TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH NGHỆ AN
TIỂU LUẬN HẾT MƠN HỌC
MƠN: ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH
Họ và tên: Lê Thanh Hải
Đơn vị công tác: Công ty Điện lực Nghệ An
Lớp: TCLLCT – HC K50.7
TP Vinh, ngày 30 tháng 10 năm 2021
1
TIỂU LUẬN
Mơn: ĐƯỜNG LỐI CHÍNH SÁCH
Họ tên học viên: Lê Thanh Hải
Lớp: TCLLCT – HC K50.7
Điểm
Chữ ký GVC 1: …………………...….……… Bằng số : …………………...….…………………
Chữ ký GVC 2: ……………………….……… Bằng chữ: ………………...….…….……………
Chủ đề:
Quan điểm của Đảng ta về thực hiện chính sách xã hội và việc thực hiện
quan điểm đó ở địa phương nơi công tác hoặc cư trú.
1
MỞ ĐẦU
Từ khi thành lập nước năm 1945 đến nay, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, đời sống
của nhân dân luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói “nếu nước độc lập mà dân ta vẫn đói, vẫn rét, khơng hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” và “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm nom đến đời sống của nhân dân”.
Tại Đại hội XIII, nhìn lại kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta
đã khẳng định. “Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội; quan tâm nâng cao phúc lợi xã hội cho
người dân... Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa
chiều giảm còn dưới 3%...” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
trang 65). Đặc biệt Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đề ra đường lối phát triển đất nước đến
năm 2045 với “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Theo đó, mục tiêu
đến năm 2025, nước ta trở thành “nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp”; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập
Đảng trở thành “nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”;
đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước “trở thành nước phát triển, thu nhập
cao”.
Đại hội XIII của Đảng đã khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Năm 2020 và những tháng
đầu năm 2021 trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh, song với sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị, chúng ta đã hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh
gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân, từng bước khôi phục sản xuất
kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề
ra. Việt Nam đã được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi
“mục tiêu kép” vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch thành công, vừa phục hồi phát triển
kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định trong những năm tới tiếp tục: “thực hiện tốt
chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”. (Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, trang 47). Điều này đã thêm một lần khẳng định an sinh xã
hội, an ninh con người được xác định là yếu tố xuyên suốt trong quá trình phát triển đất
nước trong thời gian tới. Mục tiêu này sẽ được hiện thực hóa với sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng vì hạnh phúc của nhân dân.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã thực hiện đề tài: “Quan điểm của Đảng ta về
thực hiện chính sách xã hội và việc thực hiện quan điểm đó ở địa phương nơi cơng tác
hoặc cư trú”. Nội dung đề tài này bao gồm các phần như sau:
Phần I: Nội dung. Một số vấn đề lý luận cơ bản về Chính sách xã hội.
Phần II: Liên hệ thực tiễn việc thực hiện quan điểm đó ở địa phương nơi công tác
hoặc cư trú.
Phần III: Kết luận.
2
PHẦN I. NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1. Khái niệm, vai trị và phân loại chính sách xã hội
1.1. Khái niệm và vai trị của chính sách xã hội
1.1.1. Xã hội và vấn đề xã hội
- Xã hội:
Thuật ngữ “xã hội” theo nghĩa rộng được sử dụng để chỉ tất cả những gì liên quan
đến con người, đến xã hội lồi người, nhằm phân biệt xã hội với giới tự nhiên. Học
thuyết Mác – Lênin coi xã hội không phải là tổng số các cá nhân mà là toàn bộ các quan
hệ xã hội giữa các thành viên tạo nên cộng đồng xã hội. Thuật ngữ “xã hội” theo nghĩa
rộng được thể hiện rõ trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh… con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển…”
Thuật ngữ “xã hội” theo nghĩa hẹp được sử dụng để chỉ khía cạnh xã hội phân biệt với
khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa trong đời sống của cong người. Thuật ngữ “xã hội”
theo nghĩa hẹp được thể hiện rõ trong đường lối của Đảng về phát triển xã hội, trong đó
nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện
tiến độ và cơng bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”.
- Vấn đề xã hội.
Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, vấn đề xã hội là những khó khăn, trở ngại của xã
hội cản trở hành vi, hoạt động xã hội, quan hệ xã hội và sự phát triển xã hội. Ví dụ, vấn
đề xã hội của hơn nhân và gia đình là vấn đề mâu thuẫn gia định, ly hơn và bạo lực gia
đình; vấn đề xã hội của việc làm là vấn đề thất nghiệp, thiếu việc làm, mâu thuẫn, xung
đột xã hội trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh.
Trong thực tiễn, mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội thường có những vấn
đề xã hội khác nhau. Tại hội nghị thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội ở
Copenhagen Đan Mạch (từ ngày 6 đến ngày 12-3-1995), báo cáo của Chính phủ Việt
Nam đã nêu ra 10 nhóm vấn đề xã hội cần phải quan tâm giải quyết để phát triển xã hội.
Đó là các vấn đề: xã hội trong kinh tế, gia đình, giáo dục, sức khỏe, an sinh xã hội, môi
trường và an ninh xã hội. Cụ thể là những vấn đề sau: (1) giải quyết việc làm; (2) xóa đói
giảm nghèo; (3) hịa nhập xã hội; (4) xây dựng gia đình phát triển bền vững; (5) phát triển
giáo dục; (6) dân số kế hoạch hóa gia đình; (7) chăm sóc sức khỏe nhân dân; (8) bảo trợ
xã hội; (9) môi trường; (10) hạn chế và ngăn ngừa các hành vi phạm tội.
Tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định quyết tâm giải quyết một số
vấn đề xã hội bức xúc như suy thoái đạo đức và lối sống, tệ nạn xã hội; đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng đã khẳng định: Trong
suốt quá trình đổi mới, ngay khi nền kinh tế cịn nhiều khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã
3
sớm thực hiện chủ trương phát triển đồng bộ kinh tế và xã hội, chú trọng kết hợp tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. luôn quan tâm xây dựng và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách xã hội; coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra
mục tiêu: Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; có giải
pháp quản lý hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết có
hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột xã hội.
1.1.2. Khái niệm Chính sách xã hội
Khái niệm “chính sách”. Hiện tại, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách,
song các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách tương đối nhất trí về những nội
dung cơ bản của khái niệm “ chính sách” như sau:
Chính sách là những quy định, quyết định đã được thể chế hóa bởi cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con
người, giải quyết những vẫn đề xã hội đang đặt ra, thực hiện những mục tiêu đã được xác
định.
Chính sách chính là những quy định, quyết định được đưa ra bởi các cơ quan có
thẩm quyền như Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Chính phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân
dân, các cơ quan quyền lực nhà nước và các cơ quan khác có thẩm quyền. Chính sách
kinh tế điều chỉnh những quan hệ về kinh tế. Chính sách chính trị điều chỉnh những quan
hệ về quyền lực của con người, của các tập đoàn người. Chính sách quân sự điều chỉnh
quan hệ về quân sự, cịn chính sách ngoại giao điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, các
dân tộc.
Có thể coi chính sách của Nhà nước là công cụ của các cơ quan nhà nước nhằm
điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người, của các tập đoàn người, giải quyết
nhứng vẫn đề xã hội đang đặt ra nhằm thực hiện những mục tiêu xác định của Nhà nước.
Khái niệm “chính sách xã hội”. Vận dụng quan niệm về chính sách vào lĩnh vực xã
hội, có thể nêu định nghĩa như sau: Chính sách xã hội là một loại chính sách do Nhà nước
ban hành, nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người, giải quyết những vấn đề
xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, cơng bằng, tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện
con người.
Định nghĩa này cho thấy, chính sách xã hội là một hệ thống những quy định, những
quyết định, những biện pháp của các cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh hành vi, hoạt
động và quan hệ xã hội để giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh trong q trình phát
triển. Chính sách xã hội cũng có mục tiêu tạo ra động lực phát triển xã hội và phát triển
con người. Chính sách xã hội góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng xã hội,
thực hiện cơng bằng xã hội, phát triển tồn diện con người. Như vậy, chính sách xã hội là
một công cụ hữu hiệu của các nhà lãnh đạo, quản lý nhằm tác động vào con người xã hội,
các chủ thể xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện cơng
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội.
