Sự trao đổi vật chất qua màng tế bào
Gs. Bùi Tấn Anh - Phạm Thị Nga
SỰ TRAO ÐỔI VẬT CHẤT QUA MÀNG TẾ BÀO
Có một lúc màng tế bào chỉ được xem như một cái túi chứa các vật chất hữu cơ tạo sự sống. Thật ra màng tế
bào rất khác một màng bao thụ động, màng có vai trị quyết định về sự chuyển động của tế bào, và tế bào trao đổi với
môi trường chung quanh. Hơn nữa, nó đóng vai trị căn bản điều hịa sự di chuyển của vật chất qua màng theo yêu cầu
của tế bào, và mơi trường ngồi khơng thuận lợi và thường xuyên bị phá vở. Tất cả các chất muốn vào ra tế bào đều
phải đi qua các kênh hay bơm theo một tỉ lệ và một hướng nhất định. Màng tế bào kiểm soát sự vào ra của các chất
bằng hai cách: bằng quá trình khuếch tán tự nhiên và bằng những cách chuyên chở đặc biệt.
I. KHÁI NIỆM VỀ SỰ KHUẾCH TÁN VÀ THẨM THẤU
1. Sự khuếch tán (diffusion)
Nhiệt độ ảnh hưởng lên tốc độ của những phản ứng hóa học do làm gia tăng động năng của các phân tử tham
gia. Tưởng tượng có một cái hộp có chứa các viên bi được gom vào một góc (Hình 1A). Khi ta lắc cái hộp, các viên
bi sẽ bị phân tán về khắp nơi của đáy hộp (Hình 1B). Có thể hình dung các viên bi là những phân tử, lắc là thêm vào
động hay nhiệt năng. Sự lắc làm phân tán các hòn bi tương tự sự di chuyển của các hạt vật chất nào đó đi từ vùng có
nồng độ cao đến vùng có nồng độ thấp hơn của vật chất đó, kết quả là những hạt vật chất có xu hướng phân phối cách
đều nhau trong một khoảng không gian nhất định. Khi mật độ gần như đồng đều, hệ thống được cân bằng nhưng các
hạt vẫn tiếp tục chuyển động, nhưng có sự thay đổi nhỏ trong hệ thống.
A
B
Hình 1. Mơ hình cơ học của sự khuếch tán
Sự chuyển động của các hạt với kích thước phân tử từ nơi này đến nơi khác theo cách trên được gọi là sự
khuếch tán. Chất khí khuếch tán nhanh nhất, rồi đến chất lỏng và cuối cùng là chất rắn. Trong một cơ thể sống, các
phân tử thường ở trong dung dịch lỏng, ấm và khoảng cách của phân tử được đo bằng những phân số của milimet nên
sự khuếch tán là một quá trình rất quan trọng; một acid amin hay một nucleotid trong môi trường lỏng sẽ khuếch tán
chừng bằng đường kính của một tế bào (10 - 50 (m) ít hơn 0,5 giây.
Trên đây là sự khuếch tán theo khuynh độ nồng độ. Tuy nhiên, trong cơ thể sinh vật, sự khuếch tán không đơn
thuần là do nồng độ mà còn tùy thuộc vào các điều kiện ít khi ổn định nơi mà các quá trình sống diễn ra. Ðiều này cần
thiết để hiểu được sự khuếch tán theo nghĩa năng lượng tự do của các phân tử tham gia.
Năng lượng tự do (free energy) là năng lượng trong một hệ thống có thể dùng để thực hiện một hoạt động nào
đó dưới một điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định. Năng lượng tự do được chứa trong các cầu nối cộng hóa trị của
đường như glucoz, hay một điện tử được hoạt hóa bởi năng lượng ánh sáng mặt trời lên một qũy đạo cao hơn, hay
trong vành đai bao quanh nhân của nguyên tử trong phản ứng hạt nhân.
