MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU
1.
CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1.
1. 2.
Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ đến sự phát
triển xã hội
2.
SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG NGHỊ
QUYẾT TRUNG ƯƠNG VI KHÓA XI
2.1.
2.2.
Khái quát quá trình trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta
Sự nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong nghị quyết trung ương
VI khóa XI “về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Phrangxit Bêcơn đã nhận định rằng” “tri thức là sức mạnh”, C.Mác cũng
từng nói: “khoa học là tinh hoa của tiến trình phát triển chung của lịch sử. Hơn
thế nữa, đó là địn bẩy mạnh mexcuar lịch sử, là một lực lượng cách mạng theo ý
nghĩa chính xác nhất của từ đó”. Sự thực là, sự phát triển cúa tính chất bùng nổ
của lực lượng sản xuất trong những năm gần đây, dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chứng minh cho những luận điểm trên.
Với Việt Nam, khoa học và công nghệ chiếm một vị trí đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhất là khi lịch sử để lại
cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, lực lượng sản xuất thấp kém, việc ứng dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
đưa nước ta sớm bước qua giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, trước ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa trở thành xu thế chủ đạo của thế
giới, kéo các quốc gia xích lại gần nhau, dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, các quôc gia kém phát triển có thể tranh thủ đi tắt đón
đầu trong chiến lược phát triển của quốc gia mình thơng qua ứng dụng những
thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, do đó, mọi chiến lược phát triển cho
bất kỳ quốc gia nào khơng thể khơng tính đến sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại.
Xác định rõ tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, từ rất sớm, Đảng và
Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa học, kỹ
thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng
ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng của khoa học
và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong đó, nghị quyết trung
ương VI khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW) về phát triển khoa học và cơng nghệ
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là một trong những minh chứng
rõ ràng nhất về sự vận dụng lý luận vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Trên cơ sở nghị quyết trung ương VI, nhiều chính sách đã được ban hành, tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đất nước hướng đến mục tiêu năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Dưới phạm vi bài tiểu luận, tôi tập chung luận giải một số vấn đề chung nhất
về cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại (bản chất, đặc điểm, xu hướng biến
đổi...) từ đó, vận dụng vào nhận thức, đánh giá những nội dung chủ yếu trong nghị
quyết trung ương VI khóa XI của Đảng ta
1. CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1. Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật vận động phát triển của
tự nhiên, xã hội và con người được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm
nghiệm, thể hiện bằng những khái niệm, phạm trù, phán đoán, học thuyết. Tuy
nhiên nếu chỉ xem khoa học đơn thuần là hệ thống tri thức thì chưa bao hàm hết
khái niệm. Bởi khoa học còn là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, về bản chất
cốt lõi là hệ thống tri thức. Với tư cách là hệ thống tri thức, thiên chức của khoa
học là đi tìm chân lý khách quan (một trong ba giá trị vĩnh hằng mà con người
ln tìm kiếm). Cũng với tư cách là hệ thống tri thức, khoa học trở thành cơng
cụ nhận thức, có vai trị vơ cùng quan trọng trong cải tạo thực tiễn. Chính từ nhu
cầu địi hỏi của thực tiễn xã hội, chính nhu cầu của thực tiễn xã hội trở thành
động lực thúc đẩy thực tiễn xã hội.
Công nghệ là tổng thể tri thức, thông tin, phương pháp và thiết bị kỹ thuật được
áp dụng vào sản xuất, tổ chức quản lý tạo ra những sản phẩm
có
tính
năng
vượt trội và có giá trị cao phục vụ đời sống con người. Kỹ thuật là tổng thể những
thiết bị sản xuất và những thủ thuật thao tác kỹ thuật trong quá trình sản xuất.
Sự thống nhất của khoa học và công nghệ dẫn đến cuộc cách mạng khhoa
học và công nghệ hiện đại.
Ngay từ thế kỷ XVII, khoa học từng bước đưa ngành trồng trọt, chăn nuôi trở
thành cốt lõi của nền kinh tế nông nghiệp, phát triển chủ yếu dựa vào tài nguyên
thiên nhiên. Từ đó đã có hai cuộc cách mạng cơng nghiệp nổ ra nhờ sự phát triển
vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra đầu
tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50
đầu thế kỷ XX với nội dung chủ yếu là cơ khí hố, thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai cịn gọi là cuộc
cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ
XX và nhanh chóng làm nên sự thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị và xã hội toàn cầu.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại được mở đầu bằng công
nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là nhân tố cốt lõi của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn phát triển mới về chất của sản
xuất trong đó, hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công
nghệ thông tin bao gồm từ phần cứng như chế tạo các vi mạch điện tử các máy
tính, siêu máy tính... các dây truyền sản xuất tự động hóa, các thiết bị ngoại vi
cho đến các phần mềm ứng dụng, phần mềm tự động hóa. Một phần quan trọng
nữa phải kể đến là các mạng viễn thông, mạng intenet đã trở thành hệ thống
huyết mạch quan trọng trong nền kinh tế , văn hóa, xã hội.
