4. Học thế nào mới
khơng phải là đối
phó?
”Học để biết ,
học để làm , học để
chung sống, học để
tự khẳng định mình"
Chỉ khi xác
định được mục đích
của việc học thì
chúng ta mới khơng
học qua loa và đối
phó. Muốn vậy:
- Học mọi lúc
mọi nơi
- Học từ mọi
tình huống trong
cuộc sống
- Học
nhiều phương
Qua đài, báo,
các website
tuyến
bằng
tiện:
ti vi,
trực
- Học thầy,
học bạn...
5. Bài học cho bản
thân:
d. Sáng tạo, cách 0,25
diễn đạt độc đáo , có
suy nghĩ riêng về đối
tượng thuyết minh.
e. Chính tả: Đảm 0,25
bảo những quy tắc
về chính tả, dùng từ,
đặt câu.
a. Hình thức: Đảm 0,5
bảo cấu trúc của một
bài văn :Tự sự (kết
hợp sử dụng yếu tố
nghị luận + miêu tả
nội tâm)
- Bố cục rõ ràng, đủ
ba phần: Mở bài,
Thân bài, Kết bài.
2
b. Nội dung: Kể lại 5,0
cuộc gặp gỡ, trị
chuyện với người
lính lái xe trong tác
phẩm “Bài thơ về
tiểu đội xe khơng
kính” của Phạm Tiến
Duật.
u cầu:
Đây là một
bài văn tự sự,
thuộc kiểu bài kể
chuyện sáng tạo.
Vì vậy, trong q
trình làm bài, có
thể phát huy trí
tưởng tượng bay
bổng của mình.
Tuy nhiên, tưởng
tượng nhưng vẫn
phải hợp lí, phải
kể lại được diễn
biến các sự việc
chính như hồn
cảnh gặp gỡ, nội
dung cuộc trò
chuyện…
Mặt
khác, để bài yêu
cầu kể lại cuộc
gặp
gỡ,
trị
chuyện với người
lính lái xe trong
tác phẩm “Bài
thơ về tiểu đội xe
khơng kính” của
Phạm Tiến Duật
nên những hình
ảnh, sự việc, lời
tâm sự của em và
người lính ấy
phải phù hợp với
nội dung của bài
thơ. Sử dụng
ngôi kể thứ nhất
– xưng “tôi”.
Trước
khi viết bài văn
này, cần nắm
vững những đặc
điểm của hình
tượng người lính
lái xe trong tác
phẩm “Bài thơ về
tiểu đội xe khơng
kính” (những suy
nghĩ, tình cảm,
những đặc điểm,
phẩm chất…của
anh bộ đội trong
hồn cảnh chiến
tranh ác liệt); xác
định nhân vật
chính trong câu
chuyện kể là
người lính lái xe
và em – đồng
thời là người kể
chuyện. Từ đó,
hãy kể lại câu
chuyện của buổi
gặp gỡ.
Các yếu
tố miêu tả nội
tâm và nghị luận
được kết hợp
trong bài viết là
những suy nghĩ,
tình cảm của em
khi gặp gỡ người
chiến sĩ ấy, và
những suy nghĩ
của em về trách
nhiệm của thế hệ
trẻ hiện nay đối
với quá khứ và cả
tương lai của dân
tộc.
c. Dàn bài:
0,5
1. Mở bài: Trong
cuộc sống, có những
người ta chỉ gặp một
lần, chỉ trò chuyện
chốc lát những cũng
đã để lại nhiều dấu
ấn, tác động sâu sắc
đến cuộc sống chúng
ta. Thật may mắn và
tình cờ, tơi đã được
gặp gỡ và trị chuyện
với người lính lái xe
trong “Bài thơ về
tiểu đội xe khơng
kính” của Phạm Tiến
Duật. Cuộc gặp gỡ
và trò chuyện ấy đã
tác động rất nhiều
đến suy nghĩ và tình
cảm của tơi.
