jkj
)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
---¥---
BÀI TẬP NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM
ĐỀ TÀI
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TRẢI NGHIỆM CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI
CHƠI VỚI VẬT LIỆU TỰ NHIÊN NGOÀI TRỜI
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
Nam Định, tháng 8/2021
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu nghiệp vụ sư phạm này. Tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của cơ Nguyễn Thị Luyến khoa giáo dục
mầm non. Cô là người hướng dẫn, dạy bảo chúng tôi từ những bước đầu
tiên, hướng cho chúng tôi biết cách chọn đề tài nghiên cứu, làm quen với
đề tài và giúp đỡ chúng tơi đến khi hồn thành. Tôi xin trân trọng gửi lời
cảm ơn tới cô, người đã hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu để tơi hồn thành đề tài nghiên cứu này
1
Cùng sự giúp đỡ tận tình của BGH và các cơ giáo trong trường Mầm
non n Chính đã tận tình giúp đỡ tạo điều kiện tốt cho tơi có dịp được
nghiên cứu, khảo sát, trải nghiệm, thực hành bài tập nghiên cứu.
Kính chúc cơ Nguyễn Thị Luyến ln mạnh khoẻ, hạnh phúc và
thành công hơn nữa trong sự nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn !
Người viết
Ngô Thị Thúy Hằng
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo hoạt động vui chơi đóng vai
trị chủ đạo, trẻ “ Học mà chơi, chơi mà học” qua hoạt động vui chơi ngoài trời
trẻ phát triển về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mĩ, tình cảm kĩ năng xã hội
qua đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Vui chơi là một hoạt động ln đi cùng và gắn bó với cuộc sống của con
người ngay từ thuở thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Tuy nhiên nội dung và
hình thức chơi ở mỗi giai đoạn, mỗi lứa tuổi có khác nhau song nó cịn chung
một mục đích là thoả mãn nhu cầu hoạt động của con người trong cuộc sống.
Hoạt động chơi ngồi trời là hoạt động vui chơi khơng thể thiếu trong chế
độ sinh hoạt của trẻ mầm non. Đây là hoạt động vui chơi mà trẻ yêu thích và
2
hứng thú nhất, nó mang lại niềm vui và kiến thức cần thiết về thế giới xung
quanh cho trẻ. Mặt khác, trẻ sẽ nhận thức thế giới xung quanh qua việc tiếp xúc,
tìm hiểu và khám phá những gì xảy ra trong cuộc sống xung quanh trẻ. Qua hoạt
động chơi ngoài trời trẻ thỏa mãn nhu cầu vui chơi, hoạt động, nhu cầu tìm hiểu
khám phá của mình.
Hoạt động vui chơi ngoài trời tạo cho trẻ sự nhanh nhẹn và thích ứng với
mơi trường tự nhiên, đồng thời cũng giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống,
đó sẽ là một môi trường hấp dẫn, lôi cuốn trẻ nếu chúng ta biết nắm bắt và tận
dụng tất cả những yếu tố có sẵn trong thiên nhiên, tác động đến trẻ qua các trị
chơi, quan sát, tìm hiểu sự vật xung quanh trẻ trong các tình huống. Qua hoạt
động chơi ngồi trời trẻ sẽ được hít thở khơng khí trong lành, được quan sát
cảnh vật, thế giới xung quanh trẻ, khám phá những điều mới lạ từ thiên nhiên
giúp trẻ tăng thêm vốn sống và đặc biệt là trẻ được tự do, thoải mái hoạt động.
Ngày nay, con người có xu hướng trở về với thiên nhiên. Một trong
những điều kì diệu, thú vị mà thiên nhiên mang đến cho chúng ta và nhất là các
cô giáo mầm non là hoa, lá, hột hạt, sỏi, đá, mo cau, vỏ trứng... Với sự khéo léo
của đơi bàn tay và trí tưởng tượng phong phú, chúng ta sẽ tạo ra nhiều sản phẩm
hấp dẫn và thú vị từ những nguyên vật liệu thiên nhiên này. Mặt khác, đồ chơi
được làm bằng vật liệu thiên nhiên có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với trẻ, giúp trẻ
mẫu giáo phát triển được cảm giác, tư duy, ngôn ngữ, sự chú ý.
Hơn nữa trẻ mẫu giáo lớn vốn hiểu biết về thế giới xung quanh và ngôn
ngữ đã được phát triển ở mức độ nhất định, đồng thời các quá trình tâm lý, cảm
giác tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm...ở trẻ đạt mức độ
cao hơn hẳn trẻ bé và nhỡ. Nên khả năng nhân biết và lựa chọn các nguyên vật
liệu thiên nhiên tốt hơn để làm nên các sản phẩm phong phú, đa dạng, tinh tế và
đẹp mắt.
Đặc biệt ở lứa tuổi này trẻ thích tiếp xúc với các loại hột hạt, lá, hoa,
cây...những nguyên vật liệu thiên nhiên này có thể dùng làm đồ chơi cho trẻ.
3
Chúng có thể nhặt những que nhỏ xếp thành các hình khác nhau, nhặt những
chiếc lá to để làm thành con trâu hay thuyền, những chiếc mo cau làm quạt, xâu
những cánh hoa thành vòng đeo cổ... Và khi chơi những đồ chơi này trẻ thấy
thật thú vị và say mê. Do đó, người giáo viên cần tạo điều kiện, tổ chức cho trẻ
tham gia các hoạt động vui chơi với vật liệu thiên nhiên ngoài ngoài trời để đáp
ứng được nhu cầu của trẻ. Chính vì thế tơi đã chọn đề tài “Tổ chức hoạt động
trải nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi chơi với vật liệu tự nhiên ngoài trời”
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lí luận, đề tài đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động trải
nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi chơi với vật liệu tự nhiên ngồi trời nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động vui chơi ngoài trời ở trường mầm non.
3. Khách thể và Đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi chơi với vật liệu
tự nhiên ngoài trời.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi chơi với
vật liệu tự nhiên ngoài trời
4. Giả thuyết khoa học
Nếu trong quá trình tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ chơi với vật
liệu ngoài trời giáo viên áp dụng các biện pháp phù hợp thì sẽ nâng cao hiệu quả
quá trình tổ chức hoạt động vui chơi trải nghiệm ngoài trời cho trẻ 5 – 6 tuổi
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5-6
tuổi chơi với vật liệu tự nhiên ngoài trời.
