Họ và tên:
Mã học viên:
Đề tài: Vai trò thế giới quan và phương pháp luận đối với sự phát triển
khoa học
+ Thế giới quan – chiếc la bàn định hướng cuộc
sống
- Hành trang cuộc sống của mỗi người luôn luôn cần
tới những tri thức, trí tuệ sâu sắc. Thế giới quan là
thứ khơng thể thiếu được trong hành trang trí tuệ ấy
của mỗi người. Nó là cái cần phải được từng người
tự học hỏi, chăm lo, đổi mới để có thể nhìn, hiểu và làm theo những luận điểm tổng
quát góp phần như một chiếc la bàn định hướng cuộc sống, làm cho cuộc sống thêm
hiệu quả, hạnh phúc và thành đạt.
Suy nghĩ triết lý và Thế giới quan là gì?
- Vượt trên việc suy nghĩ những vấn đề “ăn để sống”, “mối lợi vật chất” hằng ngày,
con người còn “vươn tâm hồn mình” suy ngẫm thêm những vấn đề cuộc sống sâu sắc
khác như “Ta nên sống vì cái gì?”, “thực ra hạnh phúc là gì?”, “làm sao để có được
hạnh phúc lâu bền?”, “nên bắt đầu làm gì để cải thiện được cuộc sống hàng ngày tốt
hơn?” hay những câu hỏi triết lý lớn như triết gia Kant đã nêu ra cho cuộc đời: “Tơi có
thể biết gì? Tơi cần phải làm gì? Tơi có thể hy vọng vào cái gì? Tơi là ai?”. Những câu
hỏi này hồn toàn mang nội dung cụ thể gắn với thực tế đời sống, có giá trị cải thiện
chất lượng sống. Tuy nhiên, khơng ít người cảm tưởng rằng những điều quan tâm triết
lý đó là thừa, xa rời điều họ thường ngày quan tâm.
- Cuộc sống của mỗi người cũng như xã hội ngày một mở rộng nên hiểu biết, mối quan
tâm, cảm nhận, suy nghĩ và hoạt động của họ ngày một rộng lớn hơn địi hỏi họ cần có
hiểu biết về thế giới, con người, mối quan hệ thế giới với con người, con người với thế
giới như một chỉnh thể có trật tự, cịn gọi là bức tranh về thế giới hay thế giới quan. Nó
là một tổng hợp, suy tư hữu ích về đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc cho con
người.
Vai trò của thế giới quan
Thế giới quan đóng vai trị nhân tố sống động của ý thức cá nhân, giữ vai trò
chỉ dẫn cách thức tư duy và hành động của cá nhân. Nó đồng thời cũng thể hiện lý luận
và khái quát hóa các quan điểm và hoạt động của nhóm xã hội. Mỗi cá nhân cũng luôn
mong muốn tiếp nhận những thế giới quan khác, làm phong phú thế giới quan cho
mình, góp phần điều chỉnh định hướng cuộc sống.
Xuất phát từ lập trường, biện giải thế giới quan đúng đắn, con người có thể có được
những cách giải quyết vấn đề đúng đắn do cuộc sống đặt ra. Ngược lại, xuất phát từ
lập trường sai lầm, con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.
Khi giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn, sớm muộn người ta vấp phải những
vấn đề chung, cần đến sự đóng góp của thế giới quan làm cơ sở định hướng giải quyết
vấn đề cụ thể. “Một tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm bao nhiêu, các tư tưởng
mới càng nhiều hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu cầu phải có một thế giới quan liên kết
lại càng cảm thấy trở nên bức thiết bấy nhiêu” (M. Plank)
Ban đầu, mỗi cá nhân phát triển tinh thần đến một mức độ nào đó đều tìm cách trả lời
các câu hỏi triết lý riêng của mình một cách tự phát, nghiệp dư. Đó là dấu hiệu “triết
gia” ở mức độ nào đó (thậm chí họ khơng biết cả đến từ “triết học” hay “thế giới
quan”). Dần dần, do động chạm đến những vấn đề quan tâm nhất của con người, xã
hội, nhân loại mà xuất hiện nhiều người có phẩm chất vĩ đại, say mê sáng tạo những
học thuyết và hệ thống thế giới quan đồ sộ, sâu sắc, độc đáo và phổ quát một cách thức
hết sức chuyên nghiệp. Họ được gọi là triết gia hay là những người theo đuổi sự khôn
ngoan, là những người để lại những quan điểm mang dấu ấn lớn.
Nhu
cầu
một
thế
giới
quan
mới
hiện
đại
Mỗi khi xã hội, thời đại có những bước chuyển biến lớn (cùng một lúc chúng ta có
nhiều bước chuyển: cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa, tin học hóa, tư hữu hóa, dân chủ
hóa, tồn cầu hóa, nhân đạo hóa…) thì thế giới quan lại thể hiện tầm vóc lớn lao của
nó. Chúng ta cần 1 thế giới quan đúng đắn, khoa học và cách mạng, phù hợp hơn với
bối cảnh mới, bám sát hiện thực mới, bám sát con người hiện đại.
Thế giới quan của mới sẽ phải mang những đặc điểm:
- Bám sát nhiều lĩnh vực thực tiễn mới, tích hợp nhiều nguồn tư liệu phục vụ thế giới
quan, tri thức khoa học công nghệ. Đảm bảo đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu và tránh lẫn lộn,
mâu
thuẫn
- Kế thừa, phát huy những tinh hoa của thế giới quan duy vật. Khoa học hệ thống và
điều khiển học lớn mạnh và trở thành trung tâm của nền khoa học và dẫn dắt thành tựu
khoa học, công nghệ và trở thành nền tảng của văn hóa nhân loại. Khoa học hệ thống –
điều khiển học là lựa chọn tốt làm công cụ hữu hiệu cung cấp phương thức tư duy mới
- Tư duy hệ thống hợp nhất kiến thức khoa học, nghệ thuật đa ngành với nhau.
- Cung cấp những câu trả lời tốt nhất về những vấn đề cơ bản của thế giới quan.
- Phù hợp sự đa dạng, phức tạp, tính mở, sự tiến hóa, tương tác và thơng tin giữa các
hệ thống.
+Về phương pháp luận:
Có thể nói chưa bao giờ vấn đề phương pháp luận lại được bàn đến nhiều như trong
thời đại của chúng ta, nhất là từ khi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và
ngày nay là cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Trong lịch sử khoa học, đã có
những thời kỳ vấn đề phương pháp và phương pháp luận được đặc biệt chú trọng và
có nhu cầu lớn vì khoa học gặp khó khăn, trở ngại không tiến lên được. Ngày nay,
người ta quan tâm đến vấn đề phương pháp và phương pháp luận không phải vì khoa
học trì trệ mà trái lại khoa học đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng.
Nghiên cứu về vấn đề phương pháp luận trước hết chúng ta cần hiểu phương pháp luận
là gì? Cấu trúc của phương pháp luận như thế nào? Tại sao triết học nói chung và các
nguyên lý nói riêng (nguyên lý thế giới quan) lại đóng được vai trị phương pháp luận?
Chúng ta đều biết rằng, khoa học càng phát triển và nhất là khi khoa học gặp phải
những khó khăn (gặp phải những tình huống có vấn đề) thì dù muốn hay khơng người
ta cũng khơng thể khơng tìm đến triết học. Lịch sử đã cho thấy, những người sáng lập
ra cơ học lượng tử, sáng lập ra những ngành vật lý khác nhau - họ đều là những nhà
vật lý học lỗi lạc của thế kỷ 20 - bản thân họ đều là những người ủng hộ hoặc theo một
trường phái triết học nào đó. Thực tế là càng nghiên cứu về sau và khi họ có được
những phát minh làm cơ sở cho những lý thuyết mới thì quan điểm cũng thay đổi một
cách căn bản khi cho rằng: Khoa học tự nhiên khơng thể thiếu triết học được. Theo
Ăngghen thì: Các nhà khoa học tự nhiên không thể thiếu triết học. Vấn đề ở chỗ họ
muốn được dẫn dắt bởi một thứ triết học đúng đắn hay một thứ triết học hợp thời
trang.
Như vậy là cùng với sự phát triển của khoa học (nhất là những tình huống có vấn đề),
người ta lại càng phải quan tâm đấn triết học nhiều hơn. Đặc biệt khoảng giữa thế kỷ
19 - khi khoa học chưa có những phát minh mang tính thời đại cũng có nghĩa là lúc đó
khoa học tự nhiên gặp khủng hoảng và người ta đã giải thích nó theo những cách khác
nhau, cuối cùng là dẫn đến cách giải thích duy tâm về những thành tựu mới đó. Đây
chính là lúc triết học thể hiện sâu sắc vai trị định hướng của mình.
Sang thế kỷ 20, khoa học đã bùng nổ trên các lĩnh vực, đặc biệt là sinh học. Dường
như tất cả các trường phái đều quan tâm và đều tìm cách giải thích có lợi cho triết học
của mình, đặc biệt là tơn giáo. Có thể nói, sự quan tâm đến khía cạnh phương pháp
luận là do nhu cầu của thực tiễn, đòi hỏi phải giải quyết những vấn đề do cuộc sống
đặt ra; do bản thân sự phát triển của khoa học, khoa học phải giải quyết những vấn đề
khó khăn, những tình huống có vấn đề và liên quan đến cuộc đấu tranh giữa những lập
trường
triết
học
khác
nhau.
Lịch sử cho thấy, một quan niệm về phương pháp luận được thừa nhận là đúng đắn khi
quan niệm đó cho rằng: Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên
cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực. Tất cả những lý luận và nguyên lý
nào có tác dụng hướng dẫn, gợi mở, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý
nghĩa phương pháp luận. Mọi nguyên lý thế giới quan đều có tác dụng ấy, chúng hợp
thành nội dung của phương pháp luận.
Bất cứ một ngành khoa học nào cũng có phương pháp của họ. Điều đó có nghĩa
phương pháp luận phải có cấu trúc chung và chúng ta có thể nhìn nhận cấu trúc chỉnh
thể ấy từ 3 bộ phận:
- Những nguyên lý thế giới quan: Đây là bộ phận hết sức quan trọng. Tuy nhiên,
không phải mọi nguyên lý thế giới quan đều được đưa đồng đều vào phương pháp luận
của các khoa học mà chỉ sử dụng những ngun lý thích hợp để có thể thực hiện được
nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở tuỳ theo tính chất của từng khoa học hoặc từng
nhóm khoa học.
- Lý luận về một hệ thống các phương pháp: Điều này có nghĩa là nói đến lý luận về
một hay nhiều phương pháp có thể dùng chung cho nhiều khoa học. Vấn đề ở đây là
phải làm rõ nội dung của phương pháp đó là gì? quan hệ giữa các phương pháp? phạm
vi, khả năng và nguyên tắc ứng dụng của các phương pháp?
- Lý luận về một phương pháp cụ thể nào đó sẽ được sử dụng ở bộ mơn này hay bộ
mơn khác. Nói cách khác thì đó chính là phương pháp nghiên cứu đặc thù của một
mơn khoa học (những nguyên lý và lý thuyết của bản thân khoa học đó hay của các
khoa học khác có vai trò gợi mở, hướng dẫn, chỉ đạo mà khoa học này cần sử dụng
hoặc có thể sử dụng).
Với một cơ cấu như vậy, phương pháp luận của các khoa học cụ thể sẽ bao gồm được
cả cái chung và cả cái riêng, bao gồm được các nguyên lý và phương pháp phổ biến
cũng như các nguyên lý và phương pháp của từng ngành khoa học hay của một nhóm
khoa học; sẽ tránh được xu hướng tuyệt đối hoá một mặt nào đấy; sẽ tránh được quan
điểm thực chứng muốn loại trừ triết học ra khỏi phương pháp luận của khoa học cụ
thể.
Có thể nói, trong chỉnh thể phương pháp luận, phần chung nhất chúng ta thấy được
là những nguyên lý thế giới quan. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao nguyên lý thế giới
quan lại quan trọng như thế? Tại sao thế giới quan lại đóng được vai trò phương pháp
luận? Trên thực tế, chúng ta cần khẳng định rằng: Trong những nguyên lý thế giới
quan đã tổng kết, đúc kết sự hiểu biết chính xác, khoa học và đầy đủ về một đối tượng,
về một sự vật, về một quá trình trong phạm vi cho đến thời điểm đó.
