Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

DHTHBK6HOANG THI TRANGKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.83 KB, 5 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC – MẦM NON

KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1

HỌ VÀ TÊN: HOÀNG THỊ TRANG
LỚP: TIỂU HỌC B-K6
MÃ SỐ SV: 1161070103

NĂM HỌC 2018 – 2019


BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
I. Yêu cầu 1: Xem xét – đánh giá việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học
Tiếng Việt ở trường tiểu học (Nguyên tắc phát triển tư duy; Nguyên tắc giao
tiếp; Ngun tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH)
Trong thời gian 4 tuần kiến tập tại trường Tiểu học Trần Phú huyện
Trảng Bom vừa qua em đã được trực tiếp theo dõi và nắm bắt rõ hơn về phương
pháp dạy học thực tế ở trường tiểu học. Trên thực tế, giáo viên đã thực hiện dạy
học môn Tiếng Việt theo đúng 3 nguyên tắc: nguyên tắc phát triển tư duy;
nguyên tắc giao tiếp; ngun tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có
của HSTH.
1. Về nguyên tắc phát triển tư duy:
Trong các tiết dạy của GVHD, qua các câu hỏi mà cô đưa ra và yêu cầu
học sinh phải suy nghĩ, phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp…. thì các em
mới trả lời được, qua thao tác này cô đã rèn được cho học sinh các thao tác tư
duy. Đồng thời, chú ý rèn luyện cho các học sinh phẩm chất tư duy nhanh,
chính xác và tích cực.
Ví dụ: trong tiết Học vần lớp 1 bài EO-AO, học sinh được tham gia các


hoạt động kiểm tra bài cũ, phát hiện âm vần mới, tìm hiểu bài mới, các hoạt
động này được diễn ra liên tục, không bị ngắt quãng, bước chuyển tiếp giữa các
hoạt động được tổ chức nhanh chóng, tập trung được sự chú ý của học sinh. Học
sinh từ so sánh được các tiếng trong bài có điểm gì giống và khác. Học sinh cịn
có thể tự phân tích tranh ảnh, từ đó rút ra từ mới của bài học.
Giáo viên đã giải thích được cho học sinh hiểu những từ ngữ, kí hiệu, …
mà học sinh chưa hiểu. Ví dụ: các tiếng, các từ khóa, từ mở rộng trong bài học
vần EO-AO như: leo trèo, chào cờ, mỏ neo, ngôi sao,…
Giáo viên giúp học sinh mở rộng kiến thức về mơi trường, giáo dục tình
cảm yêu thương thông qua việc cho xem tranh minh họa các từ khóa và từ mở
rộng, yêu cầu học sinh chọn ra tranh mà mình thích nhất và trình bày lí do,
sau đó giáo viên chốt lại ý và giáo dục các giá trị có liên quan mà nội dung
bức tranh biểu thị.
2. Về nguyên tắc giao tiếp:


Trên thực tế hiện nay, nguyên tắc này rất quan trọng trong việc đánh giá
một tiết dạy đã hiệu quả, tích cực hay chưa.
Giáo viên đã tổ chức hoạt động nói cho HS trong tiết dạy Tiếng Việt,
nghĩa là giáo viên đã sử dụng giao tiếp cho học sinh nói với nhau, thi đua đọc
bài hay trao đổi ý kiến với nhau như một phương pháp dạy học chủ đạo ở tiểu
học.
Ví dụ: trong các hoạt động kiểm tra bài cũ ở đầu các tiết học, giáo viên tổ
chức trò chơi để chọn ngẫu nhiên một số học sinh lên thực hiện yêu cầu, khi
chọn ra được rồi thì những việc còn lại sẽ do học sinh thực hiện, học sinh đó sẽ
tự đọc ra yêu cầu của giáo viên và thực hiện, sau khi thực hiện sẽ tự điều khiển
mời bạn khác nhận xét và trả lời câu hỏi giao lưu( nếu có) rồi giáo viên mới
nhận xét lại và chốt ý. Ngồi ra, trong các hoạt động tìm hiểu bài mới, luyện tập
thực hành, vận dụng hay mở rộng, học sinh sẽ được tự lên trình bày ý kiến, bài
làm của cá nhân hay của nhóm và điều khiển các hoạt động giao lưu. Học sinh

sẽ được nhận xét phần trả lời của bạn và đặt ra các câu hỏi, nêu lên ý kiến cá
nhân.
Trong các hoạt động thảo luận nhóm đơi, nhóm 4, … học sinh có quyền
nêu ra ý kiến cá nhân nhằm thống nhất đáp án, câu trả lời cho yêu cầu của giáo
viên, qua đó các em rèn luyện được khả năng đánh giá và tự đánh giá. Ngoài ra,
các em học thêm được đức tính biết chia sẻ, lắng nghe,…
3.Nguyên tắc chú ý tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
tiểu học
- Ở nguyên tắc này, giáo viên đã thực hiện tương đối tốt. Đa số ở các
tiết học tiếng Việt, giáo viên đều tổ chức hoạt động dưới hình thức trị chơi, hoạt
động giải lao có sử dụng âm thanh, hình ảnh, đồ vật màu sắc, … phù hợp với lứa
tuổi học sinh ở từng khối lớp.
Ví dụ: Ở 1,2 cho học sinh xem video âm nhạc và hát hoặc lắc lư theo
nhạc; chơi trò chơi hái hoa, truyền đồ vật,… để chọn ra ngẫu nhiên một số em
trả lời các câu hỏi của giáo viên( câu hỏi có liên quan tới nội dung bài hát,…).
Lên khối lớp cao hơn thì học sinh được chơi các trị chơi về trí nhớ, làm
trái hiệu lệnh của cơ, … Các hoạt động này vừa thu hút được sự chú ý, hứng thú
học vừa giúp kiểm tra lại bài cũ mà không gây áp lực cho học sinh.
- Giáo viên cũng đã dạy học dựa trên trình độ tiếng Việt vốn có của học
sinh. Do trường ở khu vực tập trung dân cư ở nhiều nơi khác nhau đến sinh