5.2 Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5-6 tuổi
chơi với vật liệu tự nhiên ngoài trời ở trường mầm non.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu: Hoạt động vui chơi ở ngoài trời - chủ đề
thế giới thực vật
7. Phương pháp nghiên cứu
4
Phương pháp chính được sử dụng trong nghiên cứu này là phương pháp
nghiên cứu lí luận. Thu thập tài liệu tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp, so sánh,
hệ thống hóa các nguồn tài liệu có liên quan tới đề tài để xây dựng cơ sở lí luận
cho vấn đề nghiên cứu.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TRẢI NGHIỆM CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI CHƠI VỚI VẬT LIỆU TỰ NHIÊN
NGOÀI TRỜI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, có rất nhiều tác giả nghiên cứu về bản chất giáo dục trải
nghiệm, khẳng định vai trò, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm với việc
hình thành kiến thức, kĩ năng cho người học. Các nhà tâm lí, giáo dục người
Nga(L.S. Vygotxki, J.Piaget, J.DeWey) đều cho rằng, quá trình giáo dục và q
trình sống ln thống nhất, khơng tách rời nhau, cho nên cách giáo dục tốt nhất
là học tập từ cuộc sống. Trong cuộc sống, con người khơng ngừng tích lũy kinh
nghiệm cho bản thân và tự cải biến kinh nghiệm của mình. Trên cơ sở, kế thừa
kết quả nghiên cứu giáo dục qua trải nghiệm của J.Piaget, J.DeWey, nhà nghiên
cứu tâm lí giáo dục Kolb đã phát triển lí thuyết học trải nghiệm. Với quan niệm
5
học tập là q trình mà trong đó kiến thức được tạo ra thông qua việc chuyển
đổi kinh nghiệm. Kolb đã xây dựng mơ hình giáo dục qua trải nghiệm với 4 giai
đoạn có tính tuần hồn nối tiếp nhau đó là:
- Giai đoạn 1: Trải nghiệm thực tế : học tập thông qua các hoạt động,
hành động cụ thể, trực tiếp
- Giai đoạn 2: Quan sát suy ngẫm: học thông qua quan sát các hoạt động
của người khác hay chiêm nghiệm lại bản thân hay kiêm nghiệm lại bản thân
sau đó suy ngẫm và đúc kết kinh nghiệm
- Giai đoạn 3: Khái niệm hóa học tập qua việc xây dựng các khái niệm,
tơngr hợp, biên giải và phân tích
- Giai đoạn 4: Thử nghiệm tích cực: Học tập qua những thử nghiệm, đề
xuất các phương án giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định.
Các phương pháp giáo dục tiến tiến trên thế giới hiện nay cũng coi trọng
giáo dục thông qua các hoạt động trải nghiệm như : Phương pháp giáo dục
Montessori – Bà cho rằng độ tuổi 0 – 6 tuổi sở hữu một dạng trí tuệ đặc biệt
“Trí Tuệ Thẩm Thấu”. Năng lực của trí tuệ vơ tận đó giúp trẻ học ngơn ngữ,
hồn thiện khả năng vận động, xây dựng hệ thống trật tự nội tại. Maria
Montessori qua quan sát nhận ra rằng trẻ cũng trải qua các giai đoạn nhạy cảm
trong quá trình phát triển của mình. Đó là những giai đoạn trẻ bị thu hút một
cách đặc biệt đến những trải nghiệm có trong môi trường để hấp thụ kiến thức
hay những kỹ năng cụ thể nào đó. Phương pháp giáo dục Reggio Emilia: Triết
lý Reggio Emilia bắt nguồn từ niềm tin cho rằng trong mỗi trẻ đều chứa đựng
một tiềm năng lớn và tiềm năng đó sẽ được phát triển nhờ chính trí tị mị vốn
có của trẻ. Trẻ cố gắng tìm hiểu thế giới xung quanh và tự đưa ra cách riêng của
mình để giải thích sự vận động của thế giới xung quanh trẻ. Từ đó, trẻ tự mình
tìm tịi, trải nghiệm để khám phá mọi thứ trong môi trường xung quanh…
Ở Việt Nam, Hoạt động trải nghiệm là hình thức học tập tích cực được Bộ
giáo dục và Đào tạo đưa ra các hướng dẫn chỉ đạo trong việc đổi mới hình thúc
6
tổ chức dạy học ở các cấp. Đối với bậc học mầm non, nghiên cứu về hoạt động
trải nghiệm có nhóm tác giả Hồng Thị Phương, Lã Thị Bắc Lý, Bùi Thị Lâm,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Thị Mỹ Dung, Vũ Thanh Vân với giáo trình “Tổ
chức hoạt động theo hướng trải nghiệm cho trẻ ở trường mầm non” các tác giả
này đã nghiên cứu và đưa ra những vấn đề cốt lõi của hoạt động trải nghiệm
cho trẻ mầm non bao gồm: khái niệm, quy trình giáo dục theo hướng trải
nghiệm, các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục trải nghiệm; các hình thức hoạt
động trải nghiệm của trẻ ở trường mầm non. Đặc biêt, nhóm tác giả đưa ra quy
trình hoạt động cho trẻ mầm non gồm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Trải nghiệm thực tế
- Giai đoạn 2: Chia sẻ kinh nghiệm
- Giai đoạn 3: Rút ra kinh nghiệm cho bản thân
- Giai đoạn 4: Vận dụng kinh nghiệm vào cuộc sống
1.2. Giáo dục theo hướng trải nghiệm
1.2.1. Khái niệm
Giáo dục được hiểu là quá trình truyền đạt và chiếm lĩnh những tri thức
xã hội nhằm hình thành nhân cách cho người học. Quá trình giáo dục ln được
tổ chức có mục đích, có kế hoạch thơng qua hoạt động và tương tác giữa người
dạy và người học. Trong giáo dục, trải nghiệm được coi là xu hướng tiếp cận
giáo dục mang tính thực tế.
Trong giáo dục mầm non, quá trình giáo dục hiệu quả nên huy động vốn
kinh nghiệm có sẵn của trẻ để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Trong quá trình
này, kiến thức, kĩ năng, thái độ của trẻ với MTXQ hình thành theo hướng tích
cực. Giáo dục theo hướng trải nghiệm địi hỏi trẻ chủ động, độc lập, sáng tạo, sử
dụng kiến thức, kĩ năng kinh nghiệm đã có để giải quyết thực tiễn từ đó chúng
ta có thể khai thác được các tiềm năng sẵn có của trẻ.
Khái niệm giáo dục theo hướng trải nghiệm được hiểu là phương thức sử
dụng các hoạt động giáo dục, trong đó giáo viên là người thiết kế, tổ chức,
7
hướng dẫn các hoạt động để trẻ trực tiếp tham dự hay tiếp xúc, tương tác trực
tiếp, được chiêm nghiệm, tự tích lũy kiến thức, kĩ năng, thái độ tạo thành kinh
nghiệm riêng của bản thân
Như vậy, theo khái niệm nhóm tác giả Hồng Thị Phương đưa ra chúng ta
thấy, giáo dục theo hướng trải nghiệm cho trẻ mầm non phụ thuộc lớn vào nhà
giáo dục hay cụ thể là giáo viên, cách thức giáo viên sử dụng để cho trẻ huy
động vốn kinh nghiệm thực tiễn, tích lũy và có những hiểu biết mới thu từ
những trải nghiệm thực tế. Quá trình này giáo viên cần tạo ra cho trẻ nhiều cơ
hội để thể hiện khả năng, năng lực thực tiễn của bản thân, khai thác tiềm năng
của trẻ trong quá trình tương tác với MTXQ
1.2.2. Đặc điểm
Mối quan hệ giữa giáo viên và trẻ trong dạy học theo hướng trải nghiệm:
Dạy học theo hướng trải nghiệm làm thay đổi cách nhìn nhận của giáo viên và
trẻ về kiến thức và về vị trí, vai trị của thầy - trị trong q trình học tập.