Sự hiểu biết của con người khơng phải là sự bất động, bất biến và chúng ta phải thừa
nhận rằng các nguyên lý thế giới quan phản ánh những gì bản chất nhất, là những cái
khơng thể thiếu được nhưng tất nhiên nó chưa phải là đầy đủ nhất. Và đây cũng chính
là chỗ khác nhau cơ bản giữa quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng với các quan
điểm tuyệt đối hố một tri thức nào đó. Thực tế là nhận thức của chúng ta khơng bao
giờ có giới hạn, không đi tới cái giới hạn cuối cùng mà chỉ là dần tới cái giới hạn, cái
tuyệt đối mà thôi
Tóm lại, mọi nguyên lý thế giới quan sở dĩ đóng được vai trị phương pháp luận là nhờ
trong những nguyên lý đó đã tổng kết, đã đúc kết lại những gì đúng nhất, chính xác
nhất, khoa học nhất về các sự vật, đối tượng, quá trình diễn ra trong thế giới xung
quanh ta. Chúng ta có thể dẫn ra đây những nguyên lý thể giới quan đã cho thấy được
vai trị phương pháp luận của nó:
- Trong tác phẩm "Chống Đuyrinh", Ăngghen đã khẳng định: Thế giới thống nhất ở
tính vật chất của nó chứ khơng phải ở sự tồn tại của nó.Đây là một nguyên lý thế giới
quan đóng vai trị định hướng, gợi mở trong khoa học bởi lẽ khi khẳng định thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó, điều đó có nghĩa đã định hướng, gợi mở cho người
ta phải đi tìm các dạng vật chất khác nhau, đi tìm sự biểu hiện đa dạng của vật chất (từ
vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ đến các bậc tổ chức từ thấp đến cao của vật chất...).
- Nguyên lý: Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận... (Theo Lê
Nin). Trước đó Ăngghen cũng đã từng khẳng định: Không thể coi nguyên tử là phần tử
vật chất nhỏ nhất... Nguyên lý này đã gợi mở cho các ngành khoa học phát triển, đặc
biệt là vật lý học và sinh học. Đó là một nguyên lý thế giới quan đúng đắn. Nó vĩ đại ở
chỗ nhờ đó mà người ta phát hiện ra rằng: thế giới không chỉ vô tận về phía vĩ mơ mà
cịn vơ tận về phía vi mô và siêu vi mô.
Trên đây là một vài ví dụ được dẫn ra để minh chứng một điều rằng: những ngun lý
thế giới quan hồn tồn có thể đống vai trò phương pháp luận. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu về phương pháp luận chúng ta cũng nên lưu ý một số điểm sau:
- Khi nói tới phương pháp luận, chúng ta không thể đồng nhất chủ nghĩa duy vật biện
chứng với phương pháp luận của khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử với
phương pháp luận của khoa học xã hội. Chúng ta phải nhớ rằng triết học macxit là một
khối thép duy nhất đúc thành..., không nên quá đối lập cái duy vật với cái lịch sử. Mac
và Ăngghen đã làm nên một cuộc cách mạng trong triết học - đó là biến chủ nghĩa duy
vật thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, biến phép biện chứng thành phép biện chứng
duy vật... và chúng ta phải hiểu nó trong tính chỉnh thể vốn có.
- Theo quan niệm chung hiện nay về phương pháp luận thì có: Phương pháp luận
riêng chỉ áp dụng cho một môn khoa học nhất định; phương pháp luận chung áp dụng
cho một số bộ môn khoa học; phương pháp luận chung nhất áp dụng được cho tất cả
các bộ môn khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất đó là triết học duy
vật biện chứng. Sở dĩ triết học macxit đóng vai trị là phương pháp luận chung nhất là
do các nguyên lý thế giới quan chính là sự đúc kết, tổng kết những gì là cơ bản nhất,
sâu sắc nhất, khoa học nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nói tóm lại, phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu,
phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực; là hệ thống chặt chẽ các quan điểm,
nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tất cả những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý
luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Mặc dù vậy, triết học macxit với tư
cách là phương pháp luận chung nhất và phổ biến không thể thay thế phương pháp
luận của các khoa học cụ thể..
Như vậy, phương pháp luận và thế giới quan đóng vai trị rất quan trọng trong
sự phát triển khoa học từ các thế kỉ trước cho tới tận bây giờ.