Kế đến là công nghệ sinh học, đây là bước đột phá vào thế giới đầy bí ẩn
của sự sống. Nó bắt đầu việc khám phá ra các phần tử hình xoắn kép (ADN).
Cơng nghệ cao này tạo ra một tiềm năng vô tận cho sản xuất các loại lương thực,
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, và các vật liêu công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu
của con người.
Cùng với công nghệ sinh học, công nghệ thông tin là một loạt các công
nghệ cao khác: công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng hàng không vũ
trụ... nhiều loại năng lượng mới với các tính năng ưu việt khơng thể tìm thấy
trong tự nhiên đã được tạo ra: vật liệu tổ hợp, vật liệu compozit, các chất bán
dẫn... nhiều nguồn năng lượng mới được tạo ra thay thế các nguồn năng lượng
tự nhiên xắp cạn kiệt, đặc biệt là năng lượng nguyên tử, đáng chú ý là công
nghiệp hàng không vũ trụ với triển vọng đưa con người đến với các hàng tinh
khác trong vũ trụ...
Vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại chuyển sang giai đoạn mới- giai đoạn đã và đang có nhiều quan điểm
khác nhau khi đặt tên gọi cho nó. Có người cho rằng đó là giai đoạn cơng nghiệp
siêu dẫn; có ý kiến cho là giai đoạn vi điện tử; ý kiến khác lại cho là giai đoạn tin
học hoá; các nhà tương lai học gọi là giai đoạn văn minh trí tuệ, và theo họ nền văn
minh này diễn ra sau nền văn minh nông nghiệp và nền văn minh công nghiệp.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ là bước nhảy vọt về chất của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, tạo ra quá trình tự động hóa sản xuất, mở ra
thời đại mới cho sự tiến bộ của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghiệp năng lượng mới.
Về thực chất cách mạng khoa học và công nghệ là bước nhảy vọt về chất của lực
lượng sản xuất xã hội, mở ra hướng chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
kinh tế tri thức, từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ, dựa trên
cơ sở biến tri thức thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách mạng khoa học và
công nghệ là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, mặt khác swk phát
triển của khoa học tạo ra bước nhảy trong sự khám phá tri thức. Khoa học và
công nghệ không phải chỉ là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản dù nó nảy
sinh phát triển trong lịng xã hội tư bản, cũng không phải là sản phẩm thuần túy
của các nhà khoa học mà là sản phẩm phát triển của tri thức nhân loại. Hiện nay,
chủ nghĩa tư bản là trung tâm quyền lực khoa học và công nghệ của thế giới.
Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
Tri thức khoa học và thành tựu công nghệ phát triển nhảy vọt, rút ngắn
thời gian thực hiện ý tưởng khoa học và vịng đời các thế hệ cơng nghệ. Khối
lượng tri thức khoa học lồi người tích lũy trong thế kỷ XX và những năm gần
đây gấp cả nghìn lần tri thức của lồi người trước đây. Từ ý tưởng khoa học đến
công nghệ và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất được rút ngắn, vòng đời của
những tri thức công nghệ cũng diễn ra nhanh dễ thấy qua công nghệ kỹ thuật số,
công nghệ truyền thông thay đổi theo từng ngày... Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ rút ngắn nhanh chóng q trình biến khoa học và công nghệ thành lực
lượng sản xuất, làm cho khoa học và công nghệ phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội
càng nhanh hơn, tốt hơn. Nếu từ khi phát minh ra máy hơi nước đến khi nó được
ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vận tải, phải mất tới hơn 100 năm. Còn việc phát
minh ra động cơ đốt trong, đến khi ứng dụng nó,cũng phải mất đến 80 năm. Việc
tìm ra và ứng dụng năng lượng nguyên tử cũng phải cần đến 40 năm. Đến vô tuyến
truyền hình, mức độ phức tạp hơn rất nhiều, nhưng q trình đó chỉ có 14 năm.
Máy tính điện tử chỉ trong vòng thời gian ngắn (14 năm) đã trải qua 4 thế hệ... Như
vậy, có thể thấy rõ là, từ khoa học chuyển thành sức sản xuất, có xu hướng phát
triển “tăng tốc”.
Mối quan hệ giữa khoa học và cơng nghệ có bước chuyển biến về chất. Khoa
học đặt nền móng cho cơng nghệ mới, cơng nghệ mới lại đặt cơ sở khoa học cho
việc tìm tịi tri thức mới tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học và công nghệ.
Cách mạng khoa học và công nghệ giải phóng con người khỏi q trình
lao động sản xuất trực tiếp, lao động trí lực của con người giữ một vai trị đặc
biệt quan trọng. Khoa học và cơng nghệ trở thành động lực của sự phát triển xã
hội, làm thay đổi quan hệ xã hội.
Xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
trong tương lai sẽ đi sâu khám phá cấu trúc vi mô và vỹ mô (công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ viễn thông...); khoa học xã hội và nhân văn
tập trung nghiên cứu những vấn đề về nền văn minh khoa học và công nghệ, đa
văn hóa, mơ hình xã hội chủ nghĩa; sự tích hợp các ngành khoa học tự nhiên,
công nghệ, khoa học xã hội... nhìn chung, khoa học và cơng nghệ sẽ có những
bước đột phá lớn về trí tuệ nhân tạo, cơng nghệ sinh học, ... tác đihg sâu sắc đến
các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên kinh tế tri thức phổ biến.
Vấn đề khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá
giữa khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế
tất yếu trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và cơng
nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trị quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội
và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày
nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu
khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành
lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ
vào sản xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, q trình nhất thể hố
giữa khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế
tất yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế
giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong
điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì khơng thể
khơng chú trọng hàng đầu vấn đề này.
Trong lịch sử không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Điều này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với
hoạt động nghiên cứu khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển
khai và dự án sản xuất thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và
công nghệ và sản xuất là hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian
dài, người ta chỉ tập trung ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các
viện, trường, sau đó mới tìm cách “gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất.
Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như
sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ
XIX, khoa học vẫn chỉ đóng vai trị gián tiếp trong q trình sản xuất. Mặc dù
vậy, C.Mác với bộ óc thiên tài của mình đã khẳng định, cùng với sự phát triển
của khoa học và công nghệ cũng như sản xuất, xu thế nhất thể hoá giữa khoa
học với sản xuất sẽ trở thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã trở thành hiện thực
khi xuất hiện phổ biến một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản xuất (R&P Research & Production). Nếu như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là các sản
phẩm mang tính lý thuyết, kết quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm thử
nghiệm mang tính khoa học và kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là
các sản phẩm mang tính xã hội và hàng hố, là kết tinh các thuộc tính khoa học,
kỹ thuật, pháp luật, thẩm mỹ... Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất
chính là công nghệ sản xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển
biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế tri thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra
mạnh mẽ hơn. Thông qua nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi
sản phẩm hàng hố ngày một gia tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và
thăng hoa trong mỗi sản phẩm hàng hoá.
1.2. Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ đến sự phát triển xã hội
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển sâu rộng chưa
từng có, trực tiếp tác động vào mọi ngành kinh tế quốc dân, mọi lĩnh vực xã hội của
các nước, và hiện nay nó vẫn đang tiếp tục phát triển, ảnh hưởng tới mọi mặt của
đời sống xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và cơng nghệ liên quan đến
tồn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội với mức độ ảnh hưởng sâu sắc.
Tạo ra nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường
mấy trăm năm qua. Bản chất của kinh tế thị trường là xã hội hóa lao động và sản
xuất ngày càng sâu sắc cả về chiều rộng và chiều sâu, mà giai đoạn lịch sử đầu gắn
liền với chủ nghĩa tư bản. Sau cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ XVIII, nền kinh tế
thị trường hiện đại phát triển đầy biến động và nhanh dần, nó để lại đằng sau những
gì là lỗi thời về cơ sở kỹ thuật, về quan hệ kinh tế, xã hội và thể chế chính trị. Đồng
thời, nó cũng ln phát hiện ra những lực lượng sản xuất mới, những quan hệ kinh
tế, xã hội, chính trị mới để khơng ngừng phát triển. Do đó, kinh tế thị trường khơng
ngừng mở rộng không gian sản xuất và trao đổi, từ phạm vi vùng, miền ra phạm vi
quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất hiện đại khoảng 300 năm qua cho
thấy, sức sống và trình độ phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đều bắt nguồn
từ trình độ xã hội hóa, tạo ra mối quan hệ giữa các nguồn lực xã hội với các nhu
cầu xã hội. Bởi vì, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng có tính chất xã hội thì sẽ
đánh thức mọi tiềm năng về vật chất và trí tuệ của xã hội vào phát triển kinh tế
thị trường. Mức độ khai thác các tiềm năng vật chất của xã hội thể hiện rõ ở quy
mô phát triển của lực lượng sản xuất, còn mức độ huy động và sử dụng tốt các
tiềm năng trí tuệ của xã hội lại là chỉ số về chất lượng và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất hiện đại. Do tương tác thường xuyên giữa các nguồn lực xã
hội với các nhu cầu xã hội nên lực lượng sản xuất hiện đại luôn phát triển.