Trong q trình dạy học theo hướng trải nghiệm: giáo viên chỉ đóng vai
trị là người tổ chức, hướng dẫn và thúc đẩy việc trải nghiệm trực tiếp bảo
đảm cho quá trình học tập của trẻ có ý nghĩa và tồn tại lâu dài chứ khơng
phải là người cung cấp các kiến thức có sẵn. Trẻ trong môi trường dạy học
trải nghiệm là người tự tạo ra kiến thức, tự tìm kiếm, thu thập tri thức cho
bản thân. Những kiến thức trẻ học được không chỉ là những kiến thức trong
nhà trường qua sự giảng dạy của thầy cơ mà cịn là những kiến thức ngoài
xã hội (trường đời) - kiến thức tổng hợp. Trải nghiệm tạo cơ hội để trẻ
đóng góp tiếng nói của mình vào q trình học tập, thậm chí trẻ có thể tự
đánh giá kết quả học tập của bản thân.
Như vậy trong quá trình dạy học theo hướng trải nghiệm giáo viên giữ vai
trò là một kĩ sư trong việc thiết kế, xây dựng chương trình, tổ chức hướng
dẫn các hoạt động học tập cá nhân hoặc theo nhóm giúp trẻ được tiếp cận
trực tiếp với nguồn tri thức, tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động
trong việc hoàn thành các mục tiêu: kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương
8
trình học tập đã đề ra. Qua đó cũng hình thành ở các em lối suy nghĩ, nét
tính cách tích cực cho bản thân nhằm giải quyết tốt các vấn đề xảy ra trong
cuộc sống hằng ngày.
Dạy học theo hướng trải nghiệm nhấn mạnh đến việc tổ chức hoạt động
học tập cho trẻ thông qua học qua sai lấm: Bản chất của quá trình dạy học
theo hướng trải nghiệm là quá trình dạy học dựa trên việc học tập từ kinh
nghiệm trực tiếp và sử dụng tất cả các giác quan của người học. được
kinh nghiệm, người học phải trực tiếp được trải nghiệm thông qua các hoạt
động cụ thể. Trải nghiệm trở thành một q trình học khi nó được người học
động não và phản hồi, từ đó rút ra những kinh nghiệm để ghi nhớ và vận
dụng vào các tình huống khác nhau... Mục đích của việc động não và phản
hồi là để có được một sự đánh giá trung thực nhưng khơng mang tính chất
bắt lỗi về tồn bộ hoạt động, trong đó mọi sai lầm đều được nhìn nhận dưới
góc nhìn khách quan là điều tất yếu xảy ra và thậm chí sai lầm đó cịn có giá
trị. Mặt khác những sai lầm đó cịn làm giảm bớt một số con đường đi tìm
kiến thức và thúc đẩy trẻ tìm những con đường mới khác. Như vậy có thể
nói, sai lầm trong q trình học tập của trẻ cũng là một động thái giúp trẻ
tìm ra chân lý.
Những phân tích trên đây cho thấy, khi dạy học theo hướng trải nghiệm,
người giáo viên ln khuyến khích trẻ trải nghiệm, tự phát hiện ra tri thức
mới và chấp nhận kết quả sai lầm trong quá trình hình thành kinh nghiệm.
Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động cho trẻ: Đặc trưng nổi bật của
dạy học theo hướng trải nghiệm là dạy học thông qua các hoạt động cụ thể.
Xuất phát từ mục tiêu từng hoạt động học mà giáo viên lên kế hoạch tổ chức
các hoạt động thích hợp cho trẻ, giúp các em chủ động chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết. Trẻ luôn bị cuốn vào các hoạt động cụ thể do giáo
viên tổ chức, mà các hoạt động thì ln vận động, điều đó tạo ra sự hấp dẫn
của nội dung bài học và khiến các em tỏ ra thích thú, ham thích khám phá,
9
thay đổi tích cực, đó là cơ sở của sự thành công ở mỗi cá nhân trẻ tham gia.
Dạy học trải nghiệm rất thích hợp để trẻ tiếp thu những kĩ năng thực hành
thơng qua thực hành làm thí nghiệm và những bài tập thực tế. Việc trẻ được
trải nghiệm bằng các hoạt động cụ thể sẽ giúp các em tạo dựng sự tự tin,
mạnh dạn bộc lộ các điểm mạnh cũng như các kĩ năng xã hội của mình (lãnh
đạo, tổ chức, giao tiếp...).
Đánh giá trong dạy học theo hướng trải nghiệm: Hoạt động đánh giá là
công việc kiểm nghiệm sự hiệu quả trong việc sử dụng phương pháp, hình
thức dạy học có phù hợp với bài dạy hay khơng.Việc đánh giá trẻ khơng chỉ
nhằm mục đích nhận định thực trạng học tập của các em mà còn điều chỉnh
hoạt động của giáo viên giảng dạy.
Giữa cách đánh giá truyền thống và đánh giá trong dạy học trải nghiệm
có những điểm khác biệt rõ rệt. Nếu trong dạy học truyền thống cách đánh
được thực hiện bằng việc giáo viên đặt câu hỏi xem trẻ có trả lời đúng
khơng, thì trong dạy học theo hướng trải nghiệm, ngoài đánh giá kiến thức
của trẻ bằng cách đặt câu hỏi giáo viên còn đánh giá trẻ dựa trên các hoạt
động mà trẻ thực hiện. Các hoạt động mà trẻ làm sẽ thể hiện vốn kiến thức
mà trẻ tiếp thu được. Không những thế, thơng qua các hoạt động, giáo viên
cịn đánh giá được kĩ năng thực hành của trẻ qua việc vận dụng tri thức thu
được vào việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đời sống.
Trong dạy học truyền thống giáo viên giữ vai trò độc quyền đánh giá
trẻ cịn trong dạy học trải nghiệm ngồi việc giáo viên đánh giá thì trẻ cịn
được tham gia đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá kết quả của bản thân mình.
Đánh giá trong dạy học trải nghiệm khuyến khích trẻ suy nghĩ và hoạt động
tích cực nhằm hướng tới mục tiêu hữu ích, các em có thái độ tích cực với
việc học tập của bản thân hơn và sự đánh giá lẫn nhau giữa các trẻ tạo cho
các em ý thức cố gắng vươn lên trong học tập.
10
Hoạt động trải nghiệm của trẻ MG trong đó trẻ phải thể hiện được vai trò là chủ
thể của hoạt động, giáo viên là người hướng dẫn tổ chức các hoạt động giúp trẻ
tự giác, tích cực tiếp nhận kiến thức, kĩ năng, hình thành năng lực thực tiễn
Hoat động trải nghiệm đỏi hỏi trẻ huy động vốn kinh nghiệm sẵn có để giải
quyết các tình huống trong thực tiễn. Trong quá trình này, những kiến thức, kĩ
năng thái độ của trẻ được sử dụng để giúp trẻ có cơ hội phát huy tính độc lập,
sáng tạo, kết nối kiểm nghiệm những kiến thức đã có với những kiến thức mới
thu được từ trải nghiệm và tổng hợp được những kinh nghiệm từ thực tiễn. Trẻ
được sử dụng các giác quan để tiếp xúc với sự vật, hiện tượng trong thực tiễn để
tích lũy các kinh nghiệm, từ đó khái quát thành hiểu biết riêng của bản thân.
Trong hoạt động, cần tạo cơ hội cho trẻ thể hiện khả năng, năng lực thực tiễn
của bản thân và giáo viên cũng có thể khai thác tiềm năng của trẻ trong q
trình trẻ tương tác với các bạn và mọi người xung quanh.
- Hình thức hoạt động trải nghiệm cho trẻ đa dạng, phong phú. Các hình thức
hoạt động phù hợp theo lứa tuổi đều có thể sử dụng để thiết kế cho trẻ trải
nghiệm. Giáo viên có thể sử dụng hình thức hoạt động học, chơi, tham quan, lao
động, ngoài trời…Các hoạt động trên đều chứa đựng những khả năng giáo dục
nhất định và đó cũng là cơ hội để giáo viên và trẻ thể hiện khả năng sáng tạo
của bản thân trong quá trình tham gia hoạt động
1.2.3. Quy trình tổ chức
Theo hướng tiếp cận dạy học chủ động thì trải nghiệm thực tế được xem
là hoạt động đầu tiên trong q trình học tập. Cách tiếp cận này hồn tồn phù
hợp với trẻ mầm non vì đặc điểm tư duy trẻ địi hỏi phải tương tác trực tiếp với
mơi trường, kinh nghiệm cịn ít nên trẻ cần được tạo điều kiện và cơ hội tích lũy
thơng qua các trải nghiệm trực tiếp, việc học của trẻ bắt đầu từ xúc cảm nên cho
qua trải nghiệm cụ thể mới tạo được dấu ấn cảm xúc, kích thích trẻ tích cực lĩnh
hội kinh nghiệm.
11
Dựa trên mơ hình học tập trải nghiệm của Kolb và căn cứ đặc điểm lứa
tuổi, các nhà giáo dục Việt Nam đưa ra quy trình học tập theo hướng trải
nghiệm của trẻ mầm non gồm 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Trải nghiệm thực tế
Trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động do giáo viên tổ chức theo chủ
đề, các sự kiện có liên quan trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày. Sự trải nghiệm
có chất lượng cao hay thâp phụ thuộc vào mức độ tham gia của trẻ, chất lượng
của tình huống cụ thể, thực tế của chúng được trải nghiệm
Giai đoạn 2: Chia sẻ kinh nghiệm
Kinh nghiệm thu được qua trải nghiệm của trẻ cần được chia sẻ với người
khác thì mới được khắc sâu, được ghi nhận, điều chỉnh, chính xác hóa và từ đó
mới đọng lại nơi trẻ những dấu ấn cảm xúc tốt đẹp. Quá trình này tạo điều kiện
để phát triển suy nghĩ của trẻ từ cấp độ thấp đến cấp độ cao và được cụ thể hóa
qua việc trả lời các câu hỏi
Giai đoạn 3: Rút ra kinh nghiệm cho bản than
Trẻ học kiến thức và kinh nghiệm mới tạo ra những hiểu biết mới. Những
kiến thức, kinh nghiệm trẻ đúc kết được dựa vào sự phân tích, đánh giá kinh
nghiệm có được qua các giai đoạn trước đó
Giai đoạn 4: Vận dụng kinh nghiệm vào cuộc sống
Trẻ sử dụng những kiến thức và kinh nghiệm vừa mới lĩnh hội vào các
bối cảnh hoặc sự việc mới và kinh nghiệm cứ thế tạo ra, hiểu biết và kinh
nghiệm của trẻ ngày càng được nâng cao.
Quy trình giáo dục theo trải nghiệm là một chuỗi logic gồm 4 giai đoạn.
Kết quả của giai đoạn trước là điểm khởi đầu, điểm tựa của giai đoạn sau. Kiến
thức, kinh nghiệm mới được hình thành được đưa vào kiểm nghiệm trong tình
huống mới và nó lại trở thành kinh nghiệm có sẵn, kinh nghiệm cụ thể và là trải
nghiệm khởi đầu của một chu trình trải nghiệm mới. Thời gian cần thiết để thực
12
mỗi giai đoạn thay đổi phụ thuộc vào đặc điểm nhận thức, kinh nghiệm của mỗi
cá nhân
Với quy trình trải nghiệm 4 bước như trên, chúng tôi vận dụng vào việc
hướng dẫn sinh viên khám phá môi trường xung quanh trong hoạt động tiết học
khám phá. Điều này giúp nâng cao hiệu quả giờ học khám phá, giúp sinh viên
sáng tạo, linh hoạt vận dụng các phương pháp cho trẻ khám phá MTXQ vào các
giai đoạn trải nghiệm
1.3. Đặc điểm phát triển của trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi
Các hiện tượng tâm lý như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng về cơ bản là sự
nối tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 - 5 tuổi nhưng chất lượng mới hơn. Thể
hiện ở:
- Mức độ phong phú của các kiểu loại
- Mức độ chủ định các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức hơn.
- Tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn.
- Độ nhạy cảm của các giác quan được tinh nhạy hơn.
- Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý được phát triển.
Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới quá trình tâm lý phát triển mạnh mẽ và đặc
trưng nhất, đó là tư duy.
Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác và
thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, thông tin
giữa mới và cũ, gần và xa...
Đặc tính chung của sự phát triển tư duy: Trẻ đã biết phân tích tổng hợp
khơng chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay cả từ ngữ. Tư duy của trẻ dần
dần mất đi tính duy kỷ, tiến dần đến khách quan, hiện thực hơn. Dần dần trẻ
phân biệt được thực và hư. Đã có tư duy trừu tượng với các con số, khơng gian,
thời gian, quan hệ xã hội...Ý thức rõ về những ý nghĩ, tình cảm của mình, trách
nhiệm đối với hành vi. Các phẩm chất của tư duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo và
13
chức năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh hoạt,
độ mềm dẻo...
Ở trẻ 5 - 6 tuổi phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động trực quan vẫn
chiếm ưu thế. Tuy nhiên do nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tư duy hình ảnh trực
quan, tư duy trừu tượng dược phát triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp trẻ đến gần
với hiện thực khách quan.
1.3.2. Đặc điểm phát triển ý thức của trẻ 5 – 6 tuổi
Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự tách mình ra khỏi người khác đã được hình
thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên phải trải qua một quá trình phát triển thì ý
thức bản ngã của trẻ mới được xác định rõ ràng.Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới
hiểu được mình như thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh
đối xử với mình ra sao, và tại sao mình có hành động này hay hành động khác...
ý thức bản ngã được thể hiện rõ nhất trong sự tự đánh giá về thành cơng và thất
bại của mình, về những ưu điểm và khuyết điểm của bản thân, về những khả
năng và cả sự bất lực nữa
14
15
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải học cách
đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá mình như thế
nào. Thoạt đầu sự đánh giá của trẻ về người khác cịn phụ thuộc nhiều vào thái
độ của nó đối với người này. Chẳng hạn mọi đứa trẻ đều đánh giá mẹ mình bao
giờ cũng tốt.
Cuối tuổi mẫu giáo lớn, trẻ nắm được kỹ năng so sánh mình với người
khác, điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở
để noi gương những người tốt, việc tốt. Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức còn
được biểu hiện rõ trong sự phát triển giới tính của trẻ. Trẻ khơng những nhận ra
mình là trai hay gái mà cịn biết nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể
hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính của mình.
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình dần dần phù hợp với những chuẩn mực, những quy tắc xã hội,
từ đó hành vi của trẻ mang tính xã hội. Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng
còn cho phép trẻ thực hiện các hành động có chủ tâm hơn. Nhờ đó các q trình
tâm lý mang tính chủ định rõ rệt.
1.3.3. Đặc điểm xúc cảm, tình cảm của trẻ 5 – 6 tuổi
Ở lứa tuổi này trẻ xuất hiện tình cảm bạn bè. Đời sống xúc cảm, tình cảm
ổn định hơn so với trẻ 4 - 5 tuổi, mức độ phong phú, phức tạp tăng dần theo các
mối quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Các sắc thái xúc cảm con
người trong quan hệ với các loại lứa tuổi khác nhau, vị trí xã hội khác nhau,
được hình thành như: Tình cảm mẹ con, ơng bà, anh chị em, tình cảm với cơ
giáo, với người thân, người lạ...Tuy nhiên đời sống xúc cảm của trẻ cịn dễ dao
động, mang tính chất tình huống.
Tình cảm trí tuệ: Tình cảm trí tuệ của trẻ phát triển, mỗi nhận thức mới
đều kích thích niềm vui, hứng thú, sự say mê thích thú của trẻ; tính tị mị ham
hiểu biết, làm nảy sinh nhiều xúc cảm tích cực; trong vui chơi, học tập, lao động
tự phục vụ nhiều thành cơng thất bại củng cố sự phát triển tình cảm trí tuệ ở trẻ.
16
Tình cảm đạo đức: Do lĩnh hội được ý nghĩa các chuẩn mực hành vi tốt,
xấu. Qua vui chơi giao tiếp với mọi người; do các thói quen nếp sống tốt được
gia đình, các lớp mẫu giáo xây dựng cho trẻ... Trẻ ý thức được nhiều hành vi tốt
đẹp cần thực hiện để vui lịng mọi người.
Tình cảm thẩm mỹ: Qua các tiết học nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, tìm
hiểu mơi trường xung quanh... Cùng với những nhận thức về cái đẹp tự nhiên,
hài hoà về bố cục, sắp xếp trong gia đình và lớp học. Trẻ ý thức rõ nét về cái
đẹp cái xấu theo chuẩn ( lúc đầu theo chuẩn của bé dần dần phù hợp với đánh
giá của những người xung quanh ) xúc cảm thẩm mỹ, óc thẩm mỹ phát triển.
Sự phát triển ý chí: Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được
người lớn giao cho nhiều việc nhỏ... Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của
hành động. Trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục đích với sự cố gắng hồn
thành nhiệm vụ. Trẻ muốn chơi trị chơi, trẻ muốn được nghe kể chuyện nhiều
hơn nhưng không được cơ giáo đáp ứng, phải chuyển trị chơi mà trẻ khơng
thích. Tính mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hồn thành
cơng việc. Tình kế hoạch xuất hiện, trẻ biết sắp xếp "công việc" vui chơi và phải
quét nhà, nhặt rau để khi mẹ về là mọi việc phải xong cho mẹ hài lòng. Tinh
thần trách nhiệm bản thân dần dần được hình thành ở trẻ. Sự phát triển ý chí
mạnh hay yếu tuỳ thuộc phần lớn vào sự giáo dục, các biện pháp giáo dục của
cha mẹ, cô giáo và những người lớn xung quanh.
1.4. Hoạt động vui chơi theo hướng trải nghiệm
1.3.1. Khái quát về hoạt động vui chơi theo hướng trải nghiệm
Hoạt động vui chơi theo hướng trải nghiệm là phương thức sử dụng các
trị chơi trong đó giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động
trong những trò chơi này để trẻ được tham dự hay tiếp xúc, tương tác trực tiếp,
được chiêm nghiệm, tự lực tích lũy kiến thức, kỹ năng, thái độ tạo thành kinh
nghiệm riêng của bản thân. Học qua vui chơi trải nghiệm giúp trẻ có cơ hội và
năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn qua các chủ đề đa dạng mang tính tích
17
hợp, hoạt động của trẻ phong phú, hấp dẫn; trẻ được tiếp xúc, tương tác trực tiếp
với đối tượng, tự khái quát thành hiểu biết riêng của mình.
Khi trẻ được chủ động tham gia tích cực vào các trị vui chơi, trẻ sẽ có
hứng thú và chú ý hơn đến những điều được tiếp cận và ít gặp vấn đề về tuân
thủ kỷ luật. Trẻ có thể học các kỹ năng sống bằng việc lặp đi lặp lại hành vi qua
các trị chơi từ đó tăng cường khả năng ứng dụng các kỹ năng đó vào thực tế.
Trong các hoạt động vui chơi theo hướng trải nghiệm, giáo viên mầm non có vai
trị định hướng, hỗ trợ, đánh giá, uốn nắn cho trẻ. Tùy thuộc vào từng hoạt động
vui chơi và mục đích hướng đến, giáo viên đưa ra các trị chơi để trẻ trải nghiệm
với các hoạt động đó.
Với những ưu thế của mình, hoạt động vui chơi thơng qua trải nghiệm
giúp tính tích cực của trẻ được phát huy ở các khâu của quá trình giáo dục, kinh
nghiệm của trẻ được tích lũy, kiểm chứng, điều chỉnh và phản hồi thơng qua
hoạt động. Đây có thể nói là cách thức phù hợp giúp trẻ mầm non "học bằng
chơi, chơi mà học" hiệu quả nhất, cần được áp dụng triệt để trong quá trình giáo
dục trẻ ở trường mầm non.
1.3.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của trò chơi
a. Khái niệm
Theo Wikipedia: “Trò chơi là một hình thức có cấu trúc của việc chơi
đùa, thường được thực hiện để nhằm mục đích giải trí hay vui vẻ, và đôi khi
được sử dụng như một công cụ giáo dục”.
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do trung tâm từ điển học xuất bản năm
2007 định nghĩa: “Trò chơi alf hoạt động bày râ để vui chơi giải trí.”
Trong cuốn sách “Trò chơi của trẻ mẫu giáo, Tập 6 - Tuyển tập sư phạm
toàn tập”, N.K Crupxkalia đã chỉ ra: “Trò chơi là phương thức nhận biết thế
giới, là con đường dẫn dặt trẻ đi tìm chân lý.” Cũng trong cuốn sách này,
K.D.Usinxki - nhà Giáo dục Nga ông cho rằng: “Trị chơi là một hoạt động
khơng nhằm tạo ra sản phẩm (kết quả vật chất) mà chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu
được chơi của đứa trẻ (kết quả tinh thần)”.
Trong cuốn “Giáo dục học trẻ em, tập III, NXB ĐHQG Hà Nội - 1997”
thì “Trị chơi là một hoạt động độc lập - tự do và tự nguyện của đứa trẻ”.
18
Qua những khái niệm trên có thể rút ra, trị chơi có các thành phần chính
là mục tiêu, quy tắc, thử thách và tương tác. Các trò chơi thường liên quan đến
kích thích tinh thần hoặc thể chất, và thường là cả hai. Nhiều trò chơi giúp phát
triển các kỹ năng thực hành, phục vụ như một hình thức tập thể dục hoặc thực
hiện một vai trị giáo dục, mơ phỏng hoặc tâm lý .
b. Đặc điểm
Trị chơi khơng phải là thật mà là giả vờ như làm một cái gì đó nhưng
mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động tác,
hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện khơng thể
gị ép hoặc bắt buộc chơi khi trẻ khơng thích, khơng đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của chúng.
Trị chơi được giới hạn bởi khơng gian và thời gian, có qui tắc tổ chức
(luật chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ quy định quy mô, số
lượng người chơi, điều kiện, vật chất, cũng như xác định tính chất, phương pháp
hành động, tổ chức và điều khiển hành vi cũng như những mối quan hệ lẫn nhau
của người chơi.
Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa
chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hồn cảnh chơi, sử dụng phương
tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phương thức hành động
và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong những trị chơi
có luật.
Trị chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện trẻ, giúp trẻ nâng
cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thơng minh, lịng
ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ.
Ngồi ra, trị chơi là phương tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho trẻ.
Các phẩm chất nhân cách được hình thành thơng qua chơi như tính hợp tác, tính
đồng đội, tính tập thể, tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo, sự quan
tâm lo lắng đến người khác, thật thà, dũng cảm, kiên nhẫn,…Trò chơi còn là
phương tiện giáo dục thể lực cho trẻ, giáo dục thẩm mỹ, hình thành các kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng xã hội,...
19
Về mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trị chơi tất cả các thành viên
của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì
mỗi cá nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với những
gì các em đã sống trong cuộc sống thực.
c. Phân loại
Trò chơi rất đa dạng và phong phú, trò chơi trên rừng, biển, sơng, núi,
ngồi trời, trong phịng v.v… Nên rất khó mà phân loại được hết. Nhưng chúng
ta có thể căn cứ vào một số điều kiện dưới đây để có thể phân loại trò chơi cho
phù hợp với đối tượng chơi . Thông thường người ta chỉ đưa ra hai loại; trong
phịng và ngồi trới hoặc trị chơi động và tĩnh mà thôi.
Trong bài này, tôi xin giới thiệu một số điều kiện để phân loại trò chơi
cho phù hợp cho trẻ mầm non như sau:
* Theo tính chất nội dung:
- Trò chơi phản xạ: (qui ước về động tác lời nói ).
+ Phản xạ thuận (làm theo khẩu lệnh).
+ Phản xạ nghịch (làm ngược lai với khẩu lệnh ).
+ Phản xạ chéo (nói và làm thế nay thì nói và làm thế khác).
- Trị chơi trí tuệ:
Là một loại nghiêng về trí tuệ, phải sáng tạo và quan sát nhanh, phải suy
luận, phán đốn, thì mới chơi tốt được. Trị chơi này ln có qui định về mặt
thời gian (hỏi-đáp).
- Trò chơi vận động:
+ Vận động nhẹ : ngồi tại chỗ, có thể kết hợp hát với sinh hoạt vòng tròn,
đòi hỏi sự khéo léo và nhạy bén.
+ Vận động mạnh: dùng nhiều sức lực nhanh nhẹn, tháo vát, chơi được cả
tập thể.
- Trò chơi cảm giác:
Đây là loại trị chơi phải sử dụng thị, thính, vị, xúc, khứu giác, nó cịn địi
hỏi phải kết hợp đến sự khéo léo, phán đốn , quan sát.
- Trị chơi kết hợp:
Ngồi ra, cịn có những trị chơi phối hợp giữa vận động và trí tuệ, hay
giữa phản xạ và vận động. Điều này tùy thuộc vào khả năng xây dựng và phối
hợp của người tổ chức. Thơng thường thì ta chỉ nên kết hợp 2 tính cách, chứ
khơng nên phức tạp hóa, địi hỏi người chơi phải vừa động não vừa vận động
20
tay chân khiến mất đi mục đích quan trọng nhất là sự vui vẻ mà trò chơi đem lại
cho người chơi ( chủ yếu là trẻ em).
* Theo đối tượng tham gia:
- Đối tượng nam: Cách chơi và luật chơi đơn giản nhưng địi người chơi
nhiệt tình, nên có vận động mạnh, tạo hào hứng liên tục, trị chơi ln thay
nhanh mới lạ, gay cấn, sôi động, rèn luyện thể lực, tháo vát, nhanh nhẹn, giáo
dục tính thi đua, khơng ích kỉ, vị tha, trung thực, luôn sẵn sàng. ( Chủ yếu là các
trò chơi vận động).
- Đối tượng nữ: Cách chơi và luật chơi đơn giản, không vận động quá sức
gây mệt, thường nên kèm bài hát, múa rèn luyện tính chịu khó quan sát, giáo
dục tính hiền hồ, vui tươi chăm chỉ, nên chọn những trò chơi nhẹ nhàng. (Chủ
yếu trị chơi trí tuệ, cảm giác).
- Đối tượng nam và nữ: Cách chơi và luật chơi hơi khó, vận động mạnh,
tạo sự thi đua không ngừng của các nhóm, rèn luyện sự phán đốn nhanh, tính
đồng đội nhạy bén, tạo sự thân thiện, hoà đồng tập thể. Điều lưu ý là cần tránh
các hoạt động đụng chạm cơ thể nhất là các khu vực nhạy cảm, tránh sự lạm
dụng hay e dè của người chơi.
* Theo địa điểm:
- Trị chơi trong phịng: khơng gian giới hạn do tường, vách và đồ đạc,
nên tạo bầu khơng khí nhẹ nhàng, dùng trị chơi vận động nhẹ, khơng q dài,
nên thay đổi liên tục trò chơi, tạo sự vui nhộn, rồi hãy vào những sinh hoạt
trọng tâm.
- Trị chơi ngồi trời: khơng gian rộng rãi và thống như sân chơi, vườn
cây, bãi biển, đất trại thì dùng các loại trị chơi vận động mạnh, có thi đua, nên
tạo bầu khơng khí ln ln sơi động.
* Như vậy có rất nhiều trị chơi dành cho trẻ em, các trị chơi khơng chỉ
phong phú về nội dung mà nó cịn đa dạng về thể loại. Có nhiều cách phân loại
trị chơi, trong đó Giáo sư Vũ Ngọc Khánh (Viện văn hóa dân gian) chia trò
chơi thành 4 loại như sau:
- Trò chơi vận động: gồm các trò chơi cho trẻ em vận động chân, tay,
chạy, nhảy gây khơng khí vui nhộn, sinh động như “rửa đồ chơi, tạo ra đồ chơi
21
mới, nghe âm thanh sờ để cảm nhận nguyên liệu” giúp trẻ có nhiều hứng thú và
hăng say chơi.
- Trị chơi học tập: đó là những trị chơi nhằm phát triển trí tuệ cho trẻ,
dạy trẻ biết quan sát, tính toán, dạy trẻ hiểu về con người và các hiện tượng
xung quanh.
- Trò chơi sáng tạo: là những trò chơi trẻ tự làm nên những đồ vật bằng
những vật liệu tự nhiên như xé lá chuối thành con cào cào, cái đồng hồ, xếp lá
dừa thành chong chóng…Những trị chơi này giúp rèn luyện khả năng khéo léo
của đôi bàn tay, trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ, khơi dậy khiếu thẩm mĩ cho
cuộc sống sau này của trẻ.
- Trò chơi mơ phỏng: là những trị chơi trẻ mơ phỏng, bắt chước sinh hoạt
của người lớn như: cày ruộng, nấu ăn, chăm sóc người ốm…Trong trị chơi này,
trẻ được hóa thân vào những vai trò của người lớn mà trẻ thích, từ đó phát huy
tính tưởng tượng, sáng tạo của trẻ, trẻ nhập được vào các mối quan hệ trong xã
hội, học được cách ứng xử đúng mức giữa người với người, đó cũng chính là
cách trẻ học làm người lớn, trưởng thành hơn trong nhận thức của mình.
d. Ý nghĩa
Trị chơi là một phương thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại niềm
vui, sự hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho trẻ,.... để trẻ tiếp tục học tập và rèn
luyện tốt hơn.
Có thể thấy trị chơi có mục đích lành mạnh, tính sư phạm, tính giáo dục
thì trị chơi mới đạt được hiệu quả giá trị về tinh thần và thể chất của người
chơi:
- Đạo đức: tạo cho người chơi tính nhẫn nại, đồn kết, hồ đồng với tập
thể, vui tính, vị tha.
- Trí tuệ: Giúp cho người chơi có tính sáng tạo có óc quan sát nhanh,
nhận định được lời nói nhanh, phán đốn và ứng xử khôn khéo, nhớ được lâu,
khéo léo.
- Thể lực: Rèn luyện cho người chơi nhanh nhẹn tai mắt, tay chân, có sức
bền cao, tăng cường thêm sinh lực, tính chịu khó, tháo vát.
22
Ngồi những giá trị kể trên, trị chơi cịn làm giảm đi những tật xấu như:
nóng tính, cộc cằn, hay ăn gian, sửa được những khuyết điểm mà cá nhân hay
tập thể bộc lộ khi chơi. Vì thế cần phải có luật chơi rõ ràng, có thi đua, có
thưởng, phạt công minh, bất vụ lợi, vô tư.
1.5. Hoạt động trải nghiệm với việc cho trẻ 5 - 6 tuổi chơi với vật liệu tự
nhiên ngoài trời
1.5.1. Khái niệm
* Nguyên vật liệu tự nhiên là gì?
Nguyên vật liệu tự nhiên là những ngun vật liệu có nguồn góc từ thiên
nhiên, mơi trường sống của trẻ. Đây là những nguyên vật liệu giáo viên sử dụng
cho trẻ chơi hoặc sử dụng làm phương tiện học tập. Sử dụng nguyên vật liệu tự
nhiên tận dụng được những gì sẵn có trong thiên nhiên. An tồn, tiết kiệm và vơ
cùng sinh động với trẻ.
Có nhiều loại nguyên vật liệu tự nhiên xung quanh trẻ như: ngun vật
liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên vơ sinh, nguyên vật liệu xuất phát từ thiên
nhiên hữu sinh. Cụ thể
- Nguyên vật liệu từ thiên nhiên vô sinh: Cát, sỏi, đá..
- Nguyên vật liệu từ thiên nhiên hữu sinh: hạt, lá cây khơ, vỏ sị, cành cây
khơ…..
* Hoạt động trải nghiệm cho trẻ chơi với nguyên vật liệu tự nhiên là gì?
Hoạt động trải nghiệm cho trẻ chơi với nguyên vật liệu tự nhiên là hoạt
động giáo viên lập kế hoạch tổ chức cho trẻ chơi khám phá với nguyên liệu tự
nhiên ngoài trời như cát, sỏi, đá, lá cây, hoa, cỏ. đất…xung quanh trẻ. Giúp trẻ
có kiến thức về thế giới tự nhiên, phát triển kĩ năng hoạt động, sáng tạo và vận
dụng hiểu biết của mình về nguyên liệu tự nhiên vào cuộc sống của trẻ.
1.5.2. Mục đích
Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5 – 6 tuổi chơi với vật liệu tự
nhiên ngoài trời với mục đích giúp trẻ phát triển kĩ năng xã hội, kĩ năng hoạt
động nhóm và khả năng vận dụng kinh nghiệm vào hoạt động. Ngoài ra, tổ chức
trải nghiệm cho trẻ chơi ngoài trời với nguyên liệu tự nhiên còn giúp trẻ phát
huy khả năng sáng tạo, yêu thiên nhiên và môi trường sống xung quanh, sống
thân thiện với môi trường.
23
1.5.3. Vai trò của việc trẻ 5 – 6 tuổi chơi với vật liệu tự nhiên ngoài trời
Bản chất của trò chơi là một hoạt động tự do thoải mái. Khác với các hoạt
động có tính tổ chức khác như lao động hay thể thao, vui chơi, không chỉ đầy sự
ngẫu hứng mà đơi khi trơng có vẻ bừa bộn, thiếu ngăn nắp. Trò chơi thường gắn
với cuộc sống của trẻ mầm non và liên quan đến việc sử dụng các nguyên vật
liệu từ thiên nhiên như đất, cát, nước, đất sét, sơn…Càng nhỏ trẻ càng thích tiếp
xúc trực tiếp với chúng như: khuấy trộn, nhào nặn, ấn, đập…bằng tay, thay vì
dùng cụ như thìa, dao, xẻng…để chơi. Kiểu chơi có vẻ “nghịch bẩn” này làm
người lớn cảm thấy mệt nhọc hơn khi phải trông coi, giám sát chặt chẽ đến quần
áo có thể ẩm ướt hay dính bẩn. Ngồi ra, dọn dẹp “hiện trường” bừa bộn sau khi
trẻ chơi cũng chẳng nhẹ nhàng gì. Tuy vậy, các giáo viên mầm non tâm huyết và
u trẻ thì ln chấp nhận các phiền tối đó để khuyến khích, tạo cơ hội cho trẻ
“nghịch”. Vì họ hiểu rằng, nó thật sự cần thiết cho sự phát triển của trẻ cũng
như các hoạt động giáo dục khác.
Trẻ em rất cần chơi nghịch tự do để tiếp xúc trực tiếp với thế giới thiên
nhiên. Sẽ là sự thiệt thòi nếu trẻ, đặc biệt sống ở thành phố, hằng ngày trong 4
bức tường, chỉ chơi với những đồ chơi nhân tạo, được thiết kế bởi người lớn.
Một số đồ chơi trông rất đẹp này thường được gắn với tính “giáo dục”. Nhưng
thực ra, chúng ít kích thích các ý tưởng sáng tạo của trẻ. Nhiều món đồ chơi
được làm bằng nhựa, dễ lau chùi, nhưng chỉ hạn chế ý tưởng chơi theo cách mà
nhà sản xuất đã định sẵn. Ngược lại, các vật liệu tự nhiên trên trái đất mở rộng
tính đa dạng của trị chơi. Chúng chỉ cung cấp những gợi ý cơ bản cho trẻ tự
mày mò ra cách chơi và trò chơi cho mình. Khơng bao giờ chỉ có một cách chơi
đúng duy nhất cho các vật liệu có sẵn. Chơi với cát hay đất nặn như thế nào là
tùy trẻ. Chúng phải luôn tự nghĩ, lập kế hoạch và tưởng tượng khi chơi. Một khi
vật liệu chơi uyển chuyển, linh động, khơng có khn mẫu sẵn như vậy, các ý
tưởng về trò chơi sẽ hết sức linh động và được mở rộng trong q trình hình
thành trị chơi. Lúc đầu trẻ chỉ định đào một cái rãnh cho nước chảy qua, sau đó
chúng lại nảy sinh ý tưởng làm một con sông với những chiếc cầu bắc qua bằng
24
que và những chiếc thuyền bằng lá cây trôi trên đó. Ban đầu định nặn một con
chó bằng đất sét chẳng mấy chốc nó lại biến thành con voi nhờ trẻ kéo dài cái
mũi thành vịi. Rồi thì ý định xây dựng một vườn thú được hình thành. Tư duy
của trẻ nhỏ mang tính trực quan hành động. Khi chơi với các vật liệu thiên
nhiên chúng suy nghĩ bằng đôi tay. Chúng thực hiện ngay các ý tưởng chợt xuất
hiện, biến đổi liên tục hình dạng vật liệu theo sáng kiến nảy sinh bất ngờ. Người
ta thấy rằng trẻ thường giao tiếp tích cực hơn bằng lời khi chơi nghịch với các
chất lỏng như nước. Không phải mọi trẻ đều có ý định cụ thể khi chơi với đất,
cát nước. Trẻ tuổi mầm non ham thích sờ mó để cảm nhận sự vật. Chúng chỉ
đơn giản muốn ngồi trên cát, vọc tay bốc lên cho cát rơi qua kẽ tay, giẫm lên
vũng nước bùn để cảm nhận bùn tóe qua các ngón chân, đổ nước qua lại các
bình chứa, ịn ngón tay lên bàn để xem chuyện gì xảy ra. Tất cả hành động trên
đều là một phần quan trọng trong việc khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh
thơng qua “mày mò” trực tiếp. Khi xưa, các họa sĩ, kỹ sư, nhà khoa học đều
từng bắt đầu như vậy để tìm hiểu đầy đủ về vật chất xung quanh. Chơi nghịch
thoải mái như vậy còn giúp trẻ làm dịu cảm xúc. Vò, ấn, đập đất sét bằng tay
hoặc xây lâu đài bằng cát rồi lại nhảy ùn lên nó được nhìn nhận như một cách
giúp trẻ trút bỏ sự nóng giận và tính hung hăng. Chỉ trong vịng cho phép của
trò chơi trẻ mới được thử phá phách một chút để giải tỏa ức chế mà không gây
tổn hại gì đến mọi người. “Nghịch” lung tung với vật liệu thiên nhiên có tác
dụng làm dịu đáng kể căng thẳng vì trẻ cảm thấy tự do khi được theo cách của
mình, thay vì bị người lớn ép buộc. Bản chất tự nhiên của thiên nhiên là làm cho
hầu hết chúng ta thấy nhẹ nhõm hơn khi đắm mình trong đó. Các bà mẹ biết rất
rõ là một đứa trẻ đang nóng giận sẽ trở nên vui vẻ khi cho nó vào bồn tắm với
nước hoặc giẫm đôi chân trần trên cát. Trẻ bị căng thẳng thần kinh lại cần thiết
cho loại trò chơi nghịch này. Tất cả ai liên quan đến việc chăm sóc trẻ mầm non
đều nên coi trọng và tạo cơ hội cho trẻ chơi nghịch với vật liệu thiên nhiên
thường xuyên.
Kết luận chương 1
25
Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 5 – 6 tuổi chơi với vật liệu tự
nhiên ngoài trời với mục đích giúp trẻ phát triển kĩ năng xã hội, kĩ năng hoạt
động nhóm và khả năng vận dụng kinh nghiệm vào hoạt động. Ngoài ra, tổ chức
trải nghiệm cho trẻ chơi ngồi trời với ngun liệu tự nhiên cịn giúp trẻ phát
triển các giác quan. Tạo cơ hội cho trẻ phát huy khả năng sáng tạo, yêu thiên
nhiên và môi trường sống xung quanh, sống thân thiện với môi trường.
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TRẢI NGHIỆM CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI CHƠI VỚI VẬT LIỆU TỰ NHIÊN
NGOÀI TRỜI
3.1. Nguyên tắc đề xuất
3.1.1.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và phát triển
Hệ thống các đối tượng từ gần đến xa, từ quen thuộc đến xa lạ và nói
chung tính đồng tâm và phát triển trong nội dung khám phá về nước. Khối
lượng kiến thức phải tăng dần một cách thích đáng, từ nội dung gần gũi đến cá
sự vật hiện tượng xa lạ, đối với trẻ nhỏ chủ yếu là cung cấp những kiến thức cụ
thể về những đối tượng quen thuộc. Đối với trẻ lớn hơn thì phải cung cấp kiến
thức khái qt về nước.
Theo Vưgơtxki thì “Dạy học được coi là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát
triển và kéo theo sự phát triển” cơ sở của quan điểm này là lý thuyết “vùng phát
triển gần nhất do ông đề xướng, lý luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải
có tác dụng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của người học”. Nguyên tắc đảm bảo
tính phát triển của trẻ gồm:
Phát triển về số lượng đối tượng cho trẻ làm quen
Mức độ nhận thức của trẻ phát triển theo độ tuổi của trẻ. Chính vì vậy khi
CTLQVMTXQ thì giáo viên nên cần phải phát triển các số lượng các đối tượng
cho trẻ làm quen để giúp trẻ mở rộng hiểu biết, giúp trẻ thấy được sự phong phú
đa dạng của môi trường sống.
3.1.2.
Nguyên tắc đảm bảo phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân