Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và sự vận dụng của Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.86 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MƠI TRƯỜNG

Đề tài bài tập lớn : Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và
sự vận dụng của Đảng vào việc đánh giá tình hình phát triển giáo dục – đào tạo


Việt Nam
Họ và tên sinh viên
Mã sinh viên
Lớp
Tên học phần
Giáo viên hướng dẫn

Hà Nội , ngày tháng năm


Mở đầu
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có
những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biển nước ta từ một nước
độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với yêu cầu bức thiết và cháy bỏng
là: “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Chế độ phong kiến Việt Nam cùng với hệ
tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc chống ngoại
xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong nội bộ giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa
sâu sắc. Triều đình nhu nhược, cam chịu làm tay sai cho thực dân. Vì vậy các phong
trào đấu tranh của nhân dân ta theo ý thức hệ phong kiến (tiêu biểu là phong trào Văn
Thân và phong trào Cần Vương) lần lượt đều bị thất bại.


nước ta, sau khi Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược ký “hòa ước” đầu hàng, những
năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa lần thứ


nhất. Xã hội Việt Nam bắt đầu có những biến chuyển và phân hóa sâu sắc. Sự xâm
nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp đã làm nảy sinh trong xã hội Việt Nam hai giai cấp
mới: Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Sự tác động của tự tưởng tiến bộ ở phương
Tây cũng như cuộc cách mạng Tân Hợi và cuộc vận động cải cách của Khang Hữu
Vi, Lương Khải Siêu ở Trung Quốc cũng có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, nhất là
q trình chuyển biến về tư tưởng chính trị.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ nghiên cứu về “ Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế
kỷ XIX – đầu thế kỷ XX và sự vận dụng của Đảng vào việc đánh giá hình thành
phát triển giáo dục – đào tạo ở Việt Nam ”.


I

. Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX

1.1 . Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm
thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng
bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam .
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam
thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp
địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân ta.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu
tư vốn khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai
thác thuộc địa của Pháp đã tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình
thành một số ngành kinh tế mới…) nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế
nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vịng lạc hậu.

Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân;
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu… Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế
độ cai trị thực dân ở Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột
một cách nhục nhã, mà cịn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc
phiện, bằng rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi
khơng có quyền tự do học tập .”
1.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa ngày càng sâu sắc:
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có


sự phân hóa: một bộ phận địa chủ có lịng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã
tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn
khổ, bần cùng của giai cấp nơng dân Việt Nam đã làm tăng thêm lịng căm thù đế
quốc và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu
tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và
vùng mỏ như: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp xuất thân từ giai cấp nơng dân, nạn nhân
của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì
vậy, giai cấp cơng nhân Việt Nam có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông
dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc
điểm nổi bật là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã
sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin”
Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương

nghiệp... Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản
người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp
tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều
kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và
những người làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan
trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị
phá sản trở thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng u nước, căm
thù đế quốc thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngồi
truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao.


Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã
hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt
là sự ra đời của 2 giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở
những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị,
áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân)
với giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất xã hội Việt
Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai
nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền
dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó chống đế quốc,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
AI

. Sự vận dụng của Đảng vào việc đánh giá tình hình phát triển giáo dục – đào


tạo ở Việt Nam
Giáo dục - đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị của
mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của quốc gia, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Trải qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, chính trị xã hội ổn định, kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, các lĩnh vực văn hóa, khoa học kĩ thuật, giáo
dục, quốc phịng an ninh đều có bước phát triển vượt bậc, trong đó lĩnh vực giáo dục,
đào tạo ln được Đảng ta quan tâm, chú trọng phát triển. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của nước ta đang diễn ra trong bối
cảnh hết sức phức tạp, nhiều cơ hội nhưng cũng khơng ít thách thức, trong đó đáng chú
ý là sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công


nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, kinh tế tri thức có vai trị ngày
càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản xuất, tính cạnh tranh ngày càng
căng thẳng giữa các quốc gia, có thể nói hàm lượng chất xám “giữ vai trị quyết
định nhất đối với sự phát kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”,
quốc gia nào càng mạnh về đội ngũ nhân lực, càng tiên tiến về khoa học cơng nghệ,
thì càng dễ dàng phát triển, ngược lại sẽ dễ dẫn đến nguy cơ tụt hậu. Trong bối cảnh
đó, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, trên cơ sở đánh giá tồn diện, sâu sắc
tình hình trong và ngồi nước, những thành tựu, hạn chế trong phát triển giáo dục,
đào tạo thời gian qua, Đảng ta đã xác định để phát triển đất nước, tiến lên chủ nghĩa
xã hội, yếu tố có vai trị hết sức quan trọng là xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, coi phát triển giáo dục - đào tạo là ưu tiên hàng đầu . Đảng đã đề ra chủ
trương, đường lối phát triển giáo dục, đào tạo với những mục tiêu, phương hướng,
nhiệm vụ cụ thể.
So với yêu cầu phát triển , nền giáo dục của ta còn nhiều yếu kém. Cho đến
nay, mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy mô giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài chưa được chú trọng