2. Thân bài:
- Kể lại tình huống
được gặp gỡ, trị
chuyện với người
lính lái xe (Nhà
trường tổ chức cho
lớp đi thăm nghĩa
trang Trường Sơn
ngày 27-7. Ở đó, tơi
được biết người
quản trang chính là
người lính Trường
Sơn năm xưa…)
- Miêu tả người lính
đó (ngoại hình, tuổi
tác, …)
- Kể lại diễn biến
cuộc gặp gỡ và trị
chuyện:
+ Tơi hỏi bác về
những năm tháng
chống Mỹ khi
bác lái xe trên
tuyến
đường
Trường Sơn.
+ Người lính kể
lại những gian
khổ mà bác và
đồng đội phải
chịu đựng: sự
khốc liệt của
chiến tranh, bom
đạn của kẻ thù là
xe bị vỡ kính,
mất đèn, không
1
0,5
1
0,5
mui.
+ Người lính kể
về tinh thần dũng
cảm, về tư thế
hiên ngang, niềm
lạc quan sôi nổi
của tuổi trẻ trước
bom đạn kẻ thù,
trước khó khăn,
gian
khổ
->
Những suy nghĩ
của bản thân (xen
miêu tả nội tâm +
Nghị luận)
3. Kết bài:
- Chia tay người lính
lái xe.
- Suy nghĩ về cuộc
gặp gỡ, trị chuyện:
+ Những câu
chuyện
người
lính kể cho tơi
nghe tác động rất
nhiều đến suy
nghĩ và tình cảm
của tôi.
+ Tôi khâm phục
và tự hào về thế
hệ cha ông anh
dũng, kiên cường
đánh giặc và làm
nên chiến thắng
vẻ vang.
+ Tôi thấm thía
hơn giá trị thiêng
liêng của chủ
quyền tự do, độc
lập mà dân tộc ta
đã đổ bao xương
máu mới giành
được.
+ Liên hệ với bản
thân: phấn đấu
học
tập,
tu
dưỡng.
d. Sáng tạo: có 0,25
cách diễn đạt độc
đáo;.
e. Chính tả, dùng 0,25
từ, đặt câu: đảm
chuẩn chính
chuẩn ngữ pháp
câu, ngữ nghĩa
từ
Tổng điểm
bảo
tả,
của
của
10,0
(Lưu ý: Giáo viên tùy vào nội dung làm bài của học sinh để cho điểm hợp lí).
Bài làm tham khảo
Giáo dục là một vấn đề được xã hội Việt Nam chú ý đến rất nhiều trong những
năm đầu của thế kỉ XXI. Mặc dù đây là một trong những ngành quan trọng bậc nhất của
đất nước và nhận được sự quan tâm rất lớn của chính phủ, nhưng nhưng khuất mắc, tiêu
cực trong ngành vẫn cứ tồn tại và lan rộng ra. Một trong những vấn đề lớn nhất, nổi bật
nhất chính là hiện tượng gian lận trong thi cử, kiểm tra, hay nói một cách khác là tình
trạng học đối phó, quay cóp bài của học sinh trong kiểm tra, thi cử.
“Học đối phó” là hiện tượng học sinh học bài chỉ để vượt qua một kì thi, một giờ
kiểm nào một cách gượng ép và khơng hề lưu giữ một tí gì về những thứ đã học sau lần
kiểm tra, lần thi đó. Cịn “quay cóp bài” là tình trạng học sinh xem bài của nhau hoặc
xem tài liệu trong giờ kiểm tra, thi cử. Nói một cách đơn giản hơn, đó là những hiện
tượng tiêu cực trong một nền giáo dục.
Và đáng tiếc thay, cái tiêu cực đó dường như đã trở thành “một phần tất yếu trong
cuộc sống” của học sinh thời nay và nó đang ăn sâu, lan rộng vào tiềm thức của những
người đang ngồi trên ghế nhà trường.
Xét về một mặt nào đó, những hành động này có thể cho họ lợi ích nhất thời, đó có
thể là những điểm tám, điểm chín,..trong các kì thi, kiểm tra chẳng hạn. Nhưng nếu ta xét
một cách toàn diên và sâu rộng hơn, thì cái lợi trước mắt đó sẽ lại là cái hại lâu dài cho
chính bản thân họ và cho cả đất nước, dân tộc. Khi những người học sinh thực hiện
những hành động tiêu cực đó, thì liệu khi họ rời khỏi ghế nhà trường nhà bước vào xã
hội, trong bộ óc của họ có chứa được một tý kiến thức nào để có thể chung sống với xã
hội hay không. Và liệu một dân tộc, một đất nước sẽ ra sao khi nền giáo dục của đất nước
đó, dân tộc đó chỉ tạo ra những con người trẻ tuổi với cái đầu rỗng tuếch và suy nghĩ dối
tra, tôi chắc hẳn rằng sẽ trở nên suy yếu đi, thậm chí là diệt vong.
Mọi thứ đều có ngun nhân của chính nó và những tiêu cực trên cũng thế.
Nguyên nhân trước hết chính là mỗi bản thân người học sinh đã không tự xác định được
học để làm gì và học như thế nào, từ đó suy nghĩ và hành động của họ trở nên sai trái là
đương nhiên. Nhưng ta cũng ko thể trách họ hoàn toàn được, làm sao họ có thể tốt được
khi mà những người thầy, người cô cứ mãi đếm tỉ lệ lên lớp, tỉ lệ tốt nghiệp,…khi mà
những người đứng đầu ngành cứ mãi loay hoay với những vấn đề “biết rồi, khổ lắm, nói
mãi” như cải cách sách giáo khoa, học phí,…khi mà….Và tất cả những thứ đó đã góp
phần tạo nên một hiện tượng tiêu cực phổ biến này.
Để có thể giải quyết một cách triệt để dc những hiện tượng trên, thì những vị lãnh
đạo của chúng ta cần phải có những chiến lược, mục đích thật sự đúng đắn và sáng tạo
cho ngành giáo dục, cùng với đó những người giáo viên phải truyền được cho học sinh
tinh thần học tập, phải cho họ thấy mục đích của học tập không phải là để trở thành “ông
này bà nọ”, để được “ăn sung mặc sướng”, để có cái bằng cấp vơ nghĩa,…mà là tích lũy
tri thức để có thể tồn tại, chung sống, phát triển và tự khẳng định mình. Và trên hết. bản
thân mỗi học sinh cần phải tự nỗ lực học tập, tự xác định được mục đích học tập và
phương pháp học tập hiệu quả, và nhất là phải để cho lòng tự trọng của mình lên tiếng
trước những cám dỗ của tiêu cực.
Hãy hành động ngay bây giờ, và đừng chờ đợi nữa. Nếu khơng, đến một lúc nào
đó, khi những sản phẩm thất bại này của ngành giáo dục bước ra xã hội và làm chủ đất
nước thì dân tộc ta, đất nước ta sẽ phải đứng bên bờ suy thoái, diệt vong
Kể lại buổi gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính
Nhân một chuyến đi thăm nghĩa trang liệt sĩ, tôi gặp người sĩ quan đang đứng thắp hương
cho người đồng đội đã mất.Tôi và người sĩ quan đó trị chuyện rất vui vẻ và thật tình cờ
tơi biết được người sĩ quan này chính là anh lính lái xe trong "Bài Thơ Về Tiểu Ðội Xe
Khơng Kính" của Phạm Tiến Duật năm xưa.
Người sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, những con
đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc lại là nơi ác liệt nhất. Bom đạn của
giặc Mỹ ngày đêm dội xuống những con đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện của miền
Bắc cho miền Nam. Trong những ngày tháng đó anh chính là người lính lái xe làm nhiệm
vụ vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược... trên con đường TS này. Bom đạn của giặc
Mỹ đã biến cho những chiếc xe của các anh khơng cịn kính nữa. Nghe anh kể, tôi mới
hiểu rõ hơn về sự gian khổ ác liệt mà những người lính lái xe phải chịu đựng ngày đêm.
Nhưng khơng phải vì thế mà họ lùi bước, họ vẫn ung dung lái những chiếc xe khơng kính
đó băng băng đi tới trên những chặng đường. Họ nhìn thấy đất, nhìn thấy trời, thấy cả ánh
sao đêm, cả nhưng cánh chim sa, họ nhìn thẳng về phía trước, phía ấy là tương lai của đất
nước được giải phóng, của nhân dân được hạnh phúc, tự do.
Người sĩ quan cịn kể với tơi rằng khơng có kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn lái
những chiếc xe đó, bụi ùa vào làm những mái tóc đen xanh trở nên trắng xóa như người
già, bọn họ cũng chưa cần rửa rồi nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! tiếng cười của họ
sao thật nhẹ nhõm. Gian khổ ác liệt, bom đạn của kẻ thù đâu có làm họ nản chí, sờn lịng.
Những chiếc xe khơng kính lại tiếp tục băng băng trên những tuyến đường ra trận, gặp
mưa thì phải ướt áo thơi. Mưa cứ tn cứ xối nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cứ ráng
lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua những chặng đường ác liệt, đảm bảo an toàn cho
những chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng, gió sẽ lùa vào rối áo sẽ khô mau thôi.
Khi được học "Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Khơng Kính" tơi cứ ln suy nghĩ rằng những
khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có nhân vật trong bài thơ mới vượt qua được nhưng đó là
những suy nghĩ sai lầm của tơi bởi được gặp, được trị chuyện với người chiến sĩ lái xe
năm xưa, tôi mới hiếu rõ hơn về họ. Họ vẫn vui tươi, tinh nghịch. Bom đạn của giặc Mỹ
ngày đêm nổ sát bên tai phá hủy con đường, cái chết ln rình rập bên họ nhưng họ vẫn
là những con người lạc quan, yêu đời. Anh sĩ quan lại kể cho tôi nghe trên những cung
đường vận chuyển đó anh ln được gặp những người bạn, những người đồng đội của
anh. Có những người cịn, có những người đã hy sinh... Trong những giây phút gặp gỡ
hiểm hoi đó, cái vắt tay qua ơ cửa kính vỡ đã làm cho tình đồng đội của họ thấm thiết hơn
rồi những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát, đôi đũa dùng chung, quây
quần bên nhau như một đại gia đình của những người lính lái xe TS. Rồi những giây phút
nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa, kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã
đi qua.
Sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong luôn đảm bảo cho những chuyến xe
thông suốt. Đúng là con đường của họ đang đi, nhiệm vụ của họ đang làm vô vùng nguy
hiểm. Bom đạn Mỹ hạ xuống bất cứ lúc nào, cả ngày lẫn đêm. Anh sĩ quan cịn nói cho
tơi biết những chiếc xe ấy khơng chỉ mất kính mà cịn mất cả đèn, rồi khơng có mui xe,
thùng xe rách xước, những thiếu thốn này không ngăn cản được những chiếc xe vẫn chạy
băng băng về phía trước, phía trước ấy là miền Nam ruột thịt. Nghĩ đến hình ảnh những
chiếc xe băng băng về phía trước tơi lại nghĩ đến những người lính lái xe. Họ thật dũng
cảm, hiên ngang, đầy lạc quan, có chút ngang tàng nhưng họ sống và chiến đấu vì Tổ
Quốc, vì nhân dân. Những chuyến hàng của họ đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân
tộc ta: chiến thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tơi và anh sĩ quan chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ và nói chuyện rất vui. Tơi khâm phục
những người lính lái xe bởi tình u nước, ý chí kiên cường của họ và tôi hiểu rằng thế hệ
chúng tôi luôn phải ghi nhớ công ơn của họ, cần phải phấn đấu trở thành công dân gương
mẫu, nắm vững khoa học, kĩ thuật để xây dựng một đất nước văn minh, hiện đại
Kể lại buổi gặp gỡ người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính mẫu 2
Hơm ấy, nhân ngày thành lập Qn đội nhân dân Việt Nam 22/12, trường tôi tổ chức cho
đi thăm quan Bảo tàng Lịch sử quân đội. Chúng tôi được chiêm ngưỡng biết bao hiện vật
lịch sử: những khẩu súng trường, mảnh vỡ của bom đạn, cùng với chiếc mũ tai bèo, chiếc
ba lơ con cóc thân thương... Đang tham quan, tơi nhìn thấy một chiếc xe tải, khơng kính
nằm thu mình ở một góc nhỏ."Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính...", bất chợt
những tứ thơ khẩu ngữ, khỏe khoắn từ "Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính" ấy vang lên
trong thâm tâm tơi. "Liệu đây có phải là cái xe ấy khơng?", đang băn khoăn, tôi bỗng
thấy một bác mặt áo bộ đội, đứng từ xa lặng lẽ quan sát xe. Từ từ bước đến bên, tôi lặp
bắp hỏi: "Bác là người lái chiếc xe này đó ư?". Bác quay sang tơi, mỉm cười: "Ừ, bác là
lính Trường Sơn năm xưa cháu ạ"...
Bác dẫn tôi tới quan sát chiếc xe gần hơn; lần đầu tiên, tôi được chiêm ngưỡng tận mắt
một chiếc xe tải quân sự. Quả lả một chiếc xe "trần trụi": khơng có kính, lại khơng có cả
đèn, khơng có mui, thùng xe lại còn xước. Sinh ra và lớn lên tại thủ đơ trong thời bình, từ
bé tơi chỉ bắt gặp những chiếc ô tô lành lặn, nước sơn sạch bóng, nội thất khang trang;
khơng ngờ một chiếc xe tróc sơn, hỏng hóc nặng nề như thế này vẫn có thể hiên ngang
lướt đi và mang theo biết bao súng đạn, lương thực chi viện. Thật là một chuyển động kì
diệu! Đang trịn mắt ngạc nhiên vì thán phục, bỗng bác chiến sĩ vỗ vai tôi, trầm giọng kể:
"Chiến trường khốc liệt lắm cháu ạ! Hằng ngày máy bay Mĩ trút hàng ngàn tấn bom đạn
cày xới, phá hoại Trường Sơn hòng cắt đứt chi viện của ta. Các trọng điểm lúc nào cũng
mịt mù khói lửa, bom rơi.
Ngày qua ngày, xe ln phải chịu những chấn động, rung xóc dữ dội". À đúng rồi, tại đế
quốc Mĩ xâm lược, tàn phá mà chiếc xe mới trở nên tan hoang. Tơi rùng mình trước cuộc
chiến thật vơ cùng gian nan, khốc liệt...Khuôn mặt bác trầm ngâm, đôi mắt hướng về
chiếc xe một cách xa xăm. Bỗng bác vụt giọng vui vẻ: "Nhưng mà xe khơng kính hóa ra
cũng có cái hay. Ta ung dung ngồi trong buồng lái, thoải mái phóng tầm mắt ra xung
quanh mà nhìn trời, ngắm đất, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ của rừng núi
Trường Sơn. Khơng có kính mà, gió cứ đùa chơi trong cabin, xoa vào đắng mắt. Nhưng
càng hịa mình vào thiên nhiên đất nước, bác lại càng thấy lòng mình sục sơi bầu nhiệt
huyết và lạc quan; lúc đó con đường khúc khuỷu ngoặt ngoèo vẫn còn đầy những chơng
gai phía trước, dường như rộng mở và tươi sáng hơn. Nó như chạy thẳng vào con tim,
khiến bác vừa hứng khởi hân hoan, lại vừa lao xao hồi hộp. Bác nhìn thấy cả những cánh
chim bay về tổ ban chiều; khi đó tâm trí lại bồi hồi, xao xuyến nhớ về cha mẹ, quê
hương. Màn đêm buông xuống, tuy khơng có đèn pha phía trước, nhưng trên bầu trời vẫn
có những vì sao rọi sáng, soi đường dẫn lối cho xe bác qua. Hướng mắt tới những ngôi
sao xa xơi, bác nao lịng nghĩ đến miền Nam ruột thịt đang mong đợi. Ôi, cháu ơi, mọi
thứ xung quanh cứ như sa, như ùa vào buồng lái". Tôi háo hức nghe bác kể chuyện.
Những người chiến sĩ lái xe quả thật kiên cường, dũng cảm.
Dù cho có ở trong chiến tranh khốc liệt, họ vẫn tràn đầy khí thế ung dung, lạc quan, thư
thái thả mình vào vẻ đẹp huyền diệu của núi rừng, để cho tâm hồn dạt dào, trào dâng bao
lãng mạn...Chợt nhớ ra những ý thơ "Không có...ừ thì...", tơi hỏi: "Thế khơng có kính,
bác đối chọi với thiên nhiên thời tiết ra sao?". Bác liền cười: "Cứ mặc kệ nó thơi, cháu ạ.
Khơng có kính, ừ thì bụi thật đấy. Bụi bẩn bắn từ đường lên sạm hết cả mặt, đến mái tóc
đen cũng trở nên trắng xóa như cụ già. Nhưng cứ để ngun; phì phèo châm điếu thuốc,
thấy mặt cứ ngồ ngộ, là lạ, bác bỗng bật cười. Khn mặt lấm cát bụi hóa ra lại vui! Thế
rồi cả những khi mưa to, đường rừng trở nên trơn trượt, lầy lội khiến bác dán mắt vào
từng đoạn đường, lái xe cẩn thận hơn; nhưng cùng lúc đó, mưa tn mưa xối qua chiếc
cửa kính vỡ kia làm bác ướt hết cả áo quần, mặt mũi. Trên đỉnh Trường Sơn này, có lúc
mưa lâm râm, nhưng nhiều khi lại trút xuống ào ào, thối đất thối cát.
Ô hay, mặt bác đã được rửa sạch trơn, nhưng áo quần lại ướt như chuột lột. Nhưng cịn
tâm trí đâu mà để ý đến những cái đó nữa. Mắt cịn mải mê với những cung đường ghập
ghềnh khúc khuỷu, con tim đập rộn ràng thúc giục vì miền Nam, bác tự nhiên quên đi
gian khổ. Mà lái trăm cây số nữa, kiểu gì mưa chả phải ngừng; nắng lên, gió lùa vào
buồng lái, áo khơ mau thôi!". Nụ cười rạng rỡ của bác làm cho tôi khâm phục.
Nụ cười ấy đã hiên ngang trong phong ba bão táp; kiên cường, dũng cảm bất chấp thời
tiết khắc nghiệt, những cung đường thử thách gian lao. Vì lí tưởng sống cao đẹp, vì tiếng
gọi của Tổ quốc thiêng liêng, các bác sẵn sàng chiến đấu, quên đi tất cả. Thế rồi tơi lại
hỏi:"Lái xe giữa rừng một mình thế này, bác có cảm thấy cơ đơn khơng?". Bác lại bật
cười: "Làm sao mà cô đơn được hả cháu? Bên bác cịn có trời đất, núi rừng Trường Sơn
nữa cơ mà. Với lại có phải một mình bác lái xe đâu, trên tuyến đường này vẫn còn biết
bao nhiêu chiếc xe khác ngày đêm chuyên chở vũ khí, lương thực.
Anh em đồng chí gặp nhau suốt dọc đường đi tới, trao cho nhau cái bắt tay. Chỉ một cái
bắt tay chớp nhống qua ơ cửa kính vỡ kia thơi, vậy mà khiến bác ấm áp cả con người,
như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Xe lại tiếp tục chạy, bầu trời càng tươi xanh.
Và rồi khi nghỉ giữa chặng xe, bác còn được quây quần bên bạn bè, đồng đội. Bên bếp
Hoàng Cầm, cùng chung bát đũa, mọi người thân tình, cởi mở, sẻ chia những vui buồn
cho nhau.
Nhiều khi tất cả cùng ca hát, mỉm cười rồi vỗ tay, truyền cho nhau nhiệt tình cách mạng
và u thương, xua tan đi khó nhọc. Tình đồng chí, đồng đội thật đẹp quá, cháu ạ!". Đúng
là đẹp thật! Quả đúng là "Chỉ cần trong xe có một trái tim"! Những người chiến sĩ cùng
chung niềm tin, lí tưởng, sát cánh bên nhau. Họ truyền sức mạnh và hơi ấm cho nhau, để
cùng nhau chiến đấu vì miền Nam ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe thật sinh động.
Nhân ngày Thương binh liệt sĩ ngày 27/07, tôi cùng bà đến nghĩa trang tỉnh, thắp nén
hương cho người ông đã hi sinh vì khói lửa chiến tranh. Mỗi lần đến đây, lịng tơi lại có
chút gì đó đượm buồn, hẳn đó cũng là tâm trạng của mọi người đang đứng tại nơi đây.
Tơi khẽ nhìn xung quanh, đứng cạnh tơi là một người lính đang khẽ cúi đầu trước một
nấm mộ. Bà và tơi cùng trị chuyện với chú ấy, và bất ngờ thay, chú chính là người lính
lái xe được miêu tả trong “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” mà tơi vừa mới học vào
tháng trước.