sống, mỗi em có giọng quê hương khác nhau nên vốn từ của các em cũng có
nhiều khác biệt. Mỗi vùng có những từ địa phương các nhau nên trong quá trình
học xảy ra nhiều tình huống sư phạm, cùng một đồ vật nhưng có nhiều ý kiến
khác nhau về tên gọi. Ví dụ cái chén dùng để ăn cơm thì một số em lại nêu ý
kiến đó là cái bát,.. Trong tình huống này giáo viên đã nêu cho học sinh thấy
được những từ đó đều dùng để chỉ đồ vật nhưng một số từ được nêu là từ địa
phương và nêu ra từ chung, giáo viên không bác bỏ ý kiến của học sinh mà giải
thích rõ giúp học sinh hiểu nghĩa của từ và mở rộng thêm vốn từ,…

- Giáo viên đã tạo điều kiện cho học sinh hình thành lời nói hồn chỉnh
của mình trong các cuộc hội thoại giữa các em hay giữa giáo viên với học sinh,
hay trong các hình thức học khác nhau như cá nhân, lớp, nhóm, …
Ví dụ: trong các hoạt động thảo luận nhóm hay trình bày trước lớp, học
sinh sẽ được trình bày ý kiến theo cách hiểu, ngơn ngữ biểu đạt của bản thân,
không theo khuôn mẫu nhất định,…
II. Yêu cầu 2:
Qua quá trình kiến tập, được dự giờ các tiết mẫu và tập giảng ở lớp chủ
nhiệm em có những băn khoăn, thắc mắc là:
Tại sao giáo viên không nêu yêu cầu trước khi cho xem video? Ở phân
mơn Luyện từ và câu lớp 4, có một số bài giáo viên cho học sinh xem video
ngắn rồi yêu cầu tự đặt câu về nội dung video.
Ví dụ: Ở bài Luyện tập về động từ, sau khi kết thúc bài tập 3, học sinh đã
xác định được các từ bổ sung. Giáo viên cho xem video, sau khi kết thúc video
giáo viên yêu cầu đặt câu về nội dung video , trong câu đó có chứa từ bổ sung
vừa tìm được ở bài tập 3.
Theo em giáo viên nên nêu ra yêu cầu trước khi cho học sinh xem video
vì trong q trình xem có thể một số em sẽ không chú ý tới nội dung mà chỉ
quan tâm tới một số chi tiết như bạn nhỏ mặc áo màu gì, có mấy cái cây,…. Nếu
xem xong mới nói u cầu thì rất khó để học sinh nhớ lại được nội dung để có
thể đặt câu.
Có nên sử dụng powerpoint để hướng dẫn học sinh cách viết chữ hay
khơng? (có một trang powerpoint chỉ dẫn các nét viết chữ eo – ao)
Theo em không nên sử dụng powerpoint mà giáo viên nên viết mẫu lên
bảng, vừa nói vừa viết để các em theo dõi cách đặt bút, chỗ nào cần lia, chỗ nào


cần rê bút (vì nếu sử dụng powerpoint các nét chữ tuy đều, đẹp nhưng chưa
đúng quy trình, chưa giống với chữ viết chuẩn, nét chữ a phải lia bút để viết nét
móc và nối chữ a với chữ o

Ở hoạt động tìm hiểu nội dung bài ở phân mơn Chính tả dạng bài nghe –
viết, có nên để học sinh tự điều khiển hay khơng? Ví dụ: Chính tả lớp 3 Bài: “”,
giáo viên mời một học sinh lên điều khiển lớp tìm hiểu nội dung bài, đặt câu hỏi
và mời các bạn khác trả lời, tự các em nhận xét bài của nhau, người đúng nhận
được tràng pháo tay của cả lớp.
Theo em nên cho học sinh điều khiển hoạt động này nhưng sau khi học
sinh đã điều khiển xong hoạt động tìm hiểu thì giáo viên nên chốt lại ý đúng
(Trong tiết em được dự thì cơ khơng chốt mà chỉ cho học sinh tự tìm hiểu và
tuyên dương).
Ở các bài tập Luyện từ và câu, có nên cho học sinh làm bài bằng hình
thức chơi trị chơi thi đua đặt câu khơng? Ví dụ: Bài Luyện tập về quan hệ từ ,
bài tập 4 yêu cầu đặt câu với mỗi quan hệ từ sau: mà, thì, bằng.
Ở phân mơn chính tả lớp 3, có nên cho học sinh đọc đồng thanh bài chính
tả hay khơng? (Dạng bài nghe- viết)
Cảm ơn thầy đã đọc bài, nhờ thầy góp ý bài làm giúp em. Em xin chân
thành cảm ơn.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×