đúng mức.
Chất lượng và hiệu quả giáo dục cịn thấp. Trình độ văn hoá, nghề nghiệp,
năng lực thực hành, hiểu biết về xã hội, nhân văn của học sinh còn yếu. Một bộ
phận đáng kể học sinh yếu kém về nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống. Thể lực
học sinh giảm sút. Số học sinh, sinh viên khá giỏi, xuất sắc có tăng lên nhưng số
học sinh yếu kém, chất lượng thấp lại tăng nhanh hơn. Con người được đào tạo
thường thiếu năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế - xã hội đang đổi mới.
Học sinh, sinh viên tốt nghiệp khó tìm việc làm.
Giáo dục trung học, giáo dục bổ túc đều giảm sút. Quy mô giáo dục đại học
và chuyên nghiệp còn nhỏ bé. Giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khó
khăn suy giảm nhiều so với 10 năm trước đây.


Đại bộ phận đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo và bồi dưỡng tốt, bất cập
với yêu cầu đổi mới giáo dục. Đời sống của giáo viên khó khăn, nhiều người phải
làm thêm, "dạy thêm" để sinh sống. Truyền thống tơn sư trọng đạo bị xói mịn, vị trí
xã hội của người thầy bị hạ thấp. Ngành giáo dục không thu hút được người giỏi.
Hệ thống các trường sư phạm rất yếu, chất lượng thấp. Tình trạng yếu kém của đội
ngũ giáo viên và hệ thống trường sư phạm rất đáng lo ngại.
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn bất hợp lý. Cơ sở vật chất kỹ thuật
của các trường rất nghèo nàn, nhiều trường sở xuống cấp nghiêm trọng, thiết bị thí
nghiệm, nghiên cứu khoa học thiếu thốn và lạc hậu.
Công tác quản lý giáo dục chuyển biến chậm; sự phân công, phân cấp trách
nhiệm, quyền hạn giữa các ngành, các cấp còn chưa hợp lý. Việc sử dụng và quản
lý các nguồn đầu tư cho giáo dục cịn ít hiệu quả, chưa tập trung vào những hướng
ưu tiên. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp thiếu được đào tạo, bồi dưỡng.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng yếu kém và giảm sút nói trên là:
Bản thân ngành giáo dục chậm đổi mới về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung
và phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lý nhà nước.


Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và xã hội chưa nhận thức đầy đủ vai
trò, tác dụng của giáo dục, chưa kịp thời đề ra các chủ trương và giải pháp có hiệu
quả để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển.
Kinh tế chậm phát triển, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục còn có hạn,
dân số tăng nhanh, gây nhiều khó khăn lớn cho sự phát triển giáo dục.


Kết luận
Xã hội Việt Nam khoảng thời gian từ năm 1858 đến 1945 tức sau khi Pháp
xâm lược. Đánh dấu sự xuất hiện của phương thức sản xuất mới, sự thất bại của
triều Nguyễn và kết quả hình thành một xã hội mới – xã hội mà người nông dân
phải chịu cảnh “một cổ hai trịng”.
Dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp, tính chất của nền kinh tế và xã hội
VN có những biến đổi. Nền kinh tế VN từ một nền kinh tế phong kiến độc lập đã
trở thành một nền kinh tế mang tính chất tư bản thực dân và một phần phong kiến.
Sự biến đổi tính chất nền kinh tế đã quy định sự biến đổi tính chất của xã hội. Xã
hội Việt Nam từ một xã hội phong kiến độc lập đã biến đổi thành xã hội thuộc địa
nửa phong kiến: trong đó các giai cấp và tầng lớp trong xã hội bị phân hoá sâu sắc,
kéo theo sự biến đổi của các mâu thuẫn đối kháng.
Tính chất xã hội thay đổi: từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến. Kết cấu xã hội thay đổi: các giai cấp trong xã hội cũ
bị phân hoá sâu sắc, bên cạnh đó xuất hiện những giai cấp mới.( Giai cấp nông dân,
địa chủ phong kiến , tư sản , tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp công nhân)


Tài liệu tham khảo
[ 1 ] . Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
[ 2 ] . Đỗ Mười ( 2021 ) , “ Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư BCHTW
Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, ngày 14/01/1993”


Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam .
[ 3 ] . Kho tư liệu lịch sử
[ 4 ] . Tạp chí Cộng sản ( 2021 ) , “ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quản lý
giáo dục ở Việt Nam hiện nay ” , Cổng thông tin điện tử Bộ văn hóa thể thao và du
lịch



×