Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Đề tài:CÁC CHỨC NĂNG PHÁP LUẬT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.67 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
****************

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề tài 11:CÁC CHỨC NĂNG PHÁP LUẬT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM
HIỆN NAY

ĐIỂM

NHẬN XÉT VÀ CHỮ KÝ CỦA GIẢNG VIÊN

Sinh viên thực hiện: Vũ Minh Công 20184052
Mã lớp: 122064
Giảng viên hướng dẫn: TS Nguyễn Văn Lâm
Hà Nội, tháng 05 năm 2021

1


MỤC LỤC
Phần mở đầu………………………………………………………...............3
Phần nội dung…………………………………………………………….....4
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÁP LUẬT…………………………....4
1.1 Khái niệm……………………………………………………………....4
1.2 Chức năng cơ bản của pháp luật……………………………………..5
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY…………….......8
2.1 Chức năng điều chỉnh……………………………………………........8
2.2 Chức năng bảo vệ……………………………………………………...8
2.3 Chức năng giáo dục…………………………………………………....8


Phần kết luận……………………………………………..............................9
Tài liệu tham khảo………………………………………............................10

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta “...vừa vận động theo những quy luật
của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội...”. Với mơ hình kinh tế thị trường như vậy, Nhà nước nói chung, pháp luật nói riêng có vai
trị đặc biệt quan trọng trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển.
Pháp luật có tầm quan trọng khơng chỉ đối với mọi cá nhân, tổ chức, mà còn đối với sự tồn tại và
vận hành bình thường của xã hội. Muốn xã hội ổn định và ngày càng phát triển cần phải có hệ
thống pháp luật hồn chỉnh và đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động của con người và của toàn xã
hội. Vậy chức năng của pháp luật được hiểu như thế nào và có những chức năng nào? Bài tiểu luận
sẽ làm rõ vấn đề đó.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu, phân tích và làm rõ về các chức năng của pháp luật trong đời sống xã hội hiện nay
thơng qua các đánh giá, so sánh và ví dụ.
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu: các bài báo, văn bản pháp luật, nghiên cứu khoa học.
4. KẾT CẤU TIỂU LUẬN
Bài tiểu luận gồm 2 phần chính
Chương 1: Tìm hiểu chung về pháp luật
Chương 2: Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay

3



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
1.1 Khái niệm
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Trong xã hội cần có một trật tự nhất định và sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ xã hội –
quan hệ giữa người với người trên các lĩnh vực.
Các quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay rất đa dạng bao gồm: các quy phạm chính trị do các cơ
quan, tổ chức của Đảng ban hành; các quy phạm do các tổ chức chính trị – xã hội ban hành; các
quy phạm đạo đức, phong tục, tôn giáo và pháp luật. Trong các quy phạm đó, pháp luật là những
quy tắc xử sự chung nhất, phổ biến nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Theo cách hiểu chung nhất, pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử
sự) có tính chất bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước bảo đảm thực
hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bởi bộ máy Nhà nước. Pháp
luật là cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của đời sống xã hội và Nhà nước, là công cụ để Nhà
nước thực hiện quyền lực của mình.
Như bản chất của Nhà nước, pháp luật mang bản chất giai cấp và xã hội. Ý chí của giai cấp thống
trị được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và nhờ có pháp luật ý chí của giai cấp thống trị trở
thành ý chí của Nhà nước.
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên pháp luật thể hiện ý chí
của giai cấp cơng nhân, nơng dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác trong xã hội.
Pháp luật thể hiện và bảo vệ lợi ích của số đơng nhân dân trong xã hội. Thơng qua pháp luật, ý chí
của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước.

4


Pháp luật khơng chỉ mang tính giai cấp và tính xã hội mà pháp luật còn phản ánh hiện thực xã hội

và các quy luật khách quan của đời sống xã hội.
1.2 Các chức năng cơ bản của pháp luật
Pháp luật gồm có 3 chức năng cơ bản đó là: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng
giáo dục, cụ thể:
Khái niệm chức năng là một khái niệm rất đa dạng và đôi khi rất mâu thuẫn. Trong các nghiên cứu
xã hội hiện nay khái niệm đó có một số nghĩa. Chức năng là sự thể hiện của sự lệ thuộc trong sự
tác động lẫn nhau giữa hai hoặc nhiều nhân tố hay thay đổi. Chức năng là tổng thể các quá trình
diễn ra trong phạm vi của khách thể nghiên cứu (ví dụ: sự hoạt động của các cơ quan tư pháp).
Chức năng là kết quả mong muốn của sự hoạt động, của quá trình, của hiện tượng xã hội nào đó.
Chức năng là tổng thể tất cả các hậu quả mong đợi và thứ yếu của sự hoạt động, của quá trình, của
hiện tượng.
Ở dạng chung nhất chức năng của pháp luật được hiểu là phương hướng tác động của pháp luật
được quyết định bởi mục đích xã hội của nó đến các quan hệ xã hội.
Đối với từng ngành pháp luật riêng biệt chúng ta cịn có thể tách ra một khía cạnh nữa của khái
niệm chức năng không được bao trùm bởi định nghĩa nói trên. Ở đây muốn nói về sự tác động của
các ngành pháp luật với nhau. Tất cả các mối liên hệ phụ thuộc đó cần được nghiên cứu trong
phạm vi của vấn đề chức năng của pháp luật.
Trong khoa học pháp lý có quan điểm khác về các chức năng cơ bản của pháp luật. Thông thường,
trong lý luận về pháp luật người ta tách ra chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ của pháp
luật. Việc phân loại đó xuất phát từ thuộc tính của pháp luật và cho phép đưa ra đặc trưng pháp lý
trong hoạt động của pháp luật. Nhưng việc phân loại đó không thể đưa ra cơ sở đầy đủ cho việc
nhận thức và làm sáng tỏ mực đích xã hội của pháp luật, vai trị sáng tạo, tích cự của nó trong việc
cải tạo biến đổi các quan hệ xã hội. Việc phân loại các chức năng của pháp luật thành chức năng
điều chỉnh và chức năng bảo vệ hoàn toàn phù hợp với giai đoạn phát triển của khoa học pháp lý
đó chỉ tiến hành nghiên cứu những vấn đề pháp lý bên trong của nó.
Vì vậy, để đưa ra cách luận giải đúng đắn về chức năng của pháp luật cần phải xuất phát từ các
tiền đề sau:
– Pháp luật với tư cách là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc suy cho cùng được quy định
bởi các điều kiện vật chất của đời sống xã hội và cùng với những thay đổi của các điều kiện đó các
chức năng của pháp luật cũng được biến đổi. Ở nghĩa đó, các chức năng của pháp luật được phát

sinh từ hệ thống các quan hệ xã hội được biểu hiện dưới hình thức pháp lý, dừ rằng các chức năng
đó phụ thuộc vào các thuộc tính đặc thù và nội dung của chính pháp luật.

5


– Pháp luật là sản phẩm của hoạt động có ý thức của con người nhằm bảo đảm và bảo vệ cá nhân,
các nhóm xã hội, các giai tầng và các giai cấp, nhằm đạt được các mục đích chung của sự phát
triển xã hội. Ở nghĩa đó việc điều chính pháp luật đối với các quan hệ xã hội bằng cách này hay
cách khác liên quan với việc giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống xã hội đặt ra đối với pháp luật
ở giai đoạn phát triển lịch sử đó.
– Pháp luật là một trong những yếu tố của hệ thống xã hội và các yếu tố của hệ thống đó đều ảnh
hưởng đến tất cả các bộ phận hợp thành của nó.
Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp luật phản ánh bản
chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật.
Chính vì vậy cần phải xem xét, nghiên cứu các chức năng xã hội của pháp luật trong hệ thống
thống nhất của sự quản lý xã hội và cả trong mối quan hệ lẫn nhau với các nhân tố kinh tế, xã hội,
chính trị và tư tưởng riêng của sự phát triển xã hội.
Trên cơ sở, cần xem xét chức năng xã hội của pháp luật trên các chức năng cơ bản sau:
Một là, chức năng điều chỉnh: Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã
hội của pháp luật. Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Sự điều
chỉnh của pháp luật lên các quan hệ xã hội được thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp luật ghi
nhận các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội. Mặt khác pháp luật bảo đảm cho sự phát triển của
các quan hệ xã hội. Như vậy pháp luật đã thiết lập “trật tự” đối với các quan hệ xã hội, tạo điều
kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp
thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan của các quan hệ xã hội.
Hai là, chức năng bảo vệ: Chức năng bảo vệ là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều
chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được
quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm

pháp luật. Chẳng hạn hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý theo Luật hình sự,
hnàh vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự.
Ba là, chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác
động của pháp luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự
được quy định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thơng qua việc xử lý những cá nhân, tổ
chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm tội hình sự…).
Xuất phát từ các vấn đề đã phân tích ở trên có thể đưa ra định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật
là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, được nhà nước bảo đảm thực
hiện nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực
nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
6


Chức năng giao tiếp của pháp luật: Một trong những khái niệm cơ bản của khoa học xã hội trong
giai đoạn hiện nay là khái niệm và mối liên hệ nhân quả – thơng tin. Khái niệm đó có ý nghĩa rất
lớn ở khía cạnh quản lý sự phát triển xã hội. Hoạt động sống về mặt xã hội của các cá nhân liên
quan chặt chẽ hữu cơ với việc thu nhận, tiếp nhận, chiếm lĩnh, lưu giữ và sử dụng thông tin xã hội.
Thông tin pháp luật là một trong những dạng của thơng tin xã hội mang tính chất mệnh lệnh, quy
định. Với sự hỗ trợ của quy phạm pháp luật quan điểm của Nhà nước về hành vi địi hỏi phải có
hành vi cho phép hoặc cấm đốn được thơng báo cho những người tham gia các quan hệ xã hội.
Như vậy, trong hoạt động của mình – hoạt động cá nhân hoặc tập thể, các công dân được thông tin
về các phương pháp và các biện pháp của việc đạt được các kết quả cần thiết, về các hậu quả của
việc vi phạm các quy định của pháp luật.

7


CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Chức năng điều chỉnh
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng được mở rộng.
Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước ta đã xây dựng một khung pháp lý mới trong mọi lĩnh vực quan
hệ xã hội. Nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế đã được thể hiện và
thực hiện.
– Trong thời gian tới, công tác xây dựng pháp luật cầ tập trung vào những lĩnh vực quan hệ xã hội
quan trọng như: xây dựng khung pháp lý cần thiết cho sự hình thành đồng bộ các thiết chế thị
trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính: xóa bỏ cơ chế “xin – cho”…
2.2 Chức năng bảo vệ
– Chức năng bảo vệ: Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về đảm
bảo, bảo vệ các quyền con người bằng hệ thống pháp luật và cơ chế pháp lý – xã hội thực hiện.
Pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tất cả
các lĩnh vực đời sống xã hội. Các quy định pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo, quyền trong lĩnh
vực giáo dục, học tập, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, quyền tự do cá nhân: bất khả xâm
phạm về thư tín, điện thoại, chỗ ở, bí mật đời tư…được tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nhà
nước ta cần quan tâm hơn để hoàn thiện các văn bản pháp luật về hình thức, thủ tục và cơ chế thực
hiện các quyền con người.
2.3 Chức năng giáo dục
– Chức năng giáo dục của pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện bằng nhiều hình thức,
phương pháp khác nhau như phổ biến pháp luật, tư vấn và trợ giúp pháp luật, thông qua hoạt động
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Để có hiệu quả giáo dục, cần đổi
mới các hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ, điều kiện và
nhu cầu của các đối tượng giáo dục pháp luật. Xây dựng mơi trường văn hóa pháp luật, sự tuân
thủ pháp luật từ phía các cơ quan công quyền và các nhân viên của họ, đảm bảo tính đúng đắn của
các quyết định áp dụng pháp luật.

8


PHẦN KẾT LUẬN

Pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với Nhà nước, khơng có nghĩa giản đơn là Nhà nước “đẻ” ra
pháp luật theo mong muốn chủ quan của mình. Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật ra đời từ
đòi hỏi khách quan của các quan hệ kinh tế thị trường, đến lượt mình mới dẫn đến nhu cầu Nhà
nước cần phải có pháp luật. Như vậy, xét về nguồn gốc ra đời, pháp luật có tính độc lập tương đối
so với Nhà nước. Điều đó chỉ ra rằng, việc Nhà nước ban hành pháp luật phải xuất phát từ nhu cầu
khách quan, phù hợp với đặc điểm của các quan hệ xã hội, chứ không thể coi pháp luật đơn thuần
là công cụ, trong tay Nhà nước, phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của Nhà nước, là để quản lý xã
hội, chứ không phải để quản lý bản thân mình. Pháp luật thực sự là của Nhà nước, chỉ khi Nhà
nước nhận thức được đầy đủ nhu cầu và giá trị của các quan hệ xã hội cần phải điều chỉnh bằng
pháp luật. Theo đó, pháp luật trước hết là phương tiện quản lý bản thân Nhà nước, sau đó mới là
phương tiện quản lý xã hội.
Với các quan điểm và nguyên tắc nói trên, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các đạo
luật liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước. Đặc biệt, xây dựng các định chế công phi lợi nhuận
để cung cấp dịch vụ công cộng, như y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, trợ giúp pháp lý, hỗ trợ
thông tin, khuyến nông, khuyến ngư... Các thành phần kinh tế và Nhà nước đều có quyền đầu tư,
khơng phân biệt ai là chủ sở hữu đều được thành lập để phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của
cộng đồng mà khơng thu lợi nhuận. Theo đó, Nhà nước cần sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật
tổ chức dịch vụ cơng phi lợi nhuận. Khi đó, vai trị quản lý của Nhà nước chính là kiểm tra, giám
sát hoạt động mà không làm thay các tổ chức này.

9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2016.
2. (1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr. 34
3. (2) Báo cáo phát triển của UNDP năm 1994
4. Theo: tapchicongsan.org.vn


10



×