4
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội có vai trị thúc đẩy
phát triển con người và xã hội như Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn, cơng
bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bên cạnh đó, Nghị quyết Trung ương 5
khóa XI chỉ rõ: Chính sách xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực
để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển.
1.1.3. Vai trị của chính sách xã hội với vấn đề xã hội.
Chính sách xã hội ln có mục đích sâu xa và mục đích trực tiếp trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Mục đích sâu xa của chính sách xã hội là thực hiện bình đẳng,
cơng bằng, tiến bộ xã hội và phát triển tồn diện cho mọi con người. Mục đích trực tiếp
là: Trợ giúp những con người, những nhóm xã hội bị những tác động không mong muốn
mà tự nhiên và xã hội mang lại, đảm bảo mức sống vật chất và tinh thần tối thiểu cho họ,
giúp họ vượt qua khó khăn, thiếu thốn, thiệt thịi khi gặp những tai nạn, rủi ro nào đó.
Từ một hướng tiếp cận khác, chính sách xã hội khơng chỉ nhằm mục đích phục hồi,
bù đắp, hỗ trợ, đảm bảo các điều kiện sống tối thiểu của con người mà còn nhằm tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nguồn lực con người, phát triển xã hội bền
vững. Tuy nhiên, hiện tại nhiều chính sách xã hội hiện nay vẫn chủ yếu là chính sách an
sinh xã hội, đảm bảo mức sống tối thiểu cho một số nhóm đối tượng yếu thế, thiệt thòi.
Do vậy, đang rất cần xây dựng và thực hiện những chính sách xã hội rộng rãi hơn, bao
quát hơn, tạo ra động lực và điều kiện phát triển con người và xã hội bền vững.
Chủ thể hoạch định chính sách xã hội là các cơ quan nhà nước. Song chủ thể thực
hiện chính sách xã hội phải bao gồm các cơ quan nhà nước, các đảng chỉnh trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, các đồn thể xã hội và cá nhân những người có khả năng, có thiện
tâm. Do vậy, để hoạch định và thực hiện tốt các chính sách xã hội, cần huy động sự tham
gia thực hiện của cả cộng đồng. Chỉ có như vậy, chính sách xã hội mới có thể được hoạch
định và thực hiện tốt nhất.
Chính sách nào cũng có đối tượng cần phải hướng vào phục vụ. Đối tượng phục vụ
của chính sách xã hội trước hét là những người thuộc các nhóm xã hội yếu thế, thiệt thịi
– nhóm cần phải trợ giúp xã hội. Tiếp theo là những người thuộc nhóm cần phải ưu đãi
xã hội – những người có cơng với cách mạng, với đất nước và những người có tài năng
đặc biệt, xã hội cần trọng dụng họ. Đối tượng thứ ba của chính sách xã hội là những vấn
đề xã hội đảm bảo cho sự phát triển của tất cả mọi người, của xã hội. FFó là nhóm những
chính sách xã hội nhằm đảm bảo xã hội, trong đó bảo hiệm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm nghề nghiệp và những hình thức bảo hiểm khác là những đảm bảo quan trọng, thiết
yếu mà mọi người sống, lao động, học tập, v.v.. rất cần.
Ngoài ra, những lĩnh vực khác đảm bảo cho đời sống của mỗi người , của mỗi cộng
đồng người ổn định hơn, an toàn hơn, phát triển bền vững hơn cũng cần được chú ý. Đây
là hệ thống những chính sách xã hội đảm bảo môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội
trong sạch, an tồn cho con người. Theo hướng này có thể chi tiết hóa những đối tượng
hưởng lợi từ các chính sách xã hội một cách cụ thể hơn cho từng nhóm xã hội, từng cộng
đồng xã hội nhất định. Ví dụ, đối tượng của chính ssách đảm bảo xã hội trong nhiều giai
5
đoạn phát triển sẽ phải đặc biệt chú ý đến người cao tuổi, phụ nữ mang thai, người cô
đơn, tàn tật và trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, v.v..
Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho
sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc
của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như:
điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe, v.v.. và ln gắn
chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi
quốc gia, dân tộc. Do đó, để có thể đề xuất, thực hiện, đổi mới và hồn thiện các chính
sách xã hội một cách có hiêu jquả, cần phải sử dụng các phương pháp tiếp cận khoa học
khác nhau nhằm cung cấp các dữ liệu thực chứng chính xác, kịp thời, đầy đủ từ các giai
cấp, tầng lớp, nhóm, cộng đồng, xã hội.
1.2. Phân loại chính sách xã hội
1.2.1. Các tiêu chí phân loại chính sách xã hội
Thực tế có nhiều cách thức, tiêu chí để phân loại chính sách xã hội. Tuy nhiên, cũng
cần chú ý rằng các cách phân loại chính sách xã hội chỉ mang tính tương đối nhằm giúp
cho chúng ta dễ nhận thức và có cách thức giải quyết và can thiệp phù hợp.
Dựa vào tiêu chí chủ thể của chính sách xã hội, chúng ta sẽ có: chính sách xã hội do
nhà nước trung ương ban hành và chính sách xã hội do chính quyền địa phương ban
hành; có chính sách do Đảng ban hành; chính sách do Chính phủ (các bộ, ban, ngành)
ban hành; chính sách do các tổ chức chính trị - xã hội ban hành.
Dựa vào tiêu chí phạm vu đối tượng hưởng lợi chính sách xã hội, chúng ta có loại
chính sách xã hội hướng đến toàn bộ các tầng lớp nhân dân trong xã hội và có loại chính
sách xã hội đặc thù cho từng nhóm xã hội: cơng nhân, nơng dân, thợ thủ cơng,sinh viên
trí thức, trẻ em, người già, thanh niên, phụ nữ, các dân tộc, các tôn giáo, những bậc lão
thành cách mạng, thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ Việt Nam anh hùng, v.v..
Dựa vào tiều chí nhiệm vụ cơ bản của chính sách xã hội, chúng ta có loại chính sách
xã hội hướng đến tái tọa tiềm năng nguồn nhân lực cho đất nước; có loại chính sách xã
hội hướng đến xây dựng nền tảng phát triển bền vững, hài hịa của đất nước; có loại chính
sách xã hội hướng đến trọng tâm là phát triển kinh tế; có loại chính sách xã hội hướng
đến trọng tâm là lĩnh vực văn hóa xã hội.
Dựa vào tiêu chí mức độ đóng góp về tài chính, sự tam gia của các chủ thể lien
quan, chúng ta có thể phân chia thành nhóm: nhóm chính sách xã hội ít được xã hội hóa
và nhóm chính sách xã hội được xã hội hóa nhiều, v.v..
1.2.2. Các loại chính sách xã hội
Thực tế do yêu cầu của thực tiễn xã hội mà hình thành các loại, số luwọng chính
sách xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay, do đặc thù là một đất nước đang phát triển chịu
nhiều ảnh hưởng bởi chiến tranh, thiên tai, v.v.. nên đã hình thành hàng loạt các chính
sách xã hội quan trọng và thiết yếu như: chính sách lao động – việc làm; chính sách giáo
dục – đào tạo; chính sách y tế; chính sách xóa đói giảm nghèo; chính sách bảo hiểm xã
6
hội; chính sách đối với người có cơng; chính sách bảo trợ xã hội; chính sách bình đẳng
giới; chính sách dân số; chính sách dân tộc; chính sách tơn giáo, v.v..
2. Tính tất yếu khách quan của việc thực hiện chính sách xã hội.
2.1. Thực hiện chính sách xã hội – một chỉ tiêu đánh giá sự ổn định, phát triển, tiến
bộ và văn minh của xã hội
2.1.1. Phát triển xã hội, tiến bộ xã hội và văn minh
Khái niệm “phát triển xã hội” trong giới nghiên cứu Việt Nam có ba quan niệm
khác nhau: (1) phát triển xã hội đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế và sự phát triển khoa
học, công nghệ; (2) phát triển xã hội là sự phát triển của cá nhân và tổ chức xã hội mà cá
nhân đó đang sống; (3) phát triển xã hội là sự phát triển tổng hợp đời sống vật chất và
tinh thần của cá nhân và cộng đồng.