Sự vận động của lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường cho thấy: mức độ
huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của xã hội có ý nghĩa quyết định mức độ khai
thác và hiệu quả của tiềm năng vật chất của xã hội. Vì vậy, trong các nền kinh tế thị
trường trên thế giới hiện có hai xu hướng phát triển khác nhau:
Một là, những nền kinh tế thị trường dựa chủ yếu vào huy động và sử
dụng tiềm năng trí tuệ của quốc gia và thế giới. Đây là những nước hiện nay đã
bước vào giai đoạn kinh tế tri thức.
Hai là, những nền kinh tế thị trường chủ yếu dựa vào khai thác tiềm năng
vật chất (về tài nguyên và lao động giản đơn). Đây là những nước đang phát
triển và kém phát triển, thường thiệt nhiều trong cạnh tranh thị trường, có nhiều
nguy cơ là "bãi rác" của các nước phát triển trong hợp tác đầu tư nước ngồi.
Nhìn từ chiều sâu của tiến trình lịch sử phát triển nói trên, người ta thấy rõ
vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức. Cùng với quá trình hình thành cơ sở
vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế tri thức là sự hình thành lực lượng lao động mới,
được gọi là lao động tri thức vừa có tính chất chun nghiệp, vừa có tính chất liên
ngành, tiêu biểu cho giai đoạn "khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp".
Hiện nay, cơ sở vật chất - kỹ thuật mới và cơ cấu lao động xã hội mới của
nền kinh tế tri thức vẫn còn vận động trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Nhưng
xét về tiến trình lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội ấy không phải là cơ sở của chủ nghĩa
tư bản, mà của một xã hội hậu tư bản đang lớn mạnh trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Các cuộc khủng hoảng từ nay trở đi không chỉ là khủng hoảng kinh tế- tài chính,
mà thực chất là khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa.
Tác động đến chính trị xã hội
Cách mạng khoa học và công nghệ với những thành tựu to lớn trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội đã tác động mạnh mẽ đến cơ cấu xã hội giai cấp, làm
thay đổi mạnh mẽ cơ cấu xã hội – giai cấp đó là sự phát triển mạnh mẽ của các
giai cấp gắn với những ngành ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và sự
giảm dần giai căp gắn với những ngành truyền thống, sự thay đổi kết cấu xã hội
– giai cấp buộc các quốc gia phải có những điều chỉnh trong chính sách phát
triển của quốc gia mình.
Cách mạng khoa học và cơng nghệ cịn tác động mạnh mẽ đến mơ hình
phát triển của xã hội. Sự ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào phát triển
xã hội, những thành tựu trong quản lý xã hội, tổ chức xã hội, hoạch định chính
sách phát triển xã hội... phản ánh rõ nét mối quan hệ giữa khoa học và công
nghệ với đời sống xã hội. Đồng thời, cách mạng khoa học và công nghệ cũng
tạo cơ hội và thách thức cho các quốc gia dân tộc trên con đường phát triển của
mình thơng qua q trình tồn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa...
Tác động đến lĩnh vực quân sự: Làm thay đổi mạnh mẽ các mặt của hoạt
động quân sự từ việc tạo ra tThế hệ vũ khí mới (vũ khí hạt nhận, vũ khí sinh
học, hóa học, vũ khí thông minh...) đến việc thay đổi lý luận quân sư; sự tác
động còn ở chỗ làm thay đổi biên chế, tổ chức mới cũng như phương thức tác
chiến mới. Trong chiến tranh hiện đại, vai trị của vũ khí sẽ đóng một vai trị
ngày càng quan trọng, đặc biệt là lực lượng không quân, hải quân, thông tin...
Tác động đến tư duy, lối sống: Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ làm thay đổi cách tiếp cận, quan niệm, xuất hiện thề giới mạng, nhận
thức toàn cầu, cơng dân tồn cầu... Đạo đức, văn hóa truyền thống có những
thay đổi về quan niệm giá trị, cách sống, lối sống... nhiều giá trị bị biến đổi, xuất
hiện nhiều thang giá trị, chuẩn mực giá trị mới...
2. SỰ NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG NGHỊ QUYẾT
TRUNG ƯƠNG VI KHĨA XI
2.1. Khái qt q trình nhận thức và vận dụng của Đảng ta
Xác định rõ tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, từ rất sớm, Đảng
và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm xây dựng tiềm lực phát triển khoa
học, kỹ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc
tế, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng khẳng định vai trò nền tảng
của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Ngay sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa phải đương đầu với vơ vàn khó khăn. Nhận rõ vai trị của kiến thức
trong bảo vệ độc tập dân tộc và kiến quốc, đảng ta đã nhận thức đúng đắn vị trí
của trí thức trong xã hội mới “trí thức là vốn quý của dân tộc, khơng có trí thức
hợp tác với cơng nơng thì cách mạng khơng thể thành cơng và sự nghiệp xây
dựng một nước Việt Nam mới khơng hồn thành được.
Hịa bình lập lại năm 1954, đất nước chia làm 2 miền, lần đầu tiên trong văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định vai trò của khoa học công nghệ
trong sự nghiệp xây dựng đất nước “khoa học và kỹ thuật là một điều kiện không
thể thiếu được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tháng 9/1960 Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng quyết định: “đưa miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội có cơng nghiệp và cơng nghiepej hiện đại, văn hóa và khoa học
tiên tiến”. Phát triển luận điểm của đại học lần thứ III, Hội nghị Ban chấp hành
trung ương Đảng lần thứ 10 đã chỉ rõ: “chúng ta phải đẩy mạnh cách mạng về
quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng. Các mặt nói
trên phải đồng thời được tiến hành, khơng thể xem nhẹ mặt nào, song phải tập
trung sức đẩy cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, nhằm từng bước trang bị
cơ khí và nửa cơ khí cho các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành sản
xuất chủ yếu tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Tháng 2/1967 trong lúc chiến tranh phá hoại ác liệt đang diễn ra ở miền
bắc, ban Bí thư trung ương Đảng ban hành nghị quyết 157-NQ/TW “về tăng
cường công tác khoa học bà kỹ thuật trong tình hành và nhiệm vụ mới”. Ngày
24/8/1981 Bộ chính trị có nghị quyết số 37 – NQ/TW về chính sách kha học và
kỹ thuật” trong đó thể hiện một quan điểm “cần khẳng định rằng trong điều kiện
kinh tế càng khóa khăn, trình độ kỹ thuật của sản xuất càng thấp kém thì càng
phải chú trọng đầu tư cho các khoa học và kỹ thuật, cho công tác đào tạo cán bộ
khoa học và công nhân kỹ thuật – đó là con đường góp phần nhanh chóng nâng
cao năng xuất lao động xã hội và giải quyết triệt để những khó khăn trong sản
xuất và trong nền kinh tế hiện nay.
Tháng 3/1982 Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu rõ phương hướng nhiệm
vụ và nhwungx mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội năm 1981 – 9185, trong
đó nhấn mạnh “trước hết khoa học và kỹ thuật phải phục vụ tốt nhất cho việc
đưa công nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cơ cấu công –
nông nghiệp hợp lý” đối với nhiệm vụ lâu dài của khoa học và công nghệ Nghị
quyết đại hội lần V đã chỉ rõ: “xây dựng từng bước nền khoa học lỹ thuật tiên
tiến của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có cơ cấu phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội có khả năng giải quyết những yêu
cầu trước mắt và những mục tiêu lâu dài của nền sản xuất, đời sống và quốc
phịng, đón trước và mở cửa cho nền kinh tế và xã hội những phương hướng
phát triển mới, chú trọng phát triển những ngành khoa học và kỹ thuật gắn liền
với thế mạnh về tài nguyên, điều kiện nhiệt đới và con người Việt Nam”.
Đại hội lần thứ VI (12/1986) đã mở ra một bước ngoặt trong sự nghiệp
cách mạng nước ta, đề ra đường lối đổi mới mà trước hết là lĩnh vực kinh tế. Đại
hội khẳng định: khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước. Tháng 6/1991 Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định “khoa học và công nghệ, giáo dục – đào tọ phải được xem là quốc
sách hàng đầu”. Đảng còn chỉ ra phương hướng cụ thể cho khoa học và công
nghệ “hoạt động khoa học và công nghệ phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các
quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý là công cụ chủ yếu để
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội
góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, thúc đẩy cơng cuộc đởi
mới tồn diện đất nước”.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991),
Đảng ta khẳng định: “khoa học và cơng nghệ giữ vai trị then chốt trong sự phát triển
lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Các chiến lược khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Sử dụng có
hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển
đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển
giáo dục và văn hóa, nâng cao dân trí” Trước đại hội VII, Nghị quyết 26 của Bộ
Chính trị 30-3-1991 “về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới” đã
khẳng định rõ quan điểm của Đảng ta về vai trị quan trọng của khoa học và
cơng nghệ trong việc đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh
tế - xã hội, Đảng thùa nhận đội ngũ cán bộ khoa học là lực lượng nòng cốt của
công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm 1996, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hội nghị lần
thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã thơng qua Nghị quyết về:
“Định hướng chiến lược phát triển khoa học và cơng nghệ trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Trong bối cảnh đất nước
vừa bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội , nhưng Việt Nam vẫn còn là một
trong những nước nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất
lao động, hiệu quả sản xuất - kinh doanh thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật cịn lạc
hậu, Nghị quyết Trung ương 2 (khố VIII) ra đời đã định hướng và tạo cơ sở
quan trọng cho sự phát triển của nền khoa học và công nghệ nước nhà, từng
bước phát huy vai trò động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội IX, X Đảng ta tiếp tục kế thừa và phát triển quan điểm về vai trò
mục tiêu, phương hương phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi bàn đến vai trị
của khoa học và cơng nghệ hiện đại, Đảng ta nhấn mạnh: “khoa học và cơng nghệ
giữ vai trị then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài
nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và
sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và cơng nghệ nhằm mục tiêu đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ
gắn với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả
tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả
các thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ
chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng
khoa học và cơng nghệ”
Có thể nói, xun suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn các vấn đề về vai trò khoa học và công
nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, có vai trị quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng những mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng phát
triển khoa học và công nghệ phù hợp với tình hình thực tiễn góp phần to lớn vào
những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được quan gần 30 năm đổi mới.
2.2. Sự nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong nghị quyết trung
ương VI khóa XI “về phát triển khoa học và cơng nghệ phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”
* Những bối cảnh tác động đến phát triển khoa học và công nghệ
Phát triển khoa học – công nghệ trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi yêu cầu rất cao về nguồn nhân lực có
năng lực về thị trường, về kinh doanh, về đổi mới và sáng tạo khoa học - công
nghệ, sản phẩm mới. Đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới trong phát triển giáo
dục – đào tạo và khoa học - công nghệ nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục, giải quyết vấn đề cạnh tranh
trong giáo dục, thương mại hoá giáo dục, công bằng giáo dục, phúc lợi xã hội
trong giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học
– công nghệ, đào tạo và sử dụng nhân tài.
Phát triển khoa học – công nghệ trong bối cảnh đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nêu rõ: "Muốn tiến hành cơng nghiệp
hố, hiện đại hố thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững"1. Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển mạnh
khoa học, cơng nghệ làm động lực đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, phát triển kinh tế trí thức, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh, bền vững của đất
nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp và tăng trưởng” 2. Như
vậy, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ phải được coi là nền
tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố thắng lợi.
Phát triển khoa học – cơng nghệ trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ trong thời kỳ tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ.
Cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ trong thời kỳ tồn cầu hoá đã và
đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh
khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút ngắn.
Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về khoa học công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và cơng nghệ mới ra đời địi hỏi q
trình giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt đời để người lao
động có thể thích nghi được với những biến đổi mới của khoa học - công nghệ.
Giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ phải được "chuẩn hoá", "hiện đại
hoá", và hội nhập quốc tế.
* Những quan điểm cơ bản của Đảng về khoa học và cơng nghệ theo
tinh thần nghị quyết trung ương VI khóa XI
Trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước cịn
nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực, tâm
1
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCHTWƯ khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.19.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.218.
huyết của đội ngũ các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và nhân dân,
khoa học và công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết
thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về mục tiêu tổng quát phát triển khoa học và công nghệ: “Phát triển mạnh
mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực
quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi
trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”.
Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ
thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh
tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
Về quan điểm phát triển khoa học và công nghệ:
Một là, vai trị của khoa học và cơng nghệ: “Phát triển và ứng dụng khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng
nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu
tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp”.
Khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu có nghĩa là chủ trương, chính sách
phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội cũng như bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa
vào khoa học công nghệ và thực hiện bằng khoa học cơng nghệ. Chỉ có phát triển
khoa học cơng nghệ, chúng ta mới phát triển được kinh tế - xã hội, giữ vững được độc
lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để khoa học và công nghệ nhanh
chóng phát huy được vai trị là nền tảng và động lực đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước, Nhà nước cần có chính sách quan tâm đặc biệt đến phát triển khoa
học và công nghệ: coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư phát triển; ưu tiên
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực; tạo động lực vật
chất và tinh thần mạnh mẽ cho cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ, trọng dụng
và tôn vinh nhân tài. Đảng và Nhà nước cần dành ưu tiên cao nhất cho phát triển khoa
học cơng nghệ trên các mặt chính sách, ngân sách và cán bộ, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để phát triển nhanh khoa học- công nghệ.
Hai la, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công
nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của
các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Ba là, Đầu tư cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền
vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có
chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
Bốn là, Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học
và công nghệ
Năm là, Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và
công nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và cơng
nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên
cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác
quốc tế về khoa học và công nghệ phải được đẩy mạnh nhằm khai thác những cơ hội
mà tồn cầu hố có thể mang lại. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần lấy nhập
công nghệ từ các nước phát triển là chủ yếu nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu phát
triển của các ngành kinh tế - kỹ thuật; đồng thời nâng cao năng lực khoa học và công
nghệ nội sinh để tiếp thu có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của
thế giới. Đổi mới cơ chế quản lý nhằm khai thác tối đa năng lực khoa học và cơng
nghệ hiện có trong nước, vừa tranh thủ tiếp thu, ứng dụng nhanh chóng và có hiệu
quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến của thế giới.
Nhiệm vụ và giải pháp phát triển khoa học và công nghệ
Một là, Đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ
Hai là, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động
khoa học và công nghệ
Ba là, Triển khai các định hướng nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu
Tăng cường nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ hoạch định đường lối,
chính sách phát triển đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh và mục đích cơng
cộng; Ưu tiên phát triển một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên
ngành; Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ trong các ngành,
lĩnh vực, vùng, địa phương;
Bốn là, Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia.
Phát triển nhân lực khoa học và công nghệ. Nâng cao nhận thức về vai trị, vị trí
của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa
học và công nghệ nhằm giải phóng tiềm năng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
Năm là, Phát triển thị trường khoa học và cơng nghệ. Đẩy mạnh đổi mới cơ
chế và chính sách kinh tế - xã hội nhằm tạo nhu cầu ứng dụng thành tựu khoa học
và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động
của thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới
thị trường khoa học và công nghệ.
Sáu là, Hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. Đa dạng hố
đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, lựa chọn đối tác
chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về khoa học và cơng nghệ với hợp tác
quốc tế về kinh tế...
Có thể khẳng định, trong quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng ta
ln nhận thức và đánh giá đúng vai trị của khoa học và cơng nghệ trong phát triển
xã hội, đảng ta đã kịp thời đưa ra những quan điểm chỉ đạo, những phương hướng
phát triển khoa học và công nghệ phù hợp yêu cầu của thực tiễn. Để thực hiện
thắng lợi mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam cần tập trung một số nội dung:
Thứ nhất, ưu tiên phát triển nguồn nhân tài chất lượng cao, chú trọng việc
vận dụng kiến thức, kinh nghiệm khoa học của đội ngũ trí thức trong việc đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học và công nghệ. Trọng tâm là giáo
dục và đào tạo ở bậc đại học phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ giảng dạy và
nghiên cứu khoa học, trong đó ưu tiên đầu tư ngân sách cho các ngành khoa học
mũi nhọn, những cơng trình nghiên cứu cấp quốc gia, quốc tế, những cơng trình
ứng dụng có hiệu quả kinh tế cao. Các viện nghiên cứu và các trung tâm khoa
học có sự liên thơng, liên kết chặt chẽ trên phạm vi cả nước, nhằm khai thác triệt
để sức mạnh tổng hợp của nguồn chất xám. Cần cải cách giáo dục theo hướng
tích cực nhằm rút ngắn thời gian đào tạo và trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học.
Thứ hai, phát huy có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nhân tài. Việc
thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ quan trọng, trong đó không chỉ ở
các cơ quan Trung ương, mà ở các địa phương cũng cần phải có kế hoạch sử
dụng nhân tài, công khai mời gọi và lựa chọn nhân tài khoa học và cơng nghệ
tiên tiến trong và ngồi nước. Chú ý đến việc xây dựng những tập thể và nhóm
nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ. Quan tâm và sử dụng có hiệu quả các nhà
khoa học tài năng ngồi Đảng vào các vị trí then chốt trong bộ máy chính quyền.
Điều đó cần thấu triệt trong cả nhận thức và hành động, khắc phục tình trạng lâu
nay, ở khơng ít nơi chỉ nói lý thuyết sng, chứ chưa thực sự thực hiện.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, chú trọng vào việc
việc ứng dụng, sáng tạo công nghệ cao làm động lực cho đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức. Đã từ lâu, chúng ta quan tâm tới việc
phát triển khoa học và công nghệ, song trong lĩnh vực công nghệ chúng ta chưa
tập trung vào việc ứng dụng và sáng tạo, phát triển cơng nghệ cao. Vì vậy, trong
thực tế, một mặt, chúng ta không tạo được động lực cho phát triển, mặt khác, với
việc ứng dụng công nghệ lạc hậu, một hậu quả tất yếu là sẽ cản trở quá trình
CNH, HĐH đất nước; cản trở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kìm hãm sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đã đến lúc cần phải “tuyên chiến” với công nghệ lạc hậu
và chỉ chấp nhận nhập khẩu, ứng dụng và đầu tư sáng tạo công nghệ cao đồng
thời với việc sử dụng có hiệu quả những cơng nghệ hiện có. Là nước đi sau, Việt
Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công
nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có.
Trong các lĩnh vực cơng nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông
tin, chúng ta có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Phát triển mạnh
khoa học và công nghệ làm động lực đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri
thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của
yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ
yếu: nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy
mạnh nghiên cứu ứng dụng... Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho
các nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh
nghiệp cho đầu tư phát triển khoa học và công nghệ.
Thứ tư, nghiên cứu đưa các sáng chế khoa học và công nghệ hiện đại vào
sản xuất, phát triển các nhóm ngành cơng nghiệp cơ khí, điện tử - công nghệ
thông tin, chế biến tinh lương thực - thực phẩm có hàm lượng khoa học và cơng
nghệ và giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong đó, chú ý nghiên cứu đưa tiến bộ
khoa học và công nghệ sinh học vào phát triển nông nghiệp theo hướng nông
nghiệp tri thức, xây dựng nông thôn mới.
Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
quản lý để cung cấp cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội của đất nước, nhất là các giải pháp trên lĩnh vực về giáo dục, văn
hóa, y tế, xã hội, giảm nghèo bền vững và hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN
Cách mạng khoa học và công nghệ là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, đã và đang làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội, tác động đến
từng quốc gia, từng khu vực buộc mỗi quốc gia, mỗi khu vực phải tính đến trong
chiến lược phát triển của mình. Trong xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa nền kinh tế
thế giới hiện nay, việc ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ
vào sản xuất sẽ là tiền đề để các quốc gia khai thác có hiệu quả những thế mạnh của
mình đồng thời tận dụng được nguồn lực từ bên ngoài trong phát triển đất nước.
Cùng với những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ mang lại
cho con người, nó cũng đặt ra cho xã hội loài người nhiều vấn đề toàn cầu mà mặt
trái của việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mạng lại buộc con người phải
giải quyết đảm bảo sự tồn vong của mình.
Với Việt Nam, cơng cuộc đổi mới mà đảng và nhân dân ta xây dựng đã và
đang đạt được nhiều thắng lợi to lớn một phần là do chúng ta đã đi tắt đón đầu, ứng
dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học cơng nghệ trên thế giới trong phát triển
xã hội. Việc tham gia có hiệu quả vào q trình tồn cầu hóa, quốc tế hóa cho phép
chúng ta có thể chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất, tranh thủ lợi thế cạnh tranh,
từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù vậy, khoa học cơng nghệ Việt Nam vẫn cịn một khoảng cách khá xa
so với sự phát triển chung của thế giới, việc nhận thức và vận dụng quan điểm của
đảng về khoa học và cơng nghệ trong q trình tổ chức và quản lý xã hội cịn bộc
lộ khơng ít bất cập. Trong khi đó, khoa học cơng nghệ khơng ngừng biến đổi như
vũ bão, nhiều tiềm năng tài nguyên, con người Việt Nam chưa được phát huy, đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện nhận thức về khoa học và công nghệ, nhận
thức đánh giá đúng những tác động của nó đến q trình phát triển xã hội mà có
chủ trương định hướng phát triển đúng đắn, khai thác có hiệu quả nhứng tiềm năng
của đất nước, góp phần vào thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin. Nxb
CTQG, H.2003
2. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin. Nxb
CTQG, H.2008
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dùng cho
học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học) ,
Nxb Chính trị - Hành chính, H.2010
4. Nguyễn Duy Bắc (2011), Văn hoá giáo dục Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb
Thời đại, Hà Nội.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011): Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG,
HN.
6. Nguyễn Văn Dân (2008): Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức, Nxb
KHXH, HN.
7. Phạm Văn Dũng (2010): Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt
Nam, Nxb CTQG, HN.
8. Phạm Xuân Dũng (2008): Công nghệ tiên tiến và cơng nghệ cao với tiến
trình cơng nghiệp hố - hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, Nxb CTQG, H.2011
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb CTQG, H.2011
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb CTQG, H.2011
12. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, H.2006
13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, H.2011
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997): Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 - Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VIII), Nxb CTQG, HN
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008): Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 - Ban Chấp
hành Trung ương (khoá XI), Nxb CTQG, HN
16. Hỏi và đáp những vấn đề then chốt nhất của khoa học và công nghệ
(1999), Nxb Thanh niên.
17. Đặng Hữu (chủ biên) (2009): Phát triển kinh tế tri thức gắn với q trình
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN.
18. TS Trần Hồng Lưu (2009): Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, HN.
19. Hồng Đình Phu (1998): Khoa học và cơng nghệ với các giá trị văn hoá,
Nxb Khoa học Kỹ thuật, HN.
20. Samuel Hungtington (2005): Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao
động, Hà Nội.
21. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2010): Kinh nghiệm của một số nước
về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ
trí thức, Nxb CTQG, HN.
22. Alvin Toffler (2007): Đợt sóng thứ ba, Nxb Khoa học Xã hội (KHXH).