Sự khuếch tán xảy ra một cách tự phát vì những phân tử sắp xếp có trật tự và có nồng độ cao có năng lượng tự
do cao hơn những phân tử phân tán. Một hổn hợp (hay sản phẩm) có năng lượng tự do thấp hơn các chất riêng rẻ ban
đầu (hay chất phản ứng). Tốc độ khuếch tán của hai chất nhanh nhất vào lúc bắt đầu phản ứng và chậm dần khi hổn
hợp tới mức cân bằng hồn tồn. Nếu có thể quan sát sự khuếch tán ở mức độ phân tử thì khi cho các viên đường vào
cà phê, lúc đầu các phân tử đường sẽ khuếch tán trong cà phê, sau đó khi các chất được trộn đều hơn, phản ứng ngược
lại sẽ bắt đầu tăng cho đến khi cân bằng; nhưng do năng lượng tự do của phản ứng sau thấp hơn nên phản ứng được
biểu diễn như sau:
Thật vậy, sự khuếch tán là một phản ứng hóa học với năng lượng tự do riêng của nó và nó tùy thuộc vào tính
chất của vật chất khuếch tán.
Năng lượng tự do là cơ sở có thể ứng dụng rộng rải hơn khuynh dộ nồng độ để hiểu sự khuếch tán. Khuynh
độ nồng độ một hướng và khuynh độ nhiệt độ theo chiều ngược lại. Hiệu quả trái ngược của hai khuynh độ tạo ra
chuyển động thực của phân tử hoàn toàn tùy thuộc vào năng lượng tự do của hai khuynh độ từ nơi có nhiệt độ cao
sang nơi có nồng độ cao. Trong hình 3.2, có hai bình cầu thơng nhau, bên Y với
Hình 2. Ða khuynh độ và năng lượng tự do
nồng độ cao hơn bên Z, nhưng nhiệt độ bên Z cao hơn nhiều so với
bên Y. Nếu chỉ có nồng độ là quan trọng, sự khuếch tán sẽ từ Y sang Z. Nhưng nhiệt độ cao làm gia tăng động nhiệt
của các phần tử trong hệ thống, và động nhiệt càng tăng, năng lượng tự do càng tăng. Do sự khác biệt về năng lượng
tự do kết hợp với khuynh độ nhiệt độ từ Z sang Y lớn hơn sự khác biệt về năng lượng tự do với khuynh độ nồng độ từ
Y sang Z nên sự khuếch tán sẽ từ Z sang Y.
2. Sự thẩm thấu (osmosis)
Trong hình 3 dùng một ống hình chữ U, đáy được ngăn cách bằng một màng thấm chọn lọc
(differentially/selectively permeable), màng này chỉ cho các phân tử nước đi qua. Giả sử bên A chỉ chứa nước và
bên B chứa dung dịch đường, cả hai ở cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất. Nếu màng chỉ cho nước đi qua mà
không cho các phân tử đường đi qua thì các phân tử nước sẽ qua lại được cả hai chiều. Ðầu tiên lượng chất lỏng ở hai
bên tương đương nhau (hình bên trái), hình giữa số lượng các phân tử nước va chạm vào màng phía bên A nhiều hơn
phía bên B, hình bên phải vì số phân tử dịch chuyển từ A sang B nhiều hơn từ B sang A nên mực chất lỏng bên A tụt
xuống trong khi bên B tăng lên.
Hình 3. Thi nghiệm mơ tả sự thẩm thấu
Sự di chuyển của một dung môi (thường là nước) xuyên qua một màng thấm chọn lọc được gọi là sự thẩm
thấu. Màng sinh học cũng là một màng thấm chọn lọc nên sự di chuyển qua lại của nước cũng theo kiểu thẩm thấu.
Một số chất hòa tan, như các phân tử nhỏ tan trong lipid cũng đi xuyên qua màng sinh học.
Ðầu tiên theo sự khuếch tán nước sẽ đi từ bên A qua bên B, vì nước tinh khiết có năng lượng tự do cao hơn
nước trong dung dịch đường. Năng lượng tự do của các phân tử nước bị giảm đi khi có sự hiện diện của những chất
thẩm thấu tích cực (osmotically active substance) như các hạt hòa tan hay các hạt keo lơ lững. Trong ống hình chữ U
sự giảm năng lượng tự do của phân tử nước tỉ lệ với nồng độ thẩm thấu (osmotic concentration). Nguyên nhân của sự
giảm này là do các hạt thẩm thấu tích cực làm mất trật tự sắp xếp của các phân tử nước. Do đó nước sẽ đi từ nơi có
nồng độ cao sang nơi có nồng độ thấp hơn. Nồng độ thẩm thấu của một dung dịch là số lượng của những hạt thẩm
thấu tích cực trên một đơn vị thể tích dung dịch.
Sau một thời gian mực chất lỏng bên B sẽ cao hơn trong A. Trong điều kiện bình thường mực nước này sẽ
dâng lên đến một mức nào đó thì dừng lại, lúc này cột chất lỏng có xu hướng bị kéo xuống do trọng lực, do áp suất
thủy tỉnh (hydrostatic pressure). Khi áp suất này tăng, năng lượng tự do của nước trong dung dịch đường cũng gia
tăng vì áp suất cũng là một dạng của năng lượng tự do, kết quả là nước sẽ di chuyển từ B qua A nhanh hơn từ A qua B.
Khi nước đi qua màng theo hai hướng ngược nhau với cùng một tốc độ, hệ thống ở trạng thái cân bằng động
với bên A có năng lượng tự do là tiềm năng thẩm thấu của nước tinh khiết và bên B có tiềm năng thẩm thấu và áp suất
thủy tỉnh.
II. SỰ THẨM THẤU
VÀ MÀNG TẾ BÀO
Màng tế bào cũng là một màng thấm chọn lọc, các quá trình khuếch tán và thẩm thấu là nền tảng cho sự sống
của tế bào. Tính thấm của màng thay đổi rất lớn tùy theo loại tế bào. Thí dụ màng của tế bào hồng cầu có tính thấm
đối với nước cao hơn trăm lần so với màng của Amoeba, một sinh vật đơn bào.
1. Tiềm năng thẩm thấu và áp suất thẩm thấu
Mỗi dung dịch đều có một năng lượng tự do nhất định, dưới một điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định, năng
lượng này có thể đo được và được gọi là tiềm năng thẩm thấu (osmotic potential). Nước tinh khiết có tiềm năng
thẩm thấu bằng khơng. Vì tiềm năng thẩm thấu giảm khi nồng độ thẩm thấu tăng nên các dung dịch có tiềm năng
nhỏ hơn khơng. Nước sẽ di chuyển từ vùng có tiềm năng thẩm thấu cao sang vùng có tiềm năng thẩm thấu thấp hơn.
Tuy nhiên, để dễ hình dung, khái niệm áp suất thẩm thấu (osmotic pressure) thường được sử dụng nhiều hơn.
Aïp suất thẩm thấu của một dung dịch là giá trị để chỉ lượng nước có xu hướng đi vào trong dung dịch bởi sự thẩm
thấu. Do đó dưới một điều kiện nhiệt độ và áp suất nhất định, nước sẽ di chuyển từ dung dịch có áp suất thẩm thấu
thấp sang dung dịch có áp suất thẩm thấu cao khi hai dung dịch được ngăn cách bởi một màng thấm chọn lọc.
2. Dung dịch ưu trương, nhược trương và đẳng trương
Trong dung dịch đẳng trương
Dung dịch ưu trương
Dung dịch nhược trương
Hình 4. Tế bào hồng cầu trong các dung dịch khác nhau
Tính thấm chọn lọc của màng tế bào giúp cho tế bào giữ được các đại phân tử tổng hợp được. Mặt khác, nước
có thể thẩm thấu qua màng tế bào, do đó khi đặt tế bào vào một dung dịch ưu trương (hypertonic), là dung dịch có
nồng độ của các hạt thẩm thấu tích cực cao; tế bào sẽ bị co lại (Hình 4). Nếu để quá lâu tế bào sẽ chết.
Ngược lại, nếu đặt tế bào trong dung dịch nhược trương (hypotonic), là môi trường chứa nhiều nước và có ít
các hạt thẩm thấu tích cực, nước sẽ thấm thấu vào làm tế bào phồng lên và có thể vỡ ra trừ khi tế bào có một cơ chế
nào đó có thể trục xuất nước ra khỏi tế bào hay có một cấu trúc đặc biệt ngăn cản sự trương phồng (như ở hầu hết tế
bào thực vật).
Tế bào ở trong môi trường đẳng trương (isotonic), là mơi trường có sự cân bằng về thẩm thấu với tế bào, vì
chúng có chứa cùng một nồng độ các hạt thẩm thấu tích cực, khi đó khơng có sự khác biệt về lượng nước đi vào và đi
ra khỏi tế bào.
Thật vậy, sự liên hệ về thẩm thấu giữa tế bào và môi trường chung quanh là một yếu tố quyết định đến đời
sống của tế bào. Các tế bào sống trong mơi trường đẳng trương thì sự thẩm thấu không là vấn đề nghiêm trọng như
các tế bào hồng cầu sống trong môi trường huyết tương (blood plasma). Nhưng ở một số thực vật và động vật sống
trong các đại dương cũng có nồng độ thẩm thấu gần như bằng với nước biển. Các sinh vật sống trong mơi trường
nước ngọt thì thường tích tụ nhiều nước trong tế bào do đó phải có cách để thải bỏ hoặc có các cấu trúc giúp cho nó
khơng bị trương phồng lên.
Thật ra sự di chuyển của nước chỉ là một vấn đề. Màng tế bào cịn phải kiểm sốt sự trao đổi qua màng rất
nhiều vật chất khác nhau, do đó phải cần rất nhiều cơ chế để vận chuyển khác nhau.
III. SỰ VẬN CHUYỂN VẬT CHẤT QUA MÀNG TẾ BÀO
1. Sự vận chuyển thụ động
a. Khuếch tán đơn giản
Một chất khuếch tán sẽ khuếch tán từ nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp hơn. Cách khuếch tán này
chỉ tùy thuộc vào khuynh độ nồng độ, cũng như khơng cần có sự tham gia của một tác nhân nào khác. Khuếch tán là
một q trình tự phát vì nó làm giảm năng lượng tự do và sự khuếch tán của một chất chỉ tùy thuộc vào khuynh độ
nồng độ của chính nó và khơng bị ảnh hưởng bởi khuynh độ nồng độ của những chất khác (Hình 5).
Hình 5. Mơ hình của sự khuếch tán đơn giản
Một trong những thí dụ quan trọng là sự hấp thu oxy của những tế bào đang thực hiện chức năng hơ hấp. Oxy
hịa tan khuếch tán vào trong tế bào qua màng tế bào, vì sự hơ hấp tiêu thụ oxy do đó sự khuếch tán oxy vào tế bào sẽ
liên tục vì khuynh độ nồng độ cho phép sự di chuyển theo hướng đi vào trong tế bào.
Sự khuếch tán của một chất qua màng tế bào được gọi là sự vận chuyển thụ động bởi vì tế bào khơng tiêu tốn
năng lượng cho q trình này. Trong q trình di chuyển các phân tử hịa tan khơng bị biến đổi hóa học cũng
khơng kết hợp với một loại phân tử nào khác.
Tuy nhiên, do màng tế bào là màng thấm chọn lọc nên tốc độ khuếch tán biến thiên theo các loại phân tử khác
nhau. Vận tốc tùy thuộc vào sự chênh lệch của khuynh độ nồng độ và tùy thuộc vào vận tốc khuếch tán qua vùng kỵ
nước của lớp lipid kép. Nước là phân tử khuếch tán một cách tự do xuyên qua màng, đây là một yếu tố rất thuận lợi
đối với đời sống của tế bào, ngồi ra có một số chất cũng được khuếch tán qua màng theo như cách trên như những
phần tử không phân cực như O2, N2 và những chất hòa tan trong lipid, còn những chất phân cực nhưng có kích thước
nhỏ như glycerol có thể đi qua màng phospholipid giữa các phân tử này.
b. Khuếch tán có trợ lực (facilitated diffusion)
Nhiều phân tử phân cực và các ion không thể khuếch tán qua màng phospholipid, khi đó phải có sự trợ lực của
những protein vận chuyển trên màng, hiện tượng này được gọi là sự khuếch tán có trợ lực.
Một protein vận chuyển có nhiều đặc điểm của một enzim. Vì có đặc điểm của một enzim nên chuyên biệt đối
với cơ chất của nó, một protein màng thì chuyên biệt đối với một chất mà nó vận chuyển và có những điểm gắn đặc
biệt tương tự như hoạt điểm của một enzim. Giống enzim, protein vận chuyển có thể bị bảo
hịa khi vận tốc vận chuyển đạt tới
Hình 6. Mơ hình sự khuếch tán có trợ lực
mức tối đa mà nó có thể thực hiện. Protein vận chuyển cũng có
thể bị ức chế bởi những phân tử giống như cơ chất cạnh tranh và gắn vào protein vận chuyển.
Tuy nhiên, không giống enzim, protein vận chuyển không xúc tác các phản ứng hóa học. Chức năng của nó là
xúc tác cho một q trình vật lý giúp sự vận chuyển được nhanh chóng.
Trong nhiều trường hợp protein kênh có thể thay đổi hình dạng đơi chút, chuyển vị điểm gắn các chất từ phía
này sang phía khác của màng (Hình 3.6). Sự thay đổi hình dạng có tác dụng như một lực đẩy để phóng thích chất
được vận chuyển. Một kiểu protein vận chuyển khác chỉ là một cái kênh đơn giản, cho phép đúng chất nào đó đi qua
mà thơi. Một số protein hoạt động như một kênh đóng mở. Các kích thích hóa học hay điện sẽ làm mở các cổng này.
Thí dụ, sự kích thích của tế bào thần kinh, làm mở cổng của kênh để trợ lực cho sự khuếch tán của ion Na+ vào trong
tế bào.
Ở một số bệnh di truyền, các hệ thống vận chuyển đặc biệt có thể thiếu hay khơng có. Thí dụ, như bệnh
cystinuria, một bệnh của người là do sự vắng mặt của protein vận chuyển cystein và những acid amin khác xuyên qua
màng tế bào thận. Tế bào thận thường tái hấp thu những acid amin này từ urin và đưa trở vào máu, những người mắc
bệnh trên bị đau đớn vì những hịn sỏi do từ những acid amin tích tụ và kết tinh trong thận.
Tuy có sự trợ lực của các protein vận chuyển, sự khuếch tán có trợ lực vẫn là sự vận chuyển thụ động vì các
chất vẫn đi theo chiều của khuynh độ nồng độ. Tốc độ khuếch tán tùy thuộc vào cơ chế vận chuyển của các protein
kênh nhưng không làm thay đổi chiều di chuyển của các chất được vận chuyển.
2. Sự vận chuyển tích cực (active transport
Hình 7. Mơ hình sự vận chuyển tích cực hai chất vào và ra khỏi màng
Một số protein có thể chuyển các chất đi ngược lại khuynh độ nồng độ của chất đó, xuyên qua màng tế bào
một chất từ nơi có nồng độ thấp đi đến nơi có nồng độ cao. Sự vận chuyển này tương tự như sự lên dốc. Ðể bơm các
chất đi ngược lại chiều của xu hướng khuếch tán theo khuynh độ nồng độ nên tế bào phải sử dụng năng lượng, vì thế
sự vận chuyển theo cách này được gọi là sự vận chuyển tích cực (Hình 7).
Sự vận chuyển tích cực là một khả năng quan trọng của tế bào để giữ lại trong tế bào một chất nào đó ở một
nồng độ rất khác với nồng độ của chúng trong mơi trường chung quanh. Thí dụ, nếu so sánh với môi trường chung
quanh, một tế bào động vật có thể chứa một nồng độ rất cao của ion K+ và rất thấp ion Na+. Mức khuynh độ này vẫn
giữ được là nhờ các bơm trên màng và ATP cung cấp năng lượng. ATP có thể tham gia vào sự vận chuyển bằng cách
chuyển một gốc phosphat cuối cùng vào protein vận chuyển. Sự gắn gốc phosphat này gây ra một cảm ứng làm cho
protein vận chuyển thay đổi hình dạng theo kiểu chuyển vị nơi gắn vào của các chất. Bơm ion Na+- ion K+ là một thí
dụ về sự trao đổi ion Na+ và ion K+ xuyên qua màng tế bào động vật .
Một bơm sinh ra được một hiệu điện thế xuyên màng được gọi là bơm sinh điện (electrogenic pump). Bơm
Na - K là bơm sinh điện chính của tế bào động vật. Ở thực vật, vi khuẩn và nấm bơm sinh điện là bơm proton,
chuyển ion H+ ra khỏi tế bào. Bơm proton vận chuyển điện tích dương từ tế bào chất ra mơi trường ngồi tế bào
(Hình 8).
Hình 8. Bơm sinh điện
Hình 9. Mơ hình sự đồng vận chuyển
Một loại protein vận chuyển khơng phải là bơm có thể kết hợp sự khuếch tán của một chất để vận chuyển một
chất đi ngược với khuynh độ nồng độ của nó. Thí dụ, tế bào thực vật dùng khuynh độ của ion H+ được sinh ra bởi
bơm proton của nó để vận chuyển tích cực acid amin, đường và vài chất dinh dưỡng khác vào trong tế bào (Hình9).
Những protein này có thể chuyển sucroz vào trong tế bào ngược với khuynh độ nồng độ, nếu nó kết hợp được
với ion H+ , ion H+ vận chuyển theo kiểu khuếch tán theo khuynh độ nồng độ đã được bơm ra nhờ bơm proton. Thực
vật dùng cách này để tải sucroz được tạo ra bởi sự quang tổng hợp đi vào trong những tế bào của gân lá, sau đó đường
có thể được đem đến mơ libe để vận chuyển đến các mô không quang hợp được như rễ.
IV. NGOẠI XUẤT BÀO (exocytosis)
Ðối với các đại phân tử như protein và polysaccharid, sự di chuyển qua màng theo một cơ chế khác. Sự thải ra các đại
phân tử qua màng tế bào được gọi là sự ngoại xuất bào. Các túi chuyên chở được tách ra từ hệ Golgi được mang đến
màng tế bào nhờ cytoskeleton. Khi màng của các túi chuyên chở và màng tế bào tiếp xúc nhau, các phân tử lipid của
màng đôi lipid sắp xếp lại. Sau đó hai màng phối hợp lại và trở nên liên tục và nội dung được chuyên chở trong túi
được thải ra ngoài .
Nhiều tế bào tiết dùng cách ngoại xuất bào này để thải các sản phẩm của chúng. Thí dụ, một số tế bào trong
tụy tạng tiết ra hormone insulin và đưa chúng vào máu bằng sự ngoại xuất bào này. Các tế bào thần kinh dùng cách
ngoại xuất bào để kích thích tế bào thần kinh khác hay tế bào cơ (Hình 11). Khi tế bào thực vật tạo vách, các
carbohydrate từ các túi chuyên chở từ Golgi được đưa ra ngoài màng tế bào cũng bằng cách này.
V. NỘI NHẬP BÀO (endocytosis)
Nội nhập bào là cách tế bào bắt lấy các đại phân tử hay các vật liệu bằng cách tạo ra các túi từ màng tế bào.
Có ba cách nội nhập bào: ẩm bào (pinocytosis), nội nhập bào qua trung gian của thụ thể và thực bào
(phagocytosis).
1. Ẫm bào
Trong sự ẩm bào, tế bào hớp từng ngụm nhỏ dịch lỏng bên ngoài tế bào trong từng túi nhỏ. Vì các chất phần
lớn được hịa tan trong các giọt được đưa vào trong tế bào nên sự ẩm bào là một kiểu vận chuyển khơng chun biệt.
Hình 12. Ẫm bào
2. Nội nhập bào qua trung gian của thụ thể
Sự nội nhập bào có sự tham gia của các thụ thể rất chuyên biệt. Gắn trên màng là những thụ thể với vị trí tiếp
nhận chuyên biệt lộ ra phía ngồi của màng. Chất bên ngồi tế bào gắn vào thụ thể được gọi là ligand (một từ chung
để chỉ phân tử đặc biệt gắn vào điểm tiếp nhận của một phân tử khác, từ tiếng Latin ligare có nghĩa là to bind: gắn).
Protein tiếp nhận thường tập họp trên một vùng của màng, tạo ra một cái lỏm (pit) có một lớp áo protein bao bọc (coat
protein).
Thí dụ, tế bào ở người dùng cách vận chuyển này để nhận cholesterol để tổng hợp màng hay dùng để tổng hợp
ra các steroid khác. Cholesterol ở trong máu dưới dạng những hạt nhỏ được gọi là low-density lipoprotein (LDL), một
phức hợp của lipid và protein, như vậy ligand ở đây là LDL. Phức hợp LDL gồm khoảng 2.000 phân tử cholesterol
kết hợp với một protein, protein này được gọi là apoprotein. Những hạt nhỏ này gắn vào thụ thể trên màng và sau đó
đi vào bên trong tế bào bằng sự nội nhập bào. Ở người có một bệnh tên là familial hypercholesterolemia là một bệnh
di truyền, với đặc điểm là có nồng độ cholesterol trong máu cao, là do khơng có thụ thể để tiếp nhận LDL nên
cholesterol khơng vào tế bào được. Cholesterol tích tụ trong máu, tạo ra hiện tượng mỡ trong máu (và khi tích tụ
nhiều làm xơ cứng thành động mạch).
3. Thực bào
Trong sự thực bào, tế bào tạo ra giả túc (pseudopodia) để bao lấy vật liệu là những mảnh vật chất to hay những
vi sinh vật hình thành một cái túi . Sự thực bào chỉ xảy ra khi protein thụ thể trên màng gắn với vật liệu phù hợp
giống như việc gắn cơ chất với enzim. Ở động vật có xương sống sự thực bào thường gặp ở những tế bào bạch cầu
(leucocyte) để tiêu hóa các mảnh vụn lớn hay những vi sinh vật.