Tán thành với loại quan niệm thứ ba, chúng tôi cho rằng phát triển xã hội không chỉ
thuần túy là sự phát triển của riêng lĩnh vực xã hội, mà là sự phát triển đồng thời của
phương diện xã hội thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
giáo dục, văn hóa, y tế, mơi trường, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế, v.v..) nhằm
bảo đảm cho con người được phát triển toàn diện và xã hội phát triển bền vững. Chỉ báo
đánh giá sự phát triển xã hội cơ bản là sự vận đồng lên một chất lượng mới cao hơn của
nền sản xuất xã hội, gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sự tái sản sinh các thế hệ
người, sự phát triển nhu cầu và phát triển ý thức (kiến thức) của con người.
Tiến bộ xã hội chỉ sự phát triển của xã hội tự trình độ thấp lên trình độ cao hơn.
Tiến bộ xã hội được biểu hiện trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội và biểu hiện tập
trung ở sự xuất hiện phương thức sản xuất mới, kiểu chế độ xã hội mới. Chẳng hạn, tiến
bộ về kinh tế, tiến bộ vè giáo dục và khoa học, tiến bộ về y tế và mức sống, v.v.. có thể
chưa phải là những mục tiêu tối thượng trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Tuy
nhiên, đó cũng là những tiêu chuẩn có giá trị phổ biến mà việc thừa nhận nó nói lên rằng,
dù có bị quy định bởi những điều kiện đặc thù đến mức nào đi nữa thì các dân tộc khác
nhau, các cộng đồng khác nhau cũng đeuè có những cái cung, cái phổ quát đặc trưng cho
sự tiến bộ của xã hội. Những tiến bộ xã hội không diễn ra một cách tự động, mà phụ
thuộc vào những chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Văn minh là sự kết hợp đầy đủ các yếu tố tiên tiến tại thời điểm xét đến để tạo nên,
duy trì, vận hành và tiến hóa xã hội loại người. Các yếu tố của văn minh có thể hiểu gọn
lại là di sản tích lũy tri thức, tinh thần và vật chất của con người kể từ khi lồi người hình
thành cho đến thời điểm xét đến. Đối nghịch với văn minh là hoang dã, man rợ, lạc hậu.
Khái niệm văn minh chỉ mang tính tương đối, có tính so sánh tại thời điểm xét đến mà
khơng có giá trị tuyệt đối. Việc ban hành và thực hiện chính sách xã hội nhằm giải quyết
tốt các vấn đề xã hội là nhằm góp phần hướng đến một xã hội văn minh.
Thực hiện tốt chính sách xã hội là một biện pháp tích cực, hiệu quả nhằm góp phần
thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng văn minh.
2.1.2. Các tiêu chí đánh giá sự ổn định, phát triển, tiến bộ và văn minh của xã
hội.
7
Các chỉ số xã hội của chính sách xã hội nhằm hướng đến ổn định, phát triển, tiến bộ
và văn minh của xã hội là: chăm sóc sức khỏe cộng đồng (tuổi thọ trung bình của dân cư,
v.v..); trình độ học vấn của dân cư là chỉ tiêu phản ánh chất lượng trí tuệ của đội ngũ lao
động và dân cư; mức sống về vật chất và tinh thần, trong đó gồm các chỉ số về tình trạng
đói nghèo, mức thất nghiệp, bất bình đẳng về thu nhập; phát triển kinh tế - xã hội bền
vững mà trong đó nội dung bền vững được hiểu là bền vững về các mặt kinh tế - tài
chính, mơi trường, chính trị - xã hội, quốc phịng – an ninh, và văn hóa, v.v..
2.2. Thực hiện chính sách xã hội là thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn liền với
giải quyết các vấn đề xã hội.
2.2.1. Các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế và hệ quả đối
với phát triển kinh tế.
Mặc dù trong chính sách kinh tế đã hàm chứa những giải pháp xã hội, nhưng nhiệm
vụ chủ yếu của nó là giải quyết những vấn đề kinh tế. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế,
bất cứ một giải pháp kinh tế nào cũng phải chú trọng đến hiệu quả kinh tế. Do vậy, chính
sách kinh tế, dù tối ưu đến đâu cũng khơng thể bao quát và giải quyết được tất cả những
khía cạnh phức tạp của lĩnh vực xã hội rộng lớn. Theo đó, những giải pháp kinh tế, nếu
khơng đi kèm theo các giải pháp xã hội nhất định sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
nhức nhối. Vì thế, cần phải có những chính sách xã hội nhất định để bổ sung cho chính
sách kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội xuất hiện trong quá trình tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội. Ngược lại, việc thực hiện các chính sách xã hội cũng có thể mâu
thuẫn với chính sách kinh tế. Bởi vị, việc thực hiện các chính sách này vượt quá khả năng
cho phép của nền kinh tế hoặc vi phạm những nguyên tắc cơng bằng trong kinh tế sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
2.2.2. Tính tất yếu phải giải quyết vấn đề xã hội trong quá trình phát triển kinh tế
Giải quyết các vấn đề xã hội phản ánh bản chất của một chế dộ của con người, do
con người và vì con người, một thuộc tính cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy,
việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn nhằm
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Những vấn đề xã hội Đảng
ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội
như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, đạo đức và văn
hóa, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và cộng đồng,
v.v..
2.3. Thực hiện chính sách xã hội là thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2.3.1. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa – cơng bằng và bình đẳng xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và lấy việc nâng cao
chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng luôn nhấn mạnh: Phát triển
kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi pháp giải quyết tốt những vấn
đề xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền vững dựa trên những yếu tố
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mơi trường vững chắc, v.v..
8
Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là công bằng xã hội. Công bằng xã hội là khái
niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi
quốc gia. Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công
bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy,
công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội.Những thước đo chủ yếu về cơng bằng xã hội là: chỉ số phát triển của con người
(HDI); đường cong Lorenz; hệ số GINI; mực độ nghèo khổ; mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ
bản của con người, v.v..
Công bằng xã hội là bản chất, là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà
chúng ta đang phấn đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một nước Việt Nam: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Khi hệ thống chính sách xã hội được
đúng đắn, cơng bằng thì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là bình đẳng xã hội. Bình đẳng xã hội ở đây
được hiểu theo nghĩa bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội. Có thể coi bình đẳng về cơ
hội là cách nói tắt của cụm từ bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội. Trong trường hợp
đó, bình đẳng về cơ hội có vai trị gì trong việc thực hiện công bằng xã hội? Ở đây, khái
niệm công bằng xã hội vẫn được hiểu theo nghĩa đã trình bày ở trên, nghĩa là những ai có
cống hiến ngang nhau thì đều được hưởng thụ ngang nhau. Đó là “thước đo” của công
bằng xã hội. Nhưng “thước đo” ấy chỉ “chuẩn xác” khi những người cống hiến này đều
được xuất phát từ cùng một vạch, tức là từ cùng một mặt bằng trong việc tiếp cận các cơ
hội. Điều đó có nghĩa là bình đẳng về cơ hội chính là tiền đề đảm báo có cơng bằng xã
hội thực sự.
2.3.2. Thực hiện chính sách xã hội theo nguyên tắc cơng bằng và bình đẳng xã
hội.
Thực hiện chính sách xã hội trước hết phải theo nguyên tắc công bằng xã hội. Bởi
vì, thực hiện cơng bằng xã hội vẫn là u cầu hàng đầu, đó chính là một trong những
động lực mạnh mẽ nhất của sự tăng trưởng kinh tế và đòng thời là một trong những yếu
tố quan trọng nhất quyết định sự ổn định xã hội. Tuy nhiên, cũng cẫn lưu ý rằng thực hiện
được công bằng xã hội khơng có nghĩa là đã thực hiện được bình đẳng xã hội, nhất là
thực hiện được bình đẳng xã hội hồn tồn.
Thực hiện bình đẳng xã hội là một trong những nguyên tắc và mục tiêu hướng đến
của quá trình xay dựng và phát triển đất nước Việt Nam theo định nướng xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù khi chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường thì việc bất bình đẳng xã hội
là điều khơng tránh khỏi. Tuy nhiên, chấp nhận sự bất bình đẳng xã hội ở mức độ nào
mới là vấn đề quan trọng. Vì vậy, cùng với chủ trưởng tiếp tục khuyến khích các hộ làm
giàu hợp pháp, Nhà nước cũng đồng thời đang mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xóa
đói, giảm nghèo khá hiệu quả được đề ra từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay,
trong đó tập trung xóa đói ở nơng thơn, giảm nghèo ở cả nơng thơn lẫn thành thị. Bằng
việc thực hiện các chính sách ấy, chúng ta đang tiếp tục thực hiện có hiệu quả một phần
9
của yêu cầu “định hướng xã hội chủ nghĩa”, tức là từng bước giảm thiểu mức độ bất bình
đẳng xã hội.
2.4. Thực hiện chính sách xã hội là phát huy đạo lý truyền thống của dân tộc Việt
Nam và thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế.
2.4.1. Giải quyết vấn đề xã hội theo truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam
Truyền thống là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực
hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của cộng đồng
người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang
đời khác và được lưu giữ lâu dài.
Truyền thống của người Việt Nam trong giải quyết vấn đề xã hội là: Lá lành đùm lá
rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều; một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn, v.v..
2.4.2. Vấn đề xã hội và giải quyết vấn đề xã hội trong thời đại ngày nay.
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu do bản chất xã hội của lao động
và quan hệ giữa người với người. Đồng thời, sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập.
2.4.3. Cam kết mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam
Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, hay còn gòn là Mục tiêu Thiên niên kỷ bao gồm
8 mục tiêu được 189 quốc gia thành viên liên hợp quốc nhất trí phấn đầu đạt được vào
năm 2015. Những mục tiêu này được ghi trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của liên
hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8-9-2000 tại
trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc và được bổ sung trong phiên họp lần thứ 62, tháng
10/2007:
- Triệt để loại trừ tình trạng bần cùng (nghèo cùng cực) và thiếu ăn;
- Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học;
- Nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ;
- Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em;
- Cải thiện sức khỏe bà mẹ;
- Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác;
- Đảm bảo sự bền vững của mơi trường;
- Tăng cường quan hệ dối tác tồn cầu cho phát triển.
3. Quan điểm và một số chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
3.1. Một số quan điểm cơ bản về hoạch định và thực hiện chính sách xã hội
3.1.1. Quan điểm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
- Chính sách xã hội phản ánh quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt
Nam.
Theo quy định của Điều lệ Đảng và Hiến pháp năm 2013, Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong khi đó, việc hoạch định và thực hiện hệ
10
thống chính sách pháp luật là một nội dung cơ bản trong hoạt động của Nhà nước và xã
hội. Do vậy, việc hoạch định và thực hiện hệ thống chính sách xã hội phải đảm bảo
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, phản ánh và thể hiện được quan điểm, đường lối của Đảng
liên quan đến chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước trong từng
giai đoạn, thời kỳ.
Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội đã được Nhà
nước thể chế hóa khá đầy đủ, kịp thời thơng qua hệ thống pháp luật hiện hành. Việt Nam
đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng và thực hiện Nhà nước pháp quyền, do vậy việc ban
hành và thực hiện hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phải tuân
thủ và dựa trên cở sở các quy định của hệ thống pháp luật. Hệ thống chính ách xã hội
phải đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Đổng thời, Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dây cho nên hệ thống chính sách xã hội
được thể chế hóa thơng qua hệ thống pháp luật cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc: của
dân, do dân, vì dân. Việc ban hành và thực hiện chính sách xã hội là một hoạt động và
mục tiêu cơ bản hướng đến của Nhà nước Việt nam.
3.1.2. Quan điểm giai cấp
Bất kỳ một nhà nước nào cũng là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp, trong khi
đó, chính sách xã hội lại là một loại công cụ điều hỉnh các quan hệ xã hội nhằm không
ngừng thúc đẩy xã hội phát triển và tiến bộ. Do vậy, quá trình hoạch định và thực hiện
chính sách xã hội ln thể hiện chính chất giai cấp. Cụ thể là:
- Tính liên minh cơng – nơng – trí thức.
- Đảm bảo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội.
3.1.3. Quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển là một trong những nguyên tắc quan trọng của phương pháp
biện chứng mácxít. Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhạn thức sự vật phải xem
xét nó trong sự vận động, biến đổi, phải phân tích các sự vận động phức tạp của sự vật,
tìm ra khuynh hướng phát triển cơ bản của chúng để cải biên sự vật phục vụ cho nhu cầu
của con người. Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển chính là nguyên lý về sự phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
3.1.4. Quan điểm hệ thống
Hệ thống là một tập hợp những mối tương tác giữa các bộ phận theo thời gian. Hệ
thống bao gồm nhiều yếu tố, nhưng nhiều yếu tố không phải là hệ thống khi chúng chỉ là
một tập hợp hỗn loạn, mất trật tự. Sử dụng quan điểm hệ thống trong hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội sẽ giúp chugns ta hiểu là mọi sự việc luôn có mối tương quan
nhiều chiều, phi tuyến tính, chúng do tác động nhiều yếu tố: xã hội, văn hóa, kinh tế,
nhân văn, v.v.. chi phối.
3.1.5. Quan điểm khoa học
Nguyên tắc này khơng chỉ địi hỏi đối với hội dung của các quy định của hệ thống
chính sách xã hội mà cịn địi hỏi đối với cả hình thức thể hiện của chúng. Về nội dung
các quy định của chính sách xã hội phải được xây dựng trên cơ sở những thành tựu khoa
11
học mới nhất, về hình thức bố cục, cấu trúc, cách thức trình bày các nội dung văn bản
chính sách, v.v. phải mang tính khoa học. Xây dựng chính sách xã hội trên cơ sở khoa
học chính là điều kiện để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả thực tế của các văn bản, quy định
của chính sách xã hội.
3.2. Chính sách xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách hiện nay.
3.2.1. Chính sách xã hội đối với người có cơng
Trong nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, Đảng đã khẳng định tầm quan trọng và
cần phải thực hiện tốt chính sách xã hội đối với người có cơng. Trước đó, Nhà nước Việt
Nam đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có cơng năm 2005, sửa đổi năm 2012. Cả nước
hiện có khoảng 8,8 triệu người có cơng, chiếm khoảng 10% dân số, trong đó có khoảng
1,4 triệu người có cơng và thân nhân được hưởng trợ cấp thường xuyên với mục tiêu là
đảm bảo mức sống của người có cơng bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân
cư trên địa bàn. Cùng với chính sách ưu đãi người có cơng, cái đối tượng tham gia các
thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được hưởng các chế độ, chính
sách và hỗ trợ của Nhà nước, cộng địng. Các thiết chế chăm sóc người có cơng, tri ân
các anh hùng, liệt sỹ ngày càng hoàn thiện và được quan tâm đầu tư. Cơng tác tìm kiếm,
quy tập hài cốt liệt sỹ được chú trọng, thể hiện tinh thần “Hiếu nghĩa bác ái”, “Uống nước
nhớ nguồn’ của dân tộc ta trong điều kiện mới.
3.2.2. Chính sách dân số
Trong giai đoạn đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quan tâm thực
hiện có hiệu quả chính sách dân số. Trong vòng khoảng 20 năm trở lại đây, Đảng và Nhà
nuwóc đã ban hành một loạt các nghị quyết, chỉ thị, pháp lệnh như Nghị quyết Trung
ương 4 khóa VII về Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Chỉ thị 52 của Ban bí
thư về thực hiện Nghị quyết Trung ướng 4 về dân số - kế hoạch hóa gia đình; Pháp lệnh
dân số năm 2003 và sửa đổi năm 2008; Các Chiến lược dân số - kế hoạch hóa gia đình/
Sức khỏe sinh sản giai đoạn 1993-2000, giai đoạn 2001-2010, giai đoạn 2011-2020, v.v..
3.2.3. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tệ nạn xã hội.
Để giải quyết hiệu quả và bền vững những vấn đề liên quan đến tệ nạn xã hội (sử
dụng ma túy, mua bán dâm, bạo lực gia đình,…), trong những năm vừa qua Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết và đạo luật, ví dụ như: Nghị quyết Trung
ường 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước; Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư khóa Ĩ về Xây dựng
gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, v.v.. Điều này khẳng định quyết
tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống các tệ nạn
xã hội.
3.2.4. Chính sách giải quyết việc làm
Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề thực hiện chính sách giải quyết việc
làm cho người lao động, trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban
hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và các văn bản pháp luật. Ví dụ, Nghị quyết số 15-NQ/TW
ngày 01-6-2012 của Ban Chấp hành Trung ường khóa XI về một số vấn đề về chính sách
xã hội giai đoạn 2012-2020; Bộ luật Lao động 2012; Chiến lược phát triển nguồn nhân
12
lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020; v.v.. Có thể khẳng định, chính sách lao động, việc làm,
tiền lương, thu nhập của Việt Nam đã từng bước khuyến khích và phát huy cao nhất năng
lực của người lao động.
3.2.5. Chính sách đáp ứng dịch vụ xã hội: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thơng
tin
Có thể khẳng định, trong những năm vừa qua, quan điểm của Đảng và phát luật của
Nhà nước đối với hệ thống chính sách xã hội dành cho lĩnh vực giáo dục, y tế, nước sạch,
thông tin đã khơng ngừng được hồn thiện. Điều này được thể hiện trong Nghị quyết số
15-NQ-TW ngày 01-6-2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề
về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020; Luật Giáo dục 2005 và sửa đổi bổ sung năm
2009; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020; Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo của Việt Nam; v.v..
3.2.6. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Đảng và Nhà nước Việt Nam ln nhất qn về chính sách giảm nghèo bền vững đi
đối với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Chính sách xóa đói giảm nghèo được Đảng và
Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và giải quyết có hiệu quả từ những năm 1990.
Dước sự lãnh đạo của Đảng, các mơ hình xóa đói giảm nghèo đã được triển khai sơi động
trong tồn quốc. Sau đó, xóa đói giảm nghèo từ phong trào trở thành chương trình mục
tiêu quốc gia là Chiến lược phát triển đất nước (1998-2000 và 2001-2005). Từ năm 2006
đến nay, chính sách xóa đói giảm nghèo chuyển sang hướng: tập trung tồn diện, có trọng
điểm và hội nhập quốc tế thông qua xây dựng và thực hiện chương trình Mục tiêu quốc
gia giảm nghèo. Hiện nay, giảm nghèo bền vững trở thành một trong những nhiệm vụ xã
hội cấp thiết.
3.2.7. Chính sách xã hội đối với người có hồn cảnh khó khăn
Chính sách xã hội đối với những người có hồn cảnh kho khăn là sự trợ giúp cá
nhân, nhóm người mất hoặc thiếu điều kiện lao động, điều kiện sống bình thường do gặp
phải những rủi ro gây ra. Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã từng
bước hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách xã hội đối với người có hồn cảnh khó khăn.
Chẳng hạn, ban hành Nghị quyết số 15-NQ-TW ngày 01-6-2012 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Trước
đó, Chính phủ đã ban hành các nghị định: Nghị định số 177/1999/NĐ-CP về việc ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ xã hội, Quỹ từ thiện; Nghị định số
07/2000/NĐ-CP về chính sách cứu trợ xã hội; Nghị định số 25/2001/NĐ-CP ban hành
Quy chế thành lập và hoạt động của cơ sở bảo trợ xã hội; v.v..
13
PHẦN II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM ĐĨ Ở ĐỊA
PHƯƠNG NƠI CƠNG TÁC HOẶC CƯ TRÚ
1. Tình hình thực hiện của cả nước
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực
hiện các chính sách xã hội; coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền
vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Điều đó cũng bác
bỏ những ý kiến sai trái cho rằng Nhà nước ta thiếu quan tâm đến quyền con người.
Thực vậy, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI) chỉ rõ: “Chính sách xã hội có vai trị
đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi
giai đoạn phát triển”. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội,
tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội,
không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình
đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống
con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và
ln gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào q trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã
hội của mỗi quốc gia, dân tộc.
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã nhận
thức ngày càng cụ thể, đầy đủ hơn tầm quan trọng, mục tiêu và nội dung của việc giải
quyết vấn đề xã hội, đặc biệt là an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm toàn diện và tốt
hơn quyền con người; khẳng định mục tiêu chính sách xã hội là nhằm xây dựng và phát
triển con người, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành mạnh hóa xã
hội và phát triển bền vững đất nước. Với nhận thức đó, trong những năm qua, nhất là
trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta khơng ngừng hồn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về lĩnh vực xã hội; nguồn lực đầu tư được tăng cường và đa dạng hóa; phát huy
được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân thực hiện
chính sách xã hội, chăm lo cho con người, tạo động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể nhận thấy, chính sách xã hội ở nước ta được triển
khai tích cực, tồn diện, với hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ, ngày càng hồn thiện;
phản ánh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trong việc chăm lo cho con
người.
Thứ nhất, các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến
theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 được sửa đổi nhiều lần (2002, 2006, 2007,
2012) đã tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động, thiết lập
quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến quan
hệ lao động, như: hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm xã
hội, thời gian làm việc, vệ sinh lao động, kỷ luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động,
đình cơng, v.v. Việc xây dựng, triển khai thực hiện Luật Việc làm và Chương trình việc
làm cơng đã góp phần định hướng nghề nghiệp, ổn định và phát triển thị trường lao động
14
ở Việt Nam. Bình quân mỗi năm, nước ta đã tạo ra được từ 1,5 đến 1,6 triệu việc làm
mới. Chất lượng lao động qua đào tạo không ngừng tăng lên, cơ cấu ngày càng phù hợp
thị trường lao động. Năm 2014, lao động trong khu vực chính thức đạt trên 30% tổng số
lao động.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước ta ln nhất qn về chính sách giảm nghèo bền vững
đi đơi với khuyến khích làm giàu hợp pháp. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị
quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, những năm qua,
nước ta thường xuyên chú trọng chính sách giảm nghèo đa chiều và khắc phục nguy cơ
tái nghèo, nhất là đối với các huyện, xã nghèo, ở khu vực biên giới, biển, đảo cịn nhiều
khó khăn; thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước.
Đồng thời, tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước. Nhờ đó, thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên
hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; tỷ lệ hộ nghèo cả nước hằng năm giảm từ
1,5 đến 2%; các huyện, xã đặc biệt khó khăn giảm 4% theo tiêu chuẩn nghèo từng giai
đoạn. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, đến năm 2014 giảm xuống còn 5,8 6%; phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%, vùng đặc biệt khó khăn dưới
3%.
Thứ ba, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Hệ thống
cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân
tăng nhanh; hệ thống dịch vụ y tế ngày càng mở rộng và nâng cao chất lượng. Trong 10
năm gần đây, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng đã được thể chế hóa trong
Hiến pháp năm 2013 và 20 luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số, tạo cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc chăm sóc sức khỏe người dân. Các chủ trương, giải pháp phát triển
hệ thống y tế tương đối toàn diện, coi trọng cả về xây dựng thể chế và phát triển đồng bộ:
y tế dự phòng, y học cổ truyền, quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ
sinh an toàn thực phẩm... Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế hiện nay là trên 70% dân số
(khoảng trên 61 triệu người); phấn đấu đến năm 2020, cơ bản hồn thành lộ trình bảo
hiểm y tế tồn dân.
Thứ tư, chính sách ưu đãi người có cơng được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm
và ngày càng mở rộng đối tượng, mức thụ hưởng với chế độ ưu đãi tồn diện hơn. Cả
nước hiện có khoảng 8,8 triệu người có cơng, chiếm khoảng 10% dân số, trong đó có
khoảng 1,4 triệu người có cơng và thân nhân được hưởng trợ cấp thường xuyên, với mục
tiêu là bảo đảm mức sống của người có cơng bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của
dân cư trên địa bàn. Cùng với chính sách ưu đãi người có cơng, các đối tượng tham gia
các thời kỳ kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (quân nhân, thanh niên xung phong,
dân quân du kích, dân cơng hỏa tuyến,…) tiếp tục được hưởng các chế độ, chính sách và
hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Các thiết chế chăm sóc người có cơng, tri ân các anh
hùng, liệt sĩ ngày càng hoàn thiên và được quan tâm đầu tư. Cơng tác tìm kiếm, quy tập
hài cốt liệt sĩ được chú trọng, thể hiện tinh thần “Hiếu nghĩa bác ái”, “Uống nước nhớ
nguồn” của dân tộc ta trong điều kiện mới.
15
Thứ năm, xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đa
dạng, ngày càng mở rộng, hiệu quả. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kết hợp với xã hội hóa,
mở rộng sự chia sẻ của cộng đồng; đồng thời, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm (bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp), khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham
gia. Đến năm 2014, cả nước có hơn 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,
190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và hơn 9 triệu người tham gia bảo
hiểm thất nghiệp. Hệ thống an sinh xã hội khơng ngừng phát triển phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội, khả năng huy động và cân đối nguồn lực của đất nước trong
từng thời kỳ; trong đó, ưu tiên những người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo
và đồng bào dân tộc thiểu số. Chính sách bảo trợ xã hội được xây dựng và từng bước
hoàn thiện, đối tượng hưởng đa dạng, mức hưởng ngày càng nâng lên; mở rộng các hình
thức cứu trợ xã hội, giảm thiểu rủi ro, v.v.
Thứ sáu, từng bước bảo đảm cung ứng với chất lượng ngày càng cao hơn một số
dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn và
đồng bào dân tộc thiểu số được bảo đảm nhu cầu tối thiểu về giáo dục, y tế, nhà ở, nước
sạch, thông tin. Nhà nước đã quan tâm xây dựng, thực hiện chiến lược phát triển nhà ở
quốc gia và chương trình xóa nhà tạm, phát triển nhà ở xã hội; xây dựng, ban hành và
thực hiện nhiều chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, chăm sóc bà mẹ và trẻ em, hơn
nhân và gia đình, chăm sóc người cao tuổi, phịng, chống tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình;
tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; tăng cường đầu tư về kết
cấu hạ tầng, kinh phí cho miền núi, vùng sâu, vùng xa; bảo tồn, phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các dân tộc và các tôn giáo trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, những thành tựu về chính sách xã hội trong thời gian qua thể
hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Điều đó góp phần khơng
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là những người có cơng,
gia đình chính sách. Đồng thời, phản ánh truyền thống nhân văn của dân tộc và bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa ln lấy con người làm trung tâm, vì sự phát triển tự do và
toàn diện của con người, phù hợp với điều kiện của đất nước ta trong thời kỳ đầu quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu đó là tiền đề rất quan trọng để tạo sự đồng thuận
trong xã hội, đưa nước ta ngày càng phát triển, tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường
chủ nghĩa xã hội; khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Năm 2021 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; là năm đầu thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021 –
2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 trong bối cảnh đất nước gặp những khó khăn,
thách thức mới gay gắt hơn. Do tiếp tục xuất hiện các đợt dịch COVID-19 với những
biến chủng mới, kinh tế thế giới còn nhiều bất định và tăng trưởng không vững chắc; các
nước trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề.
Trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư ở nhiều địa phương với sự xuất
hiện của biến thể Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng
16
gốc trước đây, lại xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn... buộc chúng ta
phải áp dụng nhiều biện pháp phịng, chống dịch chưa có tiền lệ, mạnh mẽ, quyết liệt hơn
để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân
dân; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân
dân.
Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp,
thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù
phục vụ phòng, chống dịch, phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát
hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của
Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia
tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong tồn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực.
Cụ thể, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương,
chúng ta đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức rất thành cơng Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
XIII, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn nhân sự các chức danh
lãnh đạo các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị - xã hội, khẳng định sự đồng
bộ, tính thống nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ,
tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển đất nước.
Về phòng, chống dịch COVID-19, Những tháng vừa qua cơng tác phịng, chống
dịch COVID-19 là ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ của
Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; với tinh thần vừa có kế thừa và vừa có
đổi mới vì chưa có tiền lệ nên phải bám sát yêu cầu thực tiễn; vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, bổ sung từng bước hồn thiện các biện pháp phịng, chống dịch phù hợp với biến
chủng mới lây lan nhanh, nguy hiểm hơn theo phương châm “5K + vaccine + điều trị +
công nghệ + đề cao ý thức của Nhân dân”.
Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vaccine, thành lập Quỹ vaccine phịng chống
COVID-19, tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất
vaccine trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh
thần “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”. Đến ngày 19/10/2021, đã tiếp
nhận 97,5 triệu liều vaccine đã phân bổ 95,5 triệu liều và tiêm được trên 65,7 triệu liều
(tỷ lệ tiêm ít nhất 1 mũi cho người từ 18 tuổi trở lên tính trung bình là 63,5%), tập trung
cho các đối tượng và địa bàn ưu tiên.
Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong
phịng, chống dịch. Duy trì phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đủ điều
kiện, an toàn dịch bệnh; hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động.
“Có thể nói, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực,
năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở, hầu hết các vật tư,
sinh phẩm, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vaccine trong nước chưa sản xuất được, phải
nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu”, Thủ tướng phát biểu.
Như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai
17
trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết
liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm sốt trên
phạm vi tồn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm soát hiệu
quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”.
Đến nay, tỷ lệ nhiễm và tử vong giảm sâu tại các tâm dịch Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai, Long An. An sinh xã hội, đời sống nhân dân ở những nơi thực
hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội cơ bản được bảo đảm; trật tự an tồn xã
hội được giữ vững. Đã có nhiều quyết định hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp gặp khó
khăn như lương thực, thực phẩm, tiền mặt, giảm thuế, phí, lệ phí, tiền điện, nước, cước
viễn thơng…
Nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
Về phát triển kinh tế - xã hội, nhằm khắc phục những khó khăn do tác động nghiêm
trọng của dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương vừa
phải quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, các Nghị quyết,
Kết luận của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Nghị
quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt
giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác trong chỉ đạo, điều hành; tập
trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức; nỗ lực phấn đấu cao
nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực.
Triển khai Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội, Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID19; báo cáo cấp có thẩm quyền và Ủy ban thường vụ Quốc hội để kịp thời triển khai các
giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; hỗ trợ người lao động và người
sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; trình cấp có thẩm quyền sớm triển khai
miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh;
đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà sốt, hồn thiện cơ chế, chính
sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi,
hồn thiện để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, sớm ổn định đời sống
và khôi phục, phát triển sản xuất kinh doanh. Đã báo cáo cấp có thẩm quyền đồng ý về
chủ trương cho miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh với tổng số tiền khoảng 21,3 nghìn tỷ đồng và đang khẩn trương hoàn thiện
để sớm được ban hành vào cuối tháng 10, đầu tháng 11/2021.
Các hoạt động văn hóa, xã hội được tổ chức theo hình thức phù hợp với tình hình
dịch bệnh, nhất là tăng cường các hoạt động trực tuyến. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
chăm lo đời sống người có cơng, đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội, giảm nghèo được
đẩy mạnh. Công tác an sinh xã hội, hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng
lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được triển khai tích cực, hiệu quả. Các chính sách
dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao đạt một số kết quả ấn
tượng.
18
Cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm; đẩy mạnh kết
nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến. Khuyến khích nghiên
cứu, chuyển giao cơng nghệ và sản xuất vaccine, thuốc, sinh phẩm trong nước. Tổ chức
tốt các kỳ thi tốt nghiệp, tuyển sinh cao đẳng, đại học; khai giảng năm học mới, dạy và
học trực tiếp, trực tuyến linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch bệnh; tích cực triển khai
Chương trình “Sóng và máy tính cho em” (đã vận động quyên góp được số tiền tương
đương hơn 1 triệu máy tính đang triển khai mua để hỗ trợ học sinh trên cả nước có điều
kiện học tập trực tuyến). Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi
mới sáng tạo, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực.
Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp
với tình hình, nhất là ngoại giao vaccine, ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; công tác
thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân được quan tâm chỉ đạo; qua đó góp phần giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển và tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín
của nước ta trên trường quốc tế. Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tiến hành gần
60 cuộc điện đàm/hội đàm trực tuyến với các đối tác quốc tế quan trọng. Các nội dung
vận động vaccine, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế, thúc đẩy hợp tác chính trị, kinh tế,
thương mại, đầu tư được ưu tiên hàng đầu trong hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng,
Nhà nước và các ban, bộ, ngành trung ương, địa phương.
Thông tin, truyền thơng ngày càng đổi mới tích cực, kịp thời, góp phần tạo đồng
thuận xã hội, nhất là trong phịng, chống dịch bệnh và phục hồi, phát triển kinh tế xã hội.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan Dân vận
và các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân
dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin trong Nhân dân; kịp
thời ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.
Về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2021, Thủ tướng
nêu rõ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10:
Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch COVID-19; khẩn trương xây dựng và
tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt
hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo
phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là
bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập
khẩu vaccine, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến
độ bao phủ tiêm vaccine, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là
cơng tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an tồn, linh hoạt, phấn đấu kiểm sốt
hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi tồn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh
và khơi phục, phát triển kinh tế xã hội.
Cùng với đó, khẩn trương hồn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng
thể về phịng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội. Rà sốt,
tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất
kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để
giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy
19
mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả,
thị trường. Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả
cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khơi phục thị trường lao động do bị tác động
trực tiếp bởi dịch COVID-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo
đảm cung ứng, lưu thơng hàng hố thơng suốt. Khơi thơng mọi nguồn lực cho phòng,
chống dịch và phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại
trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ
ngoại giao vaccine, ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị; đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin truyền thông.
Từ đầu năm đến ngày 15/10/2021, Chính phủ đã ban hành 154 nghị quyết, 83 nghị
định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 31 quyết định mang tính quy phạm pháp luật, 26
chỉ thị và các bộ, ngành đã ban hành 253 thông tư để tháo gỡ các “rào cản”, khơi thông
mọi nguồn lực cho đầu tư, sản xuất kinh doanh và phịng, chống dịch.
Về các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, từ đầu năm đến nay tiếp tục gia
hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân
và tiền thuê đất trong năm 2021; cho phép lùi thời điểm đóng kinh phí cơng đồn đến
ngày 31/12/2021.
Tính đến ngày 15/10/2021:
- Đã miễn, giảm, giãn khoảng 95,1 nghìn tỷ đồng tiền thuế, phí, lệ phí và tiền th
đất (trong đó gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất là khoảng 78,8 nghìn tỷ đồng);
- Đã hỗ trợ gần 21,89 nghìn tỷ đồng cho 24,26 triệu lượt đối tượng; đã cho vay 566
tỷ đồng để trả lương cho trên 161 nghìn lượt người lao động (theo Nghị quyết 68/NQCP);
- Đã giải quyết hưởng hỗ trợ cho gần 430 nghìn lao động đang tham gia bảo hiểm
thất nghiệp và trên 111 nghìn người đã dừng tham gia với tổng số tiền hỗ trợ là 1.251 tỷ
đồng; trong đó tổng số tiền đã chi trả là 999,5 tỷ đồng cho trên 425 nghìn người lao động
(theo Nghị quyết 116/NQ-CP
- Xuất cấp tổng cộng trên 137 nghìn tấn gạo hỗ trợ cho trên 2,4 triệu hộ với trên 9,1
triệu nhân khẩu ở 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bị thiếu đói do ảnh hưởng
của đại dịch COVID-19;
- Tiếp tục hỗ trợ giảm giá điện (khoảng 4.500 tỷ đồng), tiền nước, dịch vụ viễn
thông, internet (khoảng 10.000 tỷ đồng);
- Đẩy mạnh việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ
hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng; lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 15/10/2021, tổng số
tiền lãi các tổ chức tín dụng miễn, giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 là
gần 27 nghìn tỷ đồng; triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Tổng Công ty Hàng
không Việt Nam (VNA) theo Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ…
2. Tại Nghệ An
6 tháng đầu năm 2021 tình hình đại dịch Covid-19 có nhiều diễn biến phức tạp, tác
động tiêu cực, toàn diện, sâu rộng mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, toàn ngành phải tiếp
20
tục triển khai thực hiện mục tiêu kép, vừa làm tốt cơng tác phịng, chống dịch Covid-19,
vừa triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả các lĩnh vực cơng tác của ngành.
Sự bùng phát lần thứ 4 của dịch Covid-19 đã đẩy 1,8 triệu người lao động trên
phạm vi cả nước vào tình trạng khơng có việc làm. Một số ngành như giao thông vận tải,
hàng không, du lịch, khách sạn, giải trí, bán lẻ, văn hóa, thể thao bị ảnh hưởng nặng nề,
mất đi đà phục hồi của năm 2020 và sẽ chịu tác động mạnh mẽ hơn.
Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp của lao động qua đào tạo khoảng trên
65%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ khoảng 26%.
Cũng là địa phương chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh, trong hơn 1 năm qua (tính đến
30/6/2021) Nghệ An có hơn 33.000 lao động mất việc làm, 31.000 lao động phải nghỉ
việc, hơn 13.000 người làm việc ở nước ngoài phải trở về và chưa có việc làm. Tuy
nhiên, với sự nỗ lực trong cơng tác phịng chống dịch và thực hiện “mục tiêu kép”, tỉnh
Nghệ An đã tiếp tục phối hợp thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do
đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết 42 và NQ 154 của Chính phủ, đến nay cơ bản đã hồn
thành. Chủ trì, phối hợp tham mưu UBND tỉnh ban hành kế hoạch, xây dựng các phương
án tổ chức đón, bàn giao gần 900 lao động người Nghệ An gặp khó khăn do đại dịch
Covid-19 từ tỉnh Bắc Giang về địa phương đảm bảo an toàn, chặt chẽ; chỉ đạo Trung tâm
DVVL tỉnh cung cấp thông tin, kết nối thị trường lao động để sau khi người lao động
hoàn thành cách ly y tế chủ động liên hệ tìm kiếm việc làm.
Phối hợp với các Sở, ngành, các cơ quan có liên quan làm tốt cơng tác quản lý nhà
nước về việc làm - ATLĐ. Hỗ trợ người lao động, tổ chức Hội chợ việc làm, Hội nghị tư
vấn, định hướng nghề nghiệp cho quân nhân xuất ngũ... Ước tính 6 tháng đầu năm 2021,
giải quyết việc làm cho 17.325 người (đạt 45% kế hoạch; tăng 5% so với cùng kỳ năm
trước).
Ngành Lao động đã tham mưu UBND tỉnh đánh giá thực trạng và dự kiến mạng
lưới cơ sở Giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tính đến năm 2030, định hướng đến năm
2050; Công tác bảo trợ xã hội, giảm nghèo đạt nhiều kết quả. Hướng dẫn, chỉ đạo triển
khai thực hiện chính sách theo Nghị quyết 32/2020/NQ-HĐND ngày 13/12/2020 của
HĐND tỉnh về xóa hộ nghèo người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh.
Phối hợp chỉ đạo thực hiện tốt việc quản lý, chi trả chế độ trợ cấp ưu đãi thường
xuyên cho đối tượng người có cơng với cách mạng. Tồn tỉnh đã huy động ủng hộ Quỹ
Đền ơn đáp nghĩa số tiền khoảng 6 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Nghệ An đã tăng cường bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong đại dịch
Covid-19 và phịng, chống tai nạn, thương tích, đuối nước trẻ em; làm tốt cơng tác quản
lý nhà nước về bình đẳng giới. Cơng tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhất là trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt khó khăn đạt nhiều kết quả quan trọng, tồn tỉnh có 11.615 lượt em được
tặng quà với tổng số tiền hơn 5,8 tỷ đồng.
Ngay sau khi Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg được
ban hành nhiều địa phương đã nhanh chóng rà soát các đối tượng nằm trong diện được
thụ hưởng theo tinh thần "một miếng khi đói bằng một gói khi no". Nhiều nơi đã tập
21
trung chi trả ngay cho những đối tượng đang thực sự khó khăn do ảnh hưởng bởi đại
dịch.
Tại Quyết định số 3955/QĐ-UBND được ban hành vào ngày 27/10/2021, UBND
tỉnh quyết định giải quyết kinh phí thực hiện một số chính sách hỗ trợ đối với 8.844 đối
tượng gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 theo quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP
ngày 1/7/2021 của Chính phủ với tổng số tiền hơn 13 tỷ đồng.
Cụ thể, kinh phí hỗ trợ đối với 116 người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động,
nghỉ việc không hưởng lương, số tiền hơn 300 triệu đồng; kinh phí hỗ trợ đối với 414
người lao động ngừng việc, số tiền 639 triệu đồng; kinh phí hỗ trợ đối với 1.126 đối
tượng là trẻ em và người đang điều trị COVID-19 cách ly y tế số tiền hơn 1,086 tỷ đồng;
kinh phí hỗ trợ đối với 133 hộ kinh doanh, số tiền 399 triệu đồng; kinh phí hỗ trợ đối với
7.055 người lao động khơng có giao kết hợp đồng lao động, đối tượng đặc thù khác theo
Quyết định số 22/2021/QĐ-UBND ngày 9/8/2021 của UBND tỉnh, số tiền hơn 10,582 tỷ
đồng.
UBND tỉnh giao UBND các huyện và thành phố Vinh sử dụng nguồn kinh phí dự
phịng ngân sách cấp huyện, cấp xã số tiền hơn 1,937 tỷ đồng để chi trả chính sách hỗ trợ
cho các đối tượng trên; tạm ứng ngân sách tỉnh số tiền hơn 11,069 tỷ đồng cấp cho các cơ
quan, đơn vị để chi trả chính sách hỗ trợ cho các đối tượng trên.
UBND tỉnh cũng giao Sở Tài chính, Kho bạc Nhà nước Nghệ An làm thủ tục cấp
phát, quản ly theo quy định. Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh quyết định thu hồi số
kinh phí đã tạm ứng từ ngân sách tỉnh theo đúng quy định. Cơ quan đơn vị được cấp kinh
phí chịu trách nhiệm tổ chức chi trả cho các đối tượng kịp thời và quyết toán theo chế độ
hiện hành.
Ngoài việc đảm bảo cho đời sống nhân dân trong đợt dịch COVID này, thì UBND
tỉnh cịn thực hiện nhiều chính sách xã hội khác, cụ thể: “Đảm bảo an sinh xã hội, tăng
quyền năng và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái thực hiện bình đẳng giới, xóa bỏ bạo
lực trên cơ sở giới”, đó là Chủ đề của Tháng hành động vì bình đẳng giới và phịng ngừa
ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới” năm 2021 tại Kế hoạch số 609/KH-UBND ngày
25/10 của UBND tỉnh.
Tháng hành động là điểm nhấn, tạo nên một chiến dịch truyền thơng vì bình đẳng
giới và phịng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trên phạm vi tồn tỉnh. Qua đó,
thu hút sự quan tâm, đề cao vai trị, trách nhiệm và tính chủ động tham gia hành động của
cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong việc đảm bảo an sinh xã hội, tăng
cường quyền năng cho phụ nữ và trẻ em gái; giảm thiểu và tiến tới chấm dứt các tình
trạng bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em.
Trong thời gian triển khai thực hiện Tháng hành động, các cơ quan, đơn vị, địa
phương cần tăng cường tuyên truyền về chủ đề, thông điệp và các hoạt động của Tháng
hành động; truyền thơng về chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho người dân nói chung
và phụ nữ, trẻ em nói riêng; tư vấn, hỗ trợ phụ nữ và trẻ em trong bối cảnh dịch bệnh
COVID-19 đang diễn biến phức tạp. Đồng thời, tuyên truyền tăng cường quyền năng cho
22
phụ nữ và trẻ em gái trong việc thúc đẩy bình đẳng giới... trên các phương tiện thơng tin
đại chúng bằng nhiều hình thức đa dạng phù hợp cho từng đối tượng và tình hình thực tế.
Cùng với đó, tổ chức các diễn đàn, đối thoại, tọa đàm, hội thảo, tập huấn; phát hành
các sản phẩm truyền thông; xây dựng các phóng sự, đăng tải tin, bài về hoạt động trước,
trong và sau Tháng hành động trên các phương tiện thơng tin.
Bên cạnh đó, xây dựng triển khai hoạt động của các mơ hình “Doanh nghiệp tham
gia phịng ngừa ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới” tại thị xã Hồng Mai; mơ hình
“Nam giới tiên phong trong phịng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới” tại
huyện Quỳ Hợp; mơ hình “Địa chỉ tin cậy, nhà tạm lánh tại cộng đồng” tại các huyện Kỳ
Sơn, Tương Dương, Quỳ Châu.
Tăng cường các hình thức kiểm tra về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tại
các cơ quan, đơn vị, địa phương. Xử lý nghiêm các vụ vi phạm về bình đẳng giới, phòng,
chống bạo lực trên cơ sở giới và trong thực hiện các chính sách hỗ trợ bảo đảm an sinh xã
hội. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực, tăng cường xã hội hóa các hoạt động truyền
thơng và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em có hồn cảnh khó khăn, nạn nhân bị xâm hại, bạo lực...
UBND tỉnh giao Sở Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp hướng dẫn
các sở, ngành, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện Kế hoạch Tháng hành động. Sở
Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với UBND huyện Quỳnh Lưu và các
cơ quan, đơn vị liên quan tham mưu UBND tỉnh tổ chức Lễ phát động Tháng hành động
tại huyện Quỳnh Lưu, dự kiến diễn ra vào khoảng thời gian từ ngày 08/11-12/11/2021.
Tại các huyện, thành phố, thị xã căn cứ vào điều kiện tình hình phịng, chống dịch
COVID-19 tại địa phương để tổ chức Lễ phát động Tháng hành động phù hợp.
UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành, đơn vị, địa phương cần phát huy tính chủ động,
sáng tạo trong kiểm sốt tình hình dịch bệnh, xây dựng kế hoạch và triển khai các hoạt
động của Tháng hành động phù hợp với tình hình thực tiễn để mang lại hiệu quả thiết
thực.
3. Đề xuất giải pháp thực hiện tốt chính sách xã hội trong thời gian tới
- Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, nhất là người đứng
đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về chính sách xã hội; tiếp tục bám sát các quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của BCH
Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 1/11/2012 của Chính phủ. Xác
định rõ chính sách xã hội chăm lo cho người dân là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài
và liên tục, từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt an sinh
xã hội, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân trên địa bàn tỉnh.
- Tập trung triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh Ưu đãi người có cơng với cách mạng; thực
hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách, chế độ đối với người có cơng; có giải pháp cụ thể, phù hợp
để giải quyết dứt điểm các trường hợp tồn đọng. Đẩy mạnh thực hiện phong trào “Đền ơn đáp
nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “xã phường làm tốt công tác thương binh liệt sỹ và người có
cơng”, huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng để cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời
sống vật chất, tinh thần của người có cơng và thân nhân của họ. Đầu tư xây dựng, sửa chữa, tơn
tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ, các cơng trình ghi công liệt sỹ.
23
- Quan tâm tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động bằng các chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc tại nước ngồi, trong đó
ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các xã nghèo, thơn bản đặc biệt khó khăn.
Đẩy mạnh lồng ghép các hoạt động của Chương trình quốc gia về an tồn, vệ sinh lao động
với Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn lao động của tỉnh
giai đoạn 2021 - 2025.
- Triển khai thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo,
các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định hiện hành. Tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho
công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Xây dựng và thực hiện Chương trình giảm
nghèo nhanh và bền vững gắn với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 -2025. Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Củng cố,
nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội trên địa bàn tỉnh; mở rộng và khuyến khích sự tham
gia hỗ trợ của cộng đồng. Thực hiện tốt công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân được
hỗ trợ kịp thời khi gặp rủi ro, thiên tai.
- Tăng cường quản lý nhà nước về công tác bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện hiệu quả
chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội. Tăng cường phối hợp trong liên thông, kết nối,
chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan có liên quan để nắm bắt chính xác số doanh nghiệp, người
lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp để yêu cầu
người lao động, người sử dụng lao động tham gia đầy đủ theo quy định của pháp luật. Tăng
cường tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm xã hội tự nguyện; khuyến khích nơng dân, người lao động trong khu vực
phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người
nghèo, người có hồn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số: Quan tâm hỗ trợ phát triển
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đặc biệt đối với khu vực miền núi, vùng các điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có khu cơng nghiệp. Thực hiện các chế độ hỗ trợ giáo
dục đối với thanh niên, thiếu niên thuộc hộ nghèo, hộ dân tộc thiểu số để bảo đảm phổ cập
giáo dục bền vững.
Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến cơ sở, ưu tiên các xã nghèo,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em; thực hiện tốt cơng tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, phịng chống suy dinh
dưỡng trẻ em. Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng miền núi, các hộ nghèo. Xây dựng chính sách khuyến khích người dân, nhất là người
có thu nhập thấp dưới mức trung bình tham gia bảo hiểm y tế.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án giảm nghèo bền vững, xây dựng
Đề án hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo của tỉnh giai đoạn 2020 - 2025. Chú trọng hỗ trợ, giải quyết
nhu cầu về nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, người có thu nhập thấp tại đơ thị, người lao
động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên.
Nâng cao hiệu quả các chính sách về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trên
địa bàn tỉnh gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nơng thơn mới; xây dựng và
ban hành chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, xã hội hóa lĩnh vực nước sạch để nâng